Thứ Hai, 25 tháng 5, 2015

Ngày 26/05/1861 Linh Mục Gioan Đoàn Trinh Hoan Tử đạo.


Mộ Phần Linh Mục Gioan Đoàn Trinh Hoan Tử đạo.

Đức Ki-tô đã chết để cứu độ nhân loại, thánh Gioan Đoàn Trinh Hoan đã ý thức cuộc tử đạo là cách noi gương Chúa tuyệt hảo nhất, cha Hoan đã tự nguyện đón nhận nó, cha Hoan bị bắt ngày 03 thánh 01 năm 1861, vào dịp lễ Hiển Linh, dưới thời vua Tự Đức cấm đạo, mặc dù bị tù ngục tra tấn khổ sở. cha Hoan dẫn nhiệt thành giúp đỡ các tín hữu bị gian cầm, như lúc chưa bị bắt, thật cảm động trước một vị linh mục già, mình mang xiềng xích gông cùm, cực nhọc lần bước đến từng người giáo hữu sắp bị giết vì đạo, để an ủi, khích lệ và ban bí tích cho họ, trong suốt 05 tháng bị gian cầm, cha luôn làm như thế. Ch đến ngày ra pháp trường lãnh nhận triều thiên tử đạo
Gioan Đoàn Trinh Hoan sinh năm 1798, tại họ Kim Long, Phú Xuân, Huế, trong một gia đình đạo hạnh, cần mẫn siêng năng. Nhờ ảnh hưởng đạo đức của cha mẹ, cậu đã muốn dâng mình cho Chúa ngay từ nhỏ, được sự giúp đỡ và hướng dẫn của người cậu là cha Kiệt, rồi cậu gia nhập chủng viện và được gởi đi du học ở Pênăng (tức Mã Lai) để tu luyện làm linh mục. Học xong thần học thầy Gioan Hoan về nước được lảnh nhận chức linh mục tại Sài Gòn.
Từ ngày thụ phong linh mục, cha Gioan Hoan hết lòng phụng sự Chúa và nhiệt thành phục vụ Gióa Hội, trong 26 năm linh mục, cha đem hết tài năng sức lực lo cho các tín hữu, và rao giảng Tin Mừng cho lương dân. Thấy cha hăng sai hoạt động tông đồ, Đức Cha sai cha đi giúp nhiều họ đạo, như Kẻ San, Bảy Trời, Mỷ Hương vvv… Tới đâu, cha cũng phục vụ đắc lực và kết quả khả quan. Cha có biệt tài ăn nói rất duyên dáng, nên mọi người đều có cảm tình và quí mến cha.
Ngoài việc phục vụ, cha còn tận tâm cổ động ơn thiên triệu, đào tạo thầy giảng, huấn luyện thanh thiếu niên, và gởi vào chủng viện học tập làm linh mục, vì cha thấy ông việc giảng đạo hết sức khẩn thiết và lớn lao, mà không có người đảm nhận, đứng như lời Chúa Giê-su nói: “ Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít” Là một linh mục nhiệt tâm với nước Chúa, cha không thể không băn khoăn, lo lắng cho có nhiều thợ gặt lành nghề để phục vụ cánh đồng truyền giáo, đó cũng là nỗi bức xúc của những ai có lòng đạo đức kính mến Chúa.
Để chuẩn bị mừng lễ Hiển Linh, đầu năm 1861 cha đến họ đạo Sao Bùn, ở trọ trong nhà ông Trùm Phượng, để thăm viếng, giải tội và dâng thánh lễ cho giáo dân, các quan ở đây biết tin cha đến, đang đêm họ cho binh lính đến bao dây nhà ông trùm Phượng bắt cha. Cha vội vàng chạy ra sông tìm đường trốn, thế là cha bị bắt giải về Đồng Hới, lúc đó cha đã 63 tuổi.

Trong thời gian 05 tháng bị giam cầm tại đây, nhiều lần cha bị đưa ra tra tấn đánh đập rất dã man, có những lần bị binh lính lấy kềm sắt nung đỏ kẹp vào bắp thịt, buộc cha bước qua Thánh Giá và khai tên những người có đạo. Nhưng cha cương quyết giữ vững đức tin và nhất đinh không khai báo, dù bị khổ hình đau đớn đến tận xương thịt, cha cũng rán sức chịu đựng và hết lòng giúp đỡ các tín hữu cùng cảnh tù ngục, những người bị chiến dịch bắt đạo tháng 10 năm 1859, đã gom nhiều chức sắc trong các giáo xứ, vì nhà vua trù tính kế hoạch làm áp lực với quân Pháp, để họ triệt thoái các tàu ở cửa Hàn. Nhờ tài xã giao lịch thiệp cha Hoan đã chiếm được thiện cảm của đám lính canh, hằng ngày cha dùng nhiều thời giờ để an ủi, khích lệ các tín hữu trung thành bền đỗ theo Chúa, và giải tội cho họ. Mỗi khi được nhận Mình Thánh Chúa do các linh mục ở ngoài gởi vào, cha đều phân chia cho họ, nhờ đó họ được sức mạnh can đảm hy sinh vì Chúa.


Ngày 25 tháng 05 năm 1861 cha nhận được bản án trảm quyết, hôm đó cha thức suốt đêm, để thăm viếng khích lệ các bạn tù. Cha Hoan nói; “ Giờ cuối cùng của tôi không còn xa, phần anh em những người con yêu quý, anh em còn ở trên trần gian đau khổ này, anh em hãy trung tín đến cùng. Xin anh em cũng cầu nguyện cho tôi được hoàn thành theo ý Chúa một cách trọn vẹn” và sáng hôm sau cha được dẫn ra pháp trường, khi nghe đọc bản án. Cha nói: “ Con tạ ơn Chúa, vì Ngài cho con được phúc đổ máu vì danh Chúa”. Quan hỏi cha có muốn trói vào cột không. Cha đáp: “ Không cần, tôi sẽ quỳ yên không nhúc nhích. Nếu tôi không tự nguyện nhận cái chết, tôi đã chẳng đến đây, xin cho tôi được vài phút để cầu nguyện” sau đó cha ngước mắt lên trời tạ ơn Chúa, giơ tay giải tội cho ông Phượng và ra dấu sẵn sàng.
Khi cha cỏi áo thấy hai mảnh “ Áo Đức Bà” cha đeo phất phới trước ngực, một người lính tưởng là thứ gì quý giá thì xin. Cha nói: “ Cái này tôi không thể cho ai được, đây là hình ảnh của Đức Nữ Vương và là Bà Chúa của tôi” viên lý hình thấy thái độ dũng cảm của cha, biết cha vô tội nên nhờ lý hình khác, anh lý hình không quen đã phải chém đến 3 nhát, sau đó dùng gươm cứa đứt miếng da còn xót lại.
Noi gương Thánh Đoàn Trinh Hoan tử đạo, hằng ngày hy sinh chịu khó rao giảng đạo Chúa, trong hoàn cảnh thuận tiện cũng như lúc khó khăn, bằng lời cầu nguyện việc hy sinh và gương sáng dời sống.
Đức Thánh Cha Piô X phong chân phước cho cha ngày 02 tháng 05 năm 1909 và ngày 19 tháng 06 năm 1988 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã suy tôn cha lện Hiển Thánh.

Trùm Họ Matthêu Nguyễn Văn Phượng Tử đạo

Lúc lý hình sắp chém đầu Thánh Nhân, 2 người con trai và 1 con gái là chị Thủ đã chạy ra ôm chằm lấy ông, thương khóc thảm thiết, những người có mặt chứng kiến cảnh đó, ai cũng bùi ngùi cảm động không thể cầm được nước mắt, thật là một cảnh chia ly vĩnh biệt  rất đau đớn. Nhưng ông trùm đã can đảm giã từ con cái, sẵn sàng hy sinh tình phụ tử thân thương vì lòng kính mến Chúa, để tôn vinh Danh Thánh Chúa, ông nói với các con: “ Các con của cha ơi đừng buồn đừng khóc làm chi, cha đã gặp vận hội may mắn. Anh em chúng con hãy sống hòa thuận, yêu thương đùm bộc lẫm nhau.” Hẳn ông không quê lời Chúa dạy: “ Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.” Theo lời Chúa phán trên, thánh Matthêu Phượng thật xứng đáng với Chúa, xứng đáng làm môn đệ Chúa, xứng đáng nhận triều thiên tử đạo. Thánh Nhân sẵn sàng hy sinh vĩnh viễn con cái, để chịu chết vì Danh Chúa.
Matthêu Phượng sinh khoảng năm 1808 tại họ Kẻ Lái tỉnh Quảng Bình, cha mẹ là người đạo đức sốt sắng, nên cậu nhờ ảnh hưởng của gia đình mà có lòng đạo sâu xa, cậu rất mến mộ học hỏi gióa lý, siêng năng tham gia thánh lễ, xưng tội rước lễ, như khi mới lên 10 tuổi, cậu phải mồ côi cha và 2 năm sau mồ côi luôn cả mẹ. Cảnh đứa con mới 12 tuổi mà mồ côi cha mẹ thật thảm thương ! Nhưng cậu Phương không ngã lòng, cậu dẫn tin tưởng Chúa, trông cậy Chúa, biết rằng không bao giờ Chúa bỏ cậu, chim chóc ngoài trời kia Chúa không để cho chết đói, huống gì cậu là con của Chúa, cậu quyết tâm lo tự lập sinh sống. Cậu học nghề thuốc với một thầy lang tên là Nhu, ông là người ngoại đạo, như rất có lòng nhân hậu, thấy cậu mồ côi ông thương giúp, dạy dỗ chỉ bảo tận tình, cha cậu nhiều bài thuốc quí.
Sau khi học nghề thuốc, cậu Phượng đến ở giúp việc cha Điểm. Năm ấy cậu 22 tuổi, cha cưới vợ cho cậu ở xứ Sáo Bùn, từ đó cậu về sống theo quê vợ, và chuyển sang nghề buôn bán, vợ chồng làm ăn ngày một phát đạt sung túc, và sinh được 8 người con, trong đó cô thủ dâng mình cho Chúa trong dòng Mến Thánh Giá, mặc dù bận lo mua bán, ông dẫn chăm sóc giáo dục con cái hết sức chu đáo, đặc biệt ông dạy con bằng gương sáng đời sống hằng ngày, muốn con cái làm việc gì tốt lành, ông phải làm gương cho chúng noi theo. Nhờ đó, các con ông sống đạo đức và lương thiện.


Dưới thời Minh Mạng cấm đạo, ông là một trong những tông đồ hoạt động nhiệt thành nhất trong họ đạo Sáo Bùn, nên được giáo dân chọn làm trùm họ. Trong lúc thiếu vắng linh mục, ông dạy đạo và rửa tội cho trẻ em cũng như người lớn, ông khích lệ đồng bào sốt sắn thờ phượng Chúa, ông khuyên bảo người lương gia nhập đạo Chúa. Mỗi khi có linh mục đến ông tiếp đón về nhà, tận tình phục vụ, che chở, nhiều người e ngại như ông chỉ mỉm cười và tiếp tục làm việc bác ái như trước.
Đầu năm 1861khi cha Đoàn Trinh Hoan đến họ Sáo Bùn, giúp giáo dân chuẩn bị mừng lễ Hiển Linh, ông rước cha về, tiếp đãi nồng hậu như các cha khác. Chẳng may đêm đó quân lính bao vây nhà ông tìm bắt cha. Cha chạy trốn ra bờ sông nhưng cũng bị bắt, họ cũng bắt luôn ông cùng 7 giáo hữu khác giải về Đồng Hới. Ở tại Đồng Hới nhiều lần ông bị đưa ra tra tấn đánh đập dã nan buộc ông chói Chúa bỏ đạo, nhưng ông cương quyết không bỏ Chúa, trong số các quan án, có viên lục sự trẻ tuổi, đem lòng yêu mến con gái ông, y hứa: “ Nếu gả con gái cho tôi, tôi hứa hết sức lo cho ông được tự do” ông trùm đáp: “ Không được đâu, trừ khi chính anh theo đạo. Tôi không gả con gái cho người ngoại đạo, dù anh là ông ký hay quan đi nữa, tôi sợ nó không giữ mãi được đức tin. Nếu gì lý do đó mà phải chết tôi sẵn sàng.”
Vào ngày 25 tháng 05 năm 1861, bản án triều đình Huế đã về tới Đồng Hới. Ông Trùm Phượng vui vẻ đi chào từ biệt các bạn tù, để hôm sau cùng với cha Hoan ra pháp trường.
Thế là ngày 26 tháng 05 năm 1861, ông được đưa ra pháp trường, lãnh nhận triều thiên tử đạo, một người cầm bản án đi phía trước: “ người này tên Nguyễn Văn Đắc, tức Phượng, là tín đồ Giatô, kẻ dám đang tâm bao che cho đạo trưởng Hoan, vi phạm luật nhà nước, là một trọng tội, phải đem xử trảm tức khắc”. Những người con thân yêu của ông đến tiển biệt ông trong nước mắt, nhưng ông can đảm an ũi họ, sau đó lý hình đuổi tất cả ra ngoài. Ngay sau khi tiếng chuông bắt đầu đổ lên, đầu vị tử đạo rơi xuống đất, và linh hồn vị anh hùng đức tin về hưởng nhan Thiên Chúa muôn đời.
Đức Thánh Cha Piô X phong chân phước cho ông ngày 02 tháng 05 năm 1909 và ngày 19 tháng 06 năm 1988 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã suy tôn cha lện Hiển Thánh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét