Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014

Thánh Maria Mẹ Thiên Chúa Lễ trọng.



Lời Chúa: Các người chăn chiên gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi. Được đủ tám ngày, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su.
      Khi ấy, các người chăn chiên hối hả ra đi đến Bê-lem. Họ gặp bà Maria, ông Giuse cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ kể lại điều họ đã được nghe nói về Hài Nhi này. Tất cả những ai nghe đều ngạc nhiên về những gì các người chăn chiên nói cho biết. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghỉ lại trong lòng. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được tai nghe mắt thấy theo như họ đã loan báo.

        Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.


SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
        Tên Maria của Đức Mẹ được thánh Bênađô giải thích là Ngôi sao biển: Như ngôi sao toả ra các tia sáng mà không bị lu mờ, Mẹ Maria là người Trinh Nữ sinh một hài nhi nam là Đức Giêsu, mà không thiệt hại gì về sự trinh khiết vẹn toàn. Nơi Mẹ Maria cô đọng tất cả sự dịu dàng của phái nữ, tích tụ tất cả vẻ đẹp của vũ trụ. Mẹ Maria là hiện thân của sự Duyên Dáng: sự hoà hợp của những đường nét thanh tao, sự chiếu toả của ánh sáng đôi mắt, sự dịu dàng của nụ cười trên môi.
       Thể xác Mẹ Maria xinh đẹp, nhưng tâm hồn của Mẹ còn đẹp gấp nhiều lần. Mẹ là tác phẩm đẹp nhất của Chúa Thánh Thần. Tâm hồn Mẹ trong trắng tinh tuyền, Mẹ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Có thể ví tâm hồn Mẹ với cây đàn hoàn toàn rung theo bàn tay nghệ sĩ là Chúa Thánh Thần. Tâm hồn Mẹ như bài thánh ca tuyệt diệu làm cho Thiên Chúa thích thú và vui sướng. Mẹ là Đấng đầy Hồng Phúc, tràn trề Thiên Ân. Maria là Mẹ của Chúa Giêsu là Đấng Thiên Ân Nhập Thể. Maria vừa là Mẹ, vừa là trinh nữ. Việc làm Mẹ của Maria có một bản chất đặc biệt: người con của Mẹ được thụ thai nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, và Đấng Thánh sinh ra được gọi là Con Đấng Tối Cao. Một Vị Thiên Chúa Nhập Thể làm người nơi thân xác của một trinh nữ chỉ thực hiện được do công trình của Thiên Chúa, và đó là Việc Kỳ Diệu lớn nhất của Thiên Chúa cũng như Kỳ Công Phục Sinh Chúa Giêsu từ cõi chết. Là thành viên của gia đình nhân loại, là người thiếu nữ xinh đẹp được sinh ra bởi hai ông bà Gioakim và Anna, Mẹ Maria cũng là thành viên của gia đình Thiên Chúa, vì Mẹ đã trở thành Mẹ Thiên Chúa trong thời gian và trong cõi vĩnh hằng. Sinh ra Chúa Giêsu, Mẹ Maria vĩnh viễn là Mẹ Chúa Giêsu; mà Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Mẹ Maria vĩnh viễn là Mẹ Thiên Chúa.
       Ước gì tên Maria mãi mãi ở trên môi miệng của chúng ta và đừng bao giờ rời bỏ trái tim chúng ta. Mẹ yêu chúng ta, chúng ta yêu Mẹ, chúng ta yêu thương nhau vì là con cùng một Mẹ. Chúng ta hãy xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, nhưng cũng đừng quên noi gương của Mẹ. Bước theo Mẹ, chúng ta không bao giờ lạc lối; cầu nguyện với Mẹ, chúng ta không thất vọng bao giờ; tham khảo ý kiến của Mẹ, chúng ta sẽ không sai lầm. Mẹ nâng đỡ, chúng ta không dễ dàng sa ngã; Mẹ chở che, chúng ta không phải sợ gì; Mẹ đưa dẫn, chúng ta không còn mệt mõi; Mẹ nhậm lời, chắc chúng ta sẽ thành công.  Amen


Ngày 01/01 – Đức Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa
Thiên chức Thánh Mẫu Thiên Chúa mở rộng điểm nổi bật của lễ Giáng sinh. Đức Maria có vai trò quan trọng trong Mầu nhiệm Nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Đức Mẹ chấp nhận lời mời gọi của sứ thần bằng tiếng “xin vâng” (x. Lc 1:26-38). Thánh Êlidabét tuyên xưng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:42-43). Vai trò là Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria đã đặt Mẽ vào vị trí độc nhất trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Không nói rõ tên Maria, nhưng thánh Phaolô xác định: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4:4-5). Điều đó giúp chúng ta nhận ra Đức Maria là Mẹ của mọi anh chị em của Chúa Giêsu – tức là chúng ta.
Một số thần học gia cho rằng cương vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria là yếu tố quan trọng trong công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Ý nghĩ “đầu tiên” của Thiên Chúa trong việc sáng tạo là Đức Giêsu. Đức Giêsu là Ngôi Lời Nhập Thể, là Đấng có thể yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa một cách hoàn hảo thay cho mọi thụ tạo. Chúa Giêsu là “người đầu tiên” trong ý nghĩ của Thiên Chúa, Đức Mẹ là “người thứ nhì” được tuyển chọn từ đời đời để làm Mẹ của Ngài.
Danh xưng “Mẹ Thiên Chúa” xuất hiện từ thế kỷ III hoặc IV. Theo tiếng Hy LạpTheotokos (người mang Thiên Chúa), trở nên tiêu chuẩn (touchstone) của giáo huấn Giáo hội về Mầu nhiệm Nhập thể. The Công đồng Êphêsô năm 431 nói rằng các thánh giáo phụ đã đúng khi tôn xưng Đức Mẹ là Theotokos. Khi bế mạc công đồng này, nhiều người đã diễu hành và hô to: “Tôn vinh Đấng Theotokos!”. Truyền thống đó còn tới ngày nay. Trong chương nói về vai trò của Đức Maria trong Giáo hội, Dogmatic Constitution on the Church (Hiến chế về Giáo hội), Công đồng Vatican II đã tôn xưng Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa” 12 lần.

Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014

Thứ Tư Ngày VII Trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh



Lời Chúa: Ngôi Lời đã trở nên người phàm.
“ Ha-lê-lui-a. Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta; những ai đón nhận Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Ha-lê-lui-a.”
Trời vui lên đất hãy nhảy mừng
Biển gầm vang cùng muôn hải vật

Ruộng đồng cùng hoa trái nào hoan hỷ.
Ngày 31/12 – Thánh Sylvester I, Giáo hoàng (qua đời năm 335)
Nói đến vị giáo hoàng này, chúng ta nghĩ ngay tới sắc lệnh Milan, sự nổi bật của Giáo hội đối với các hầm mộ, các đại giáo đường như đền thờ Thánh Gioan Lateran, đền thờ Thánh Phêrô và các đền thờ khác, Công đồng Nicê và các sự kiện quan trọng khác. Nhưng đa số các sự kiện này được hoàng đế Constantine hoạch định hoặc tạo ra.
Rất nhiều truyền thuyết có về vị giáo hoàng này, ngài làm giáo hoàng vào thời điểm quan trọng nhất, nhưng rất ít điều trở thành lịch sử. Chúng ta biết chắc rằng triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài từ năm 314 tới khi ngài qua đời năm 335. Đọc lịch sử, chúng ta chắc chắn rằng chỉ có con người mạnh mẽ và khôn ngoan mới có thể duy trì sự độc lập của Giáo hội trước hoàng đế Constantine. Nói chung, các giám mục vẫn trung thành với Giáo hội, và có những lúc phải xin lỗi ĐGH Sylvester I vì đảm trách các dự án quan trọng của Giáo hội khi thúc giục hoàng đế Constantine.

Thứ Hai, 29 tháng 12, 2014

Thứ Ba Ngày VI Trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh



Lời Chúa: Bà nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày cứu chuộc Giêrusalem.
“ Ha-lê-lui-a. Ngày tháng đã bừng lên chiếu rọi chúng ta, muôn dân hỡi, đến mà thờ lạy Chúa. Vì hôm nay, ánh huy hoàng rực rỡ, tỏa xuống khắp cõi trần. Ha-lê-lui-a.”
Hãy nói với chư dân Chúa là Vua hiển trị
Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay
Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng.


Ngày 30/12 – Thánh Egwin, Giám mục (qua đời khoảng năm 717)
Ngài là tu sĩ Dòng Biển Đức, được tấn phong giám mục GP Worcester, Anh quốc. Ngài nổi tiếng là yêu thương trẻ mồ côi và người góa bụa, luôn phân xử công bình. Tuy nhiên ngài không được lòng các giáo sĩ. Họ thấy ngài quá nghiêm khắc, còn ngài chỉ muốn cố gắng sửa sai những việc lạm dụng và ra quy luật thôi. Khi ngài tới Rôma trình bày trường hợp của ngài với ĐGH Constantine, ngài được xem xét và trắng án.
Trên đường trở về Anh quốc, ngài lập tu viện Evesham, nay là nhà dòng Biển Đức nổi tiếng từ thời Trung cổ. Nhà dòng này dâng kính Đức Maria.
Ngài qua đời tại nhà dòng này vào ngày 30-12. Sau đó, nhiều phép lạ được coi là nhờ sự can thiệp của ngài: Người mù được thấy, người điếc được nghe, người bệnh được khỏi.

Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2014

Thứ Hai Ngày V Trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh



Lời Chúa: Ánh sáng soi đường cho dân ngoại.
“ Ha-lê-lui-a. Đức Ki-tô là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ítraen Dân Chúa. Ha-lê-lui-a.”
Đức Chúa là Đấng sáng tạo trời cao
Trước thiên nhan toàn uy phong rực rỡ

Trong thánh điện đầy dũng lực huy hoàng.


Ngày 29/12 – Thánh Thomas Becket, Giám mục (1118-1170)
Ngài là người mạnh mẽ, bị dao động một thời gian, nhưng rồi biết mình không thể theo điều xấu và ngài đã trở thành thánh tử đạo. Ngài là Tổng giám mục TGP Canterbury, bị giết trong nhà thờ chính tòa ngày 29-12-1170.
Khi còn làm giám mục phó TGP Canterbury, ngài được vua Henry II (bạn của ngài) chọn làm chưởng ấn Anh quốc lúc 36 tuổi. Khi vua Henry cảm thấy lợi thế nếu chọn ngài làm TGM Canterbury, ngài đã cảnh báo nhà vua không được xâm phạm Giáo hội. Khi ngài được tấn phong tổng giám mục năm 1162, ngài từ chức chưởng ấn và thay đổi cách sống!
Rắc rối bắt đầu. Vua Henry vẫn tiếm quyền Giáo hội và ra Hiến pháp Clarendon, không cho giáo sĩ trực tiếp với Rôma. Nhưng thánh Thomas Becket phản đối Hiến pháp, trốn sang Pháp và bị đi đày 7 năm. Khi trở về Anh quốc, ngài biết mình sẽ bị giết, vì ngài đã từ chối lệnh vua. Vua Henry đã hét lên: “Không ai có thể làm cho ta khỏi rắc rối vì tên giáo sĩ này sao?”. Và 4 hiệp sĩ đã giết ngài ngay trong nhà thờ chính tòa Canterbury. Ngài vẫn là thánh nhân anh hùng nêu gương cho thời đại của chúng ta.

Thứ Bảy, 27 tháng 12, 2014

Sứ Điệp Từ Máng Cỏ.



Chúng ta hãy bắt đầu với một chi tiết nhỏ mà tin mừng Luca nhắc đến: đó là hoàng đế Augusto. Augusto sinh năm 63 BC mất 14 AD, tên lúc khai sinh là Gaius Octavius, là vị hoàng đế sáng lập đế chế Roma. Augusto là danh hiệu mà viện Nguyên lão Roma dành tặng cho Octavius sau khi ông đánh bại tất cả kẻ thù. Augusto có nghĩa là một người được giới thiệu dành riêng cho các thần minh và con người.
Augustus thậm chí được Viện Nguyên lão phong thần khi còn sống, được thờ phụng bởi dân Roma. Tên của ông Augusto và của Caesar được lấy làm đế hiệu của các hoàng đế sau này, và tháng tám được chính đặt tên theo tên ông: August. Triều đại của Augusto đã mở ra một thời đại tương đối hòa bình được biết đến như là Pax Augusta, tiếng Latinh có nghĩa là hòa bình của Augusto.
Khi đặt song đối hình ảnh Đức Giê-su và Augusto, tác giả Tin mừng Luca muốn chuyển tiếp giới thiệu sự bình an mà Hài Nhi Giê-su đem đến cho nhân loại, như lời thiên thần ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”
Trong đêm mừng lễ sinh nhật của Chúa, tôi xin gợi ý về sứ điệp mà chúng ta có thể đọc được từ máng cỏ: đó là tôn trọng sự sống, quan tâm đến người nghèo và sống thinh lặng.
1. Tôn trọng sự sống, tôn trọng con người.
Việc Ngôi Hai nhập thể làm người là sứ điệp rõ ràng cho chúng ta về giá trị sự sống và nhân phẩm. Thiên Chúa làm người để con người được làm con cái Thiên Chúa.
Khi đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su nơi máng cỏ trong đêm cực thánh này, chúng ta hãy đặc biệt nghĩ đến các trẻ em không được cha mẹ thương yêu, các trẻ em bụi đời không có phúc được sống trong một mái ấm gia đình, các trẻ em bị buộc phải lao động, các trẻ vị thành niên bị lạm dụng trong công nghệ mãi dâm...
Hai vụ án tử hình được cho là oan trái đang rất nóng tại VN, đó là vụ Hồ Duy Hải ở Long An và vụ Nguyễn Văn Chưởng ở Hải Phòng. Các luật sư và nhà chuyên môn chỉ ra những chứng cớ ngoại phạm cho thấy các bị cáo bị kết án oan; nhưng người ta dường như không đếm xỉa đến, vì mạng sống con người không được coi trọng. Không như VN, ở các nước văn minh, người ta đã bỏ án tử hình từ lâu.
Sự sống phải được tôn trọng từ khi phôi thai cho đến khi chết tự nhiên. VN là một trong những quốc gia đứng hàng đầu về việc phá thai. Mỗi năm có khoảng hơn 1,6 triệu trẻ trong cả nước bị giết chết trước khi nhìn thấy dãi đất hình chữ S đầy khổ ải này.
Người Công giáo VN cũng dùng các biện pháp ngừa thai nhân tạo (như đặt vòng, thuốc tránh thai, bao cao su...), thậm chí vẫn có phá thai. Đó là những tội nặng.
Việc đón mừng Hài nhi Giêsu chào đời nhắc nhở chúng ta hãy tôn trọng sự sống, tôn trọng con người.
2. Quan tâm đến người nghèo.
Điều ấn tượng nhất khi nhìn nơi máng cỏ đó là sự nghèo nàn. Thật là vượt sức tưởng tượng của con người khi Con Thiên Chúa, vốn giàu sang phú quí, lại chọn sinh ra nơi chốn nghèo hèn.
Giuse có lẽ đã gõ cửa nhiều nơi khi Maria chuyển dạ. Thật không may cho đôi vợ chồng trẻ vì quán trọ đã kín người trong dịp người dân phải về bản quản của mình để điều tra dân số. Nếu họ giàu thì họ có thể vô một nhà nghỉ sang trọng. Cuối cùng, không tìm được chỗ nào, họ đành để con mình sinh ra nơi hang lừa.
Nhìn vào hang đá, chúng ta hãy suy gẫm về mầu nhiệm Thiên Chúa hạ mình xuống, thành một trẻ thơ bé nhỏ trong máng cỏ. Con Thiên Chúa quyền năng thành một trẻ thơ yếu ớt và ở trong tình trạng bị lệ thuộc hoàn toàn và cần đến tình yêu của con người. Hài nhi Giêsu đã trở thành biểu tượng về mọi nhu cầu khẩn thiết về tình trạng nghèo đói của con người.
Ngày nay, Đức Giê-su, được đồng hóa với bao người nghèo như Ngài tự nhận là thế, đến gõ cửa nhà chúng ta, xin chúng ta giúp đỡ. Hơn ai hết, tôi và anh chị em, chúng ta trải nghiệm về sự nghèo, nhất là những người lớn tuổi U40, U50, trở lên.
Xin đơn cử vài trường hợp nghèo đói điển hình: Ngày 24/4/2013, chị Nguyễn Thị Mỹ Nhân (38 tuổi, ngụ ấp 5, xã An Xuyên, Cà Mau) đã treo cổ chết, với hy vọng kiếm được ít tiền phúng điếu để tiền đóng học phí cho con. Ngày 25/9, một học sinh lớp 3A ở xã Đức Bồng (huyện Vũ Quang) chết vì đói. Xã Đức Bồng cách chúng ta khoảng 30 cây số. Mới đây nhất, một cô gái xứ Nghệ tuổi hai mươi, sang Nga lao động, không giấy tờ tuỳ thân; khi cảnh sát đến, em phải chạy trốn trong rừng. Nước Nga lạnh lắm, không thức ăn, không áo ấm em đã chết ngày 19/12/2014.
Đó là cái đói ăn. Còn có cái đói về tinh thần, đói về thông tin, đói về tôn giáo. Giáo xứ chúng ta phải chờ 40 năm mới có cha xứ, chúng ta hiểu thế nào về sự thiếu vắng thánh lễ. Ngày hôm qua, một cha bạn của tôi ở Lào Cai, linh mục Nguyễn Văn Thành, chia sẻ một tình trạng buồn: "Linh mục phó xứ của tôi thay tôi
đi dâng lễ ở giáo điểm Mường Khương. Giáo dân thì vui", nhưng chính quyền ở đó thì gây khó khăn, họ "mời cha Nguyên lên thị trấn "làm việc".
"Hơn nữa, ông trưởng ban mục vụ giáo điểm Quang Kim bị mời tới UBND xã và có tới 10 đoàn thể "làm việc" và ép không cho dâng lễ tại nhà nguyện tư vào chiều ngày mai (tức là hôm nay 24/12/2014). Họ bắt phá hang đá. Than ôi, sang thế kỉ 21 rồi mà sống đạo tại Lào Cai vẫn khó khăn như vậy!"
Còn ở cao nguyên miền Trung, nhiều cộng đoàn giáo dân ở vùng sâu Dak Kang Peng, huyện Dakto của giáo phận Kontum không có lễ Giáng Sinh vì nhà cầm quyền không cho các linh mục đến dâng lễ.
Đêm Giáng sinh mời gọi chúng ta đừng bao giờ bỏ người nghèo; trái lại "chúng ta hãy mở lòng và chăm chú lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và đến giúp họ" (Tông huấn Niềm vui Tin mừng số 187).
Giáo xứ chúng ta cũng làm một việc cụ thể: ngày mai, ban mục vụ và tôi sẽ đi thăm một số gia đình nghèo trong giáo xứ, không kể lương giáo, để biếu họ chút quà Giáng Sinh. Mời các bạn trẻ nào than lễ Noel buồn quá thì hãy đi cùng chúng tôi.
3. Có tâm hồn thinh lặng.
Giáng Sinh là đêm thanh bình, đêm thánh vô cùng, đất trời giao duyên. Không khí ở hang Belem và cánh đồng quê nơi các mục đồng trú ngụ thật thanh vắng, là môi trường người ta nghe được tiếng của thiên thần. Quang cảnh đêm Giáng Sinh dạy cho chúng ta rằng trong thinh lặng người ta mới được gặp Chúa.
"Tiếng ồn đã thâm nhập cuộc sống con người ngày nay như một "con sóng thần âm thanh". Bị chìm sâu trong làn sóng từ ngữ, chao đảo theo các ngọn gió truyền thông, con người không còn biết mình từ đâu đến và sẽ đi đâu, họ đã quên mất quê hương mình. Thậm chí họ cũng quên mất con đường về căn nhà lương tâm và về mảnh vườn nội tâm của “lòng mình” (Michel Hubaut, Những nẻo đường thinh lặng).
"Bản tin trên radio, TV, tiếng ầm ầm của máy móc, hay âm thanh của máy vi tính, chuông điện thoại, tiếng ồn trong các quán ăn hay nhà hàng, những nơi gọi là giải trí với âm lượng của ban nhạc hay của loa phóng thanh vượt đến một cường độ điên đầu, và những máy thu thanh bỏ túi cứ theo bạn cho đến tận giường ngủ..." (sđd).
Thậm chí, những tiếng nhạc, cử điệu nhảy múa, thời trang hở hang của diễn vien trong đêm văn nghệ Giáng sinh cũng có thể làm cho người ta xao lãng, mất bình an và không nghe được sứ điệp trung tâm của đêm Giáng sinh.
Thinh lặng là một nhu cầu sống chết của con người, giống như không khí họ thở hay lương thực họ ăn. Kierkegaard từng nói: "Nếu tôi là bác sĩ và người ta hỏi tôi khuyên gì thì tôi sẽ trả lời: Hãy giữ thinh lặng, hãy làm cho mọi người im tiếng!"
Michel Hubaut gợi ý cho chúng ta "tìm lại hương vị của các thú vui đơn giản. Đi bộ rất sớm trên bờ biển, hít thở hương thơm của đồng quê. Lắng nghe tiếng gầm thét của sóng hay tiếng róc rách của dòng suối. Lắng nghe sự im lặng của núi rừng hùng vĩ, nói lên sự nhỏ bé của con người… Ngắm nhìn nét tế nhị của vân một lá cây, các khéo léo cần cù của một con kiến, sự hoàn hảo của một cánh hoa, một mạng nhện mà sương mai đã đặt vào những hạt ngọc lấp lánh..."
"Hãy lắng nghe tiếng thở than của gió, tiếng tí tách của lửa, tiếng kêu của ve sầu hay tiếng hót của chim muông, tiếng róc rách của suối, những tiếng quen thuộc trong làng hay trong nhà. Những tiếng ấy không phá vỡ im lặng mà dệt thành thinh lặng. Lắng nghe một khúc nhạc như trẻ sơ sinh nghe được lần đầu. Không suy nghĩ hay phân tích. Hãy để cho âm thanh, màu sắc của âm thanh thấm vào trong ta."
Lắng nghe tiếng nhạc của tạo vật, hầu nắm bắt được sự hài hòa thầm kín. Lắng nghe lòng mình, để biết rõ mình và định hướng cuộc đời. Lắng nghe người khác để làm cho mình phong phú nhờ sự khác biệt và để yêu thương họ hơn.
Các Giáo Phụ đã viết rằng: trong sự thinh lặng, con người có thể nghe được tiếng nhạc du dương của toàn thể vũ trụ. Ai không còn biết nghe tiếng nhạc của tạo vật người ấy không biết lắng nghe người khác và lại càng không biết lắng nghe tiếng Chúa.
Tóm lại, trong đêm Giáng Sinh, sứ điệp từ máng cỏ mời gọi chúng ta tôn trọng sự sống, quan tâm đến người nghèo và sống thinh lặng. Đó là điều kiện để chúng ta có được ơn bình an của Chúa Hài Đồng. Nếu bạn muốn bình an hãy tôn trọng người khác, bố thí kẻ nghèo và đến nhà thờ.

Theo Internet

Chúa Nhật Lễ Thánh Gia Thất



Lời Chúa: Hài nhi ngày càng lớn lên, đầy khôn ngoan.
       Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa", và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Hồi ấy ở Giêrusalem, có một người tên là Simêôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
 "Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Ítraen Dân Ngài."
       Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêôn vừa nói về Người. Ông Simêôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng. Và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà."
       Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông Pơnuên, thuộc chi tộc Ase. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem.

       Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.


SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
        Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy gia đình Thánh Gia thật là một vườn ươm tốt đẹp, đã ấp ủ hạt mầm Giêsu, đưa Đức Giêsu tiến trên con đường vâng phục Thánh Ý Chúa Cha. Khi chúng ta nhìn cũng đủ biết, nề nếp đạo đức gia đình Thánh Gia đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời Đức Giêsu. Chắc chắn Đức Giêsu không chỉ thừa hưởng từ nơi Thánh Giuse và Đức Maria lòng yêu mến lề luật, gắn bó với Đền Thờ, thói quen siêng năng nghe và đọc Lời Chúa, mà còn thừa hưởng nơi các ngài sự mau mắn vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, một thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình, sự chuyên cần làm việc, và nhất là trong đời sống gia phong nề nếp , Đức Giêsu đã phát triển về mọi mặt, càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
       Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của gia đình Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm thầy bói. Hoặc chỉ làm theo ý riêng, và bắt người khác phải phục vụ mình, nghe lời mình thật là cái tôi quá lớn, đâm ra cuộc sống của họ bị bế tắc.
       Xin Chúa giúp chúng con biết noi gương gia đình Thánh Gia, sống trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính ông bà cha mẹ ở trần gian và sống tình huynh đệ với mọi người. Biết giữ luật Chúa, và tuân giữ những tín điều của Hội Thánh. Amen


Ngày 28/12 – Các thánh Anh hài
Hêrôđê là vua Giuđê, ông sợ người khác “đụng chạm” đến ngai vàng của mình. Ông là một chính khách bậc thầy và là một bạo chúa thâm độc. Ông đã giết vợ, giết người anh em và chồng của em gái.
Mt 2:1-18 kể chuyện này: Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người. Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời. Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Hêrôđê đã “nổi điên” và ra lệnh tàn sát hết các bé trai ở Bêlem từ 2 tuổi trở xuống”. Thật khủng khiếp, đúng như lời tiên báo của ngôn sứ Giêrêmia: “Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Rakhen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa” (Mt 2:18).

Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2014

Thứ Bảy Ngày III Trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh



Lời Chúa: Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước.
“ Ha-lê-lui-a. Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi hát mừng, tuyên xưng Ngài là Đức Chúa. Lạy Chúa, bậc Tông Đồ đồng thanh ca ngợi Chúa. Ha-lê-lui-a.”
Ánh sáng bừng lên chiếu rọi người công chính
Niềm vui làm rạng rỡ kẻ lòng ngay
Trước nhan thánh Chúa, người công chính hãy vui mừng

Tưởng nhớ Thánh Danh mà dâng lời cảm tạ.


 Ngày 27/12 – Thánh sử Gioan, Tông đồ
Thiên Chúa kêu gọi, con người đáp lại. Ơn gọi của thánh Gioan và người anh Giacôbê được mô tả sơ sài trong Phúc âm, cùng với thánh Phêrô và người anh Anrê: “Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4:21-22).
Thánh Gioan gọi mình là “người môn đệ được Chúa yêu” (x. Ga 13:23; 19:26; 20:2), the one who reclined next to Jesus at the Last Supper, and the one to whom he gave the exquisite honor, as he stood beneath the cross, of caring for his mother. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu: “ThưaMẹ, đây là con của Mẹ”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19:26-27).
Theo chiều sâu Phúc âm, thánh Gioan thường được coi là “chim đại bàng của thần học”, bay trên vùng cao mà các thánh sử khác không có. Chúa Giêsu gọi hai anh em thánh Gioan là “con của sấm sét”. Khó giải thích chính xác nhưng có 2 gợi ý.
Thứ nhất, theo thánh Matthêu, mẹ của các ngài xin cho 2 con ngồi bên phải và bên trái Chúa trong Vương quốc của Chúa Giêsu. “Đức Giêsu bảo: “Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ đáp: “Thưa uống nổi”. Đức Giêsu bảo: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được. Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết rằng thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:22-24, 27-28).
Lần khác, “Đức Giêsu nhất quyết đi lên Giêrusalem. Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông” (x. Lc 9:51-55).
Dịp lễ Phục sinh, Maria Mađalêna “đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ, rồi về báo cho các môn đệ”. Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó (Ga 20:2-6). Thánh Gioan “đã thấy và đã tin” (Ga 20:8).
Gioan và Phêrô bị bắt và bị tống ngục, “nhưng trong đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ đã tin theo, chỉ riêng số đàn ông đã lên đến chừng năm ngàn” (Cv 4:13).
Thánh Gioan đã viết Phúc âm “khác” nhất so với các Phúc âm nhất lãm, các thư và sách Khải huyền. Ngài đã thấy Chúa Giêsu vinh quang trong các biến cố cuộc đời. Trong Bữa Tiệc Ly, thánh Gioan còn được tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu. Phúc âm theo thánh Gioan là vinh quang của Chúa Giêsu.

Thứ Năm, 25 tháng 12, 2014

Thứ Sáu Ngày II Trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh



Lời Chúa: Không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của cha anh em.
“ Ha-lê-lui-a. Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc lành cho người tiến vào đây nhân danh Chúa; Đức Chúa là Thượng Đế Người giãi sáng trên ta. Ha-lê-lui-a.”
Xin giãi thoát con khỏi tay địch thủ
Khỏi người bách hại con
Xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Chúa

Và lấy tình thương mà cứu độ.


Ngày 26/12 – Thánh Stêphanô, Tử đạo tiên khởi (qua đời năm 36 ?)
Những gì chúng ta biết về thánh Stêphanô được tìm thấy trong sách Công vụ Tông đồ, chương 6 và 7, đủ để chúng ta biết ngài là con người thế nào: “Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa”. Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stêphanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Philípphê, Pơrôkhôrô, Nicanô, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, một người ngoại quê Antiôkhia đã theo đạo Do Thái. Ông Stêphanô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. Có những người thuộc hội đường gọi là hội đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Kyrênê và Alêxanria, cùng với một số người gốc Kilikia và Axia, đứng lên tranh luận với ông Stêphanô. Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông.” Bấy giờ, họ mới xui mấy người phao lên rằng: “Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn xúc phạm đến ông Môsê và Thiên Chúa”. Họ sách động dân và các kỳ mục cùng kinh sư, rồi ập đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội Đồng. Họ đưa mấy người chứng gian ra khai rằng: “Tên này không ngừng nói những lời phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật. Vì chúng tôi đã nghe hắn nói rằng Giêsu người Nadarét sẽ phá huỷ nơi này và thay đổi những tục lệ mà ông Môsê đã truyền lại cho chúng ta”. Toàn thể cử toạ trong Thượng Hội Đồng đều nhìn thẳng vào ông Stêphanô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ” (Cv 6:1-5, 8-15).
Chỗ khác, sách Công vụ cho biết: “Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa”. Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô. Họ ném đá ông Stêphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7:55-60).

Thứ Tư, 24 tháng 12, 2014

Thứ Năm Chúa Giáng Sinh Lễ trọng



Lời Chúa: Các người chăn chiên gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi.
“ Ha-lê-lui-a. Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương. Ha-lê-lui-a.”
Toàn cõi đất này đã xem thấy
Ơn cứu độ của của Thiên Chúa chúng ta
Tung hô Chúa hỡi toàn thể địa cầu
Mừng vui lên reo hò đàn hát
Kèn thổi vang xen tiếng tù và
Tung hô mừng Chúa vị Quân Vương.



Ngày 25/12 – Đại lễ Giáng sinh
Hôm nay Giáo hội tập trung vào Vương Nhi Giêsu, Thiên Chúa làm người, để chúng ta được hạnh phúc, bình an và hy vọng. Bên Bé Giêsu có Cha Mẹ Ngài là Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse, có cả những mục đồng đại diện cho giới lao động nghèo khó.
Ngày Con Chúa giáng trần làm người, đất trời được giao hòa, nhân phẩm nhân loại được phục hồi. Thật hạnh phúc biết bao khi những tội nhân chúng ta được trắng án và được trở thành con cái của Thiên Chúa, đó là mầu nhiệm đức tin. Hãy mở rộng lòng yêu thương để đón tiếp nhau chân thành:
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho người thiện tâm

Thứ Ba, 23 tháng 12, 2014

Thứ Tư Lễ Vọng Giáng Sinh



Lời Chúa: Bà Maria sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
“ Ha-lê-lui-a. Ngày mai Vị Cứu Tinh sẽ xóa tội đời, và sẽ lên ngôi lãnh đạo chúng ta. Ha-lê-lui-a.”
Hát lên mừng Chúa một bài ca mới
Hát lên mừng Chúa hỡi toàn thể địa cầu

Hát lên mừng Chúa chúc tụng Thánh Danh.


Ngày 24/12 – Giáng sinh tại Greccio
Theo truyền thuyết, chính thánh Phanxicô Assisi đã làm hang đá đầu tiên tại Greccio, thuộc Trung Ý, năm 1223.
Thánh Phanxicô nhớ lần tới Belem vài năm trước đó, nên ngài quyết định làm hang đá, đó là hang Greccio. Ngài tìm một đứa bé, một con bò và một con lừa đứng gần bên máng cỏ. Người ta nghe nói và kéo đến, người thì cầm đuốc, người thì cầm nến. Chính thánh Phanxicô giảng trong thánh lễ đêm đó.
Thomas of Celano, người viết tiểu sử thánh Phanxicô, nói rằng thánh Phanxicô “đứng trước máng cỏ… với lòng yêu thương và niềm hạnh phúc vô cùng…” Với thánh Phanxicô, mừng lễ giản dị là nhớ lại cảnh khó nghèo của Chúa Giêsu Hài Đồng, Đấng cứu độ đã làm người nghèo vì chúng ta, một Giêsu làm người thực sự.
Đêm nay, khi cầu nguyện bên hang đá, chúng ta hãy cảm tạ Lòng Thương Xót của Chúa và hãy nhớ đến những người nghèo và những người đau khổ trên khắp thế giới…

Thứ Hai, 22 tháng 12, 2014

Thứ Ba Ngày 23 Tháng 12



Lời Chúa: Ông Gioan Tẩy Giả chào đời.
“ Ha-lê-lui-a. Lạy Đức Ki-tô là Vua muôn nước, là đá tảng góc tường của tòa nhà Giáo Hội. Xin ngự đến và cứu độ con người, Chúa đã lấy đất mà dựng nên. Ha-lê-lui-a.”
Tất cả đường lối Chúa đều là yêu thương và thành tín
Đối với những kẻ nào giữ giao ước và lề luật Chúa
Chúa xử thân tình với những ai kính sợ Chúa
Và giao cho họ biết giao ước của Người.



Ngày 23/12 – Thánh Gioan Kanty, Linh mục (1390?-1473)

Sau khi học xong đại học ở Kraków, Ba Lan, ngài thụ phong linh mục và là giáo sư thần học. Có nhiều người ganh ghét nên ngài phải đi giữ xứ ở Olkusz. Ngài sống khiêm nhường và cố gắng, nhưng vẫn không được lòng giáo dân. Nhưng cuối cùng ngài đã khiếnhọ tâm phục khẩu phục. Sau một thời gian, ngài trở lại Kraków và dạy Kinh thánh cho đến hết đời.
Ngài thương người nghèo, ngài dành tiền bạc và thời gian cho họ. Ngài ít ngủ, nằm trên nền nhà, ăn ít, không ăn thịt. Ngài hành hương tới Giêrusalem và Rôma. Được cảnh báo về sức khỏe nhưng ngài vẫn sống khổ hạnh.

Thứ Bảy, 20 tháng 12, 2014

Thứ Hai Ngày 22 Tháng 12



Lời Chúa: Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả.
“ Ha-lê-lui-a. Lạy Đức Ki-tô là Vua muôn nước, là đá tảng góc tường của tòa nhà Giáo Hội. Xin ngự đến và cứu độ con người, Chúa đã lấy đất mà dựng nên. Ha-lê-lui-a.”
X. Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa,
T. Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi.
X. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc.
T. Ðấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn!
X. Ðời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ người
T. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
X. Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
T. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
X. Chúa độ trì, Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.
T.Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham

Và cho con cháu đến muôn đời.


Ngày 22/12 – Chân phước Jacopone da Todi (qua đời năm 1306)
Ngài sinh trong gia đình Benedetti quý tộc ở TP Todi, Bắc Ý. Ngài là luật sư và kết hôn với Vanna, một phụ nữ đạo hạnh và đại lượng. Vanna đã giúp chồng ăn năn đền tội. Có lần Vanna năn nỉ Jacopone tham gia thi đấu công khai. Vanna ngồi chung với các phụ nữ quý tộc khác và khán dài bị sụp. Vanna bị chết. Jacopone buồn lắm, nhất là khi biết vợ đeo thắt lưng để đền tội cho chồng. Từ đó, Jacopone quyết thay đổi cuộc đời.
Ngài phân phát tài sản cho người nghèo và vào Dòng Ba Phanxicô, ăn năn đền tội nghiêm ngặt. Ngài viết nhiều bài thánh ca (hymn) nổi tiếng bằng phương ngữ.
Lúc 68 tuổi, ngài bị vạ tuyệt thông và bị tù, dù ngài biết mình vô tội. Mãi 5 năm sau, thời ĐGH Bênêđictô XI, ngài mới được giải vạ. Ngài coi cảnh tù đày như việc đền tội. Trong thời gian đó ngài viết bài thánh ca Stabat Mater bằng tiếng Latin nổi tiếng.
Ngày 24-12-1306, ngài cảm thấy cái chết gần kề. Lúc đó ngài ở trong Dòng Thánh Clara khó nghèo với một người bạn là chân phước Gioan La Verna. Cũng như thánh Phanxicô, chân phước Jacopone chào đón “Chị Chết” bằng một bài thánh ca nổi tiếng của ngài khi người ta đang dự thánh lễ nửa đêm Giáng sinh.

Ngày 21/12 Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc Linh mục (1795-1839) Tử đạo.



* Theo gương Thánh Phêrô.
Lạy thầy, Thầy đi đâu vậy ?
Trên đường chạy trốn cơn bách hại khủng khiếp của bạo chúa Néron đang giáng xuống kinh thành Rôma, vị tông đồ trưởng Phêrô đã bàng hoàng thốt lên câu hỏi trên khi bất ngờ gặp Chúa Giêsu vác.
Sau đó là khoảnh khắc im lặng. Sự im lặng tưởng chừng như đến muôn đời sẽ không bao giờ có giây phút nào im lặng như thế. Phêrô như đọc thấy câu trả lời trong ánh mắt của Đức Kitô, có một chút gì giống ánh mắt Ngài đã nhìn mình sau ba lần chối Chúa. và tbầu khí thinh lặng đó, chợt vọng tới tai ông giọng nói buồn bã nhưng ngọt ngào: "Khi anh rời bỏ dân ta. Ta phải đến Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa". Phêrô lặng người đi và chợt hiểu.
Vị sứ đồ đã ra đi để xa lánh cơn điên cuồng của một bạo chúa, vì những lời nài nỉ chí tình chí thiết của đoàn tín hữu. Họ coi ngài là sức mạnh, là hơi thở, là chỗ dựa. Cần phải sống để tiếp tục mưu ích cho đoàn chiên. Giờ đây, Phêrô được ôn lại bài học vĩ đại nhất của vị Tôn sư Giêsu, người thợ mộc làng Nazaret đã chết gục vào tuổi 33 trên Thập Tự để cứu chuộc nhân loại.
 Thế là trong cái khoảnh khắc kỳ diệu đó, thánh Phêrô chợt nhớ ra. Để rồi thay vì những bước chân rời rã, do dự chạy trốn thì giờ đây ngài bước một cách mạnh mẽ, dứt khoát quay lại. để có thể trở nên giống Thày mình. Từ đó, trên tảng đá Phêrô, Rôma trở nên kinh thành muôn thuở. Đâu có ai thời đó đã nghĩ ra như thế. Vâng, đâu có ai thời đó đã hiểu được điều ấy.
Sau lần bị bắt thứ ba, cha Anrê Dũng Lạc như cảm nhận được bài học của Thánh Phêrô xưa. Yù nghĩ con người không hẳn đã phù hợp với ý Chúa. ngài xin tín hữu đừng chuộc ngài nữa, ngài đã chấp nhận hy sinh chính bản thân để trở lên một ngọn đèn, góp lửa với nhiều ngọn đèn khác làm chứng cho Chúa trên quê hương yêu dấu này.
 * Ba lần bị bắt.
Sinh ra trong một gia đình ngoại giáo ở Bắc Ninh năm 1795, Trần An Dũng theo cha mẹ vào Kẻ Chợ, nay là Hà Nội. Tại đây vì nhà nghèo, cậu được gán cho một thầy giảng nuôi nấng dạy dỗ và rửa tội với tên Thánh là Anrê. Ít lâu sau, cậu dũng xin vào chủng viện Vĩnh Trị, ở với cha chính Lan. Ngay từ đó, cậu Dũng lại siêng năng cần mẫn, có khiếu về thơ phú và giao tiếp với mọi người cách lịch thiệp hòa nhã. Có người nói rằng cậu chỉ đọc qua một đoạn sách hai lần là đã thuộc lòng.
 Sau 10 năm làm thầy giảng và ba năm thần học, ngày 15.03.1823, thầy Dũng được lãnh chức linh mục (cùng với lớp thánh Ngân và Nghi), rồi được bổ nhiệm làm phó xứ Đồng Chuối giúp cha Khiết. Sau đó, về giúp cha Thi ba năm ở xứ Đoài, rồi lại giúp cha Thuyết ở Sơn Miêng. Cuối cùng, khi cha làm chánh xứ Kẻ Đầm thì bị bắt. Suốt cuộc đời linh mục, cha Dũng sống nhiệm nhặt. Ngoài những ngày ăn chay theo luật của Giáo Hội, cha còn giữ chay suốt Mùa Chay, và nhiều khi cả các thứ sáu, thứ bảy quanh năm. Thường xuyên cha chỉ dùng những thức ăn đơn giản. Cha Dũng hết mình với nhiệm vụ chủ chăn, chẳng khi nào thấy cha ngại ngùng việc gì. Cha có lòng ưu ái đặc biệt với người nghèo. Có được của cải gì, cha chia sẻ cho họ hầu hết. Khi lệnh bách hại của vua Minh Mạng trở nên gay gắt qua chiếu chỉ toàn quốc ngày 06.1.1833, cha phải ẩn náu tại các nhà bổn đạo, sau trốn lên Kẻ Roi và lập nhà xứ ở đó. Một hôm, cha dâng lễ vừa xong thì quân lính ập tới, cha liền cởi áo lễ và ngồi lẫn trong tín hữu. Lính bắt cha như một trong 30 giáo hữu hôm đó, vì quan quân không biết cha là linh mục. Oâng tổng Thìn bỏ ra sáu nén bạc, nhận cha là thân nhân đi dự lễ để chuộc về. Từ đấy cha đổi tên là Lạc.
 Lần thứ hai cha bị bắt khi đến Kẻ Sông sưng tội với cha Thi theo thói quen hàng tháng. Lý trưởng Pháp bắt được hai linh mục và mặc cả với giáo hữu phải chuộc với giá 200 quan. Các tín hữu gom góp được 100 quan nên viên lý trưởng chỉ tha cha Lạc. Thế nhưng ngay trên đường về, vì gặp mưa gió, thuyền cha phải ghé vào bờ. Căn nhà cha đang trú lại đang bị quân lính khám xét. Thế là cha bị bắt lần thứ ba và bị giải lên huyện Bình Lục cùng với cha Thi.
 Một lần nữa, giáo hữu cùng Đức cha Retordd Liêu tìm cách chuộc cha về, nhưng lần này cha Lạc thấy ý Chúa đã định cho mình, ngài nhắn với Đức cha câu chuyện thánh Phêrô hai lần thoát khỏi ngục, đến lần thứ ba, Chúa Giêsu đã yêu cầu ở lại tử đạo tại Rôma, và xin các tín hữu đừng lo liệu tiền chuộc làm chi nữa.


 * Được cảm tình mọi giới.
 Quan hyện Bình Lục đối xử với hai vị linh mục một cách tử tế. Ông truyền dọn cơm cho hai cha bằng mâm bát của mình, bắt Lý trưởng trả lại quần áo đã tịch thu và thanh minh rằng: "Phép triều đình cấm đạo và giết các cụ, chứ không phải tôi. Tôi không có tội gì trong việc này". Ba ngày sau, quan huyện đưa hai cha xuống thuyền chuyển về Hà Nội. Các tín hữu thương tiếc đi theo rất đông, hoặc bằng thuyền, hoặc đi bộ trên bờ. Quan lấy làm lạ hỏi: "Đạo trưởng có cái gì mà dân chúng thương tiếc quá vậy ?". Một phụ nữ đứng gần đó đáp lại: "Thưa quan, các cha dạy chúng tôi những điều hay lẽ phải, dạy chồng hiền lành, đừng cờ bạc rượu chè, dạy vợ sống thuận thảo với chồng theo như giáo lý trong đạo". Hai vị linh mục khi thấy nhiều người khóc lóc tiễn đưa mình, đã dừng lại an ủi khích lệ họ sống đạo cho tốt đẹp.
 Tại Hà Nội, sau mấy lần tra hỏi và dọa nạt hai vị chứng nhân Đức Kitô không thành công, các quan làm án xin vua xủ trảm.
Thời gian trong tù, hai cha chiếm được cảm tình của lính gác, được tôn trọng và đối xử tử tế. Khi nhận được quà tiếp tế, hai cha chia cho lính canh, chỉ giữ lại những thứ tối thiểu. Mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối, hai cha quỳ bên nhau cầu nguyện lâu giờ. Tuy các tín hữu được phép đem cơm vào tù mỗi ngày, hai cha vẫn tìm cách hãm mình, nên dặn họ được đem thịt hay cá. Các ngài vẫm tiếp tục giữ chay ngày thứ hai, thứ tư, thứ sáu và thứ bảy. Những ngày đó hai cha ăn thật ít, chỉ vừa đủ sống.
 Lễ các Thánh (1-11-1939), linh mục Trân đưa Mình Thánh vào ngục. Vừa thấy ngài, cha Dũng Lạc ra chào đón: "Xin chào bác, tôi đợi bác đã lâu vì hết lương thực rồi". Sau đó cha cung kính rước lễ và trao Mình Thánh cho cha già Thi.
 Cuối năm 1939, khi quân lính đến công bố lệnh xử án, hai cha vui vẻ đón nhận bản án như một phần thưởng trọng hậu, trên đường đến pháp trường, hai cha yên lặng cầu nguyện. Lúc ra khỏi cổng thành, cha Lạc chắp tay lại, hát lớn tiếng mấy câu Latinh chúc tụng Chúa. Trước phút hành quyết, người lý hình đến nói với cha: "Chúng tôi không biết các Thày có tội gì, chúng tôi chỉ làm theo lệnh trên, xin các thày đừng chấp"
Cha Lạc tươi cười trả lời: "Quan đã truyền anh cứ thi hành". Sau đó hai cha xin ít phút để cầu nguyện lần chót, rồi nghiêng đầu cho lý hình chém.
Hai vị đã lãnh phúc tử đạo ngày 21-12-1839 t5ai bãi ngoài cửa ô Cầu Giấy (Hà Nội), giáp đường lên tỉnh Sơn Tây. Thi hài của cha Lạc được đưa về an táng tại nhà bà Lý Quý gần đó.
Đức giáo hoàng Lêo XIII suy tôn chân phước cho linh mục Anrê Dũng Lạc ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã suy tôn ngài, đứng đầu danh sách 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Nhớ đến thánh Dũng Lạc, phải nhớ đến những vần thơ ngài tâm sự trong thư viết trong ngục cho cha Thực (trích theo Nguyễn Văn Tự, 42 Á Thánh Tử Đạo, Tr 76) rằng:
 "Lạc rầy đã rõ chốn quan quân
Bút chép thơ này gửi thở than
Lòng nhớ bạn nỗi còn vất vả
Dạ thương khách chạy chữa yên hàn.
Đông qua tiết lại thời Xuân đến
Khổ trảm mai sau hưởng phúc an.

Làm kẻ anh hùng quản chi khó.”


Ngày 21/12 – 1763-1839 Thánh Phêrô Trương Văn Thi Linh mục Tử đạo
Phêrô Trương Văn Thi, Sinh năm 1763 tại Kẻ Sở, Hà Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 21/12/1839 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII đã suy tôn cha Phêrô Trương Văn Thi lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 21/12.
* Lý hình cõng tử tội.
Trên đường ra pháp trường, từ nhà ngục Hà Nội đến ô Cầu Giấy, người tử tội ốm yếu bệnh tật với tuổi già 76, bước đi chẳng nổi nữa. Ông bước đi lảo đảo rồi ngã quỵ xuống đường. Trước tình cảnh tang thương đó, một người lính đoàn hành quyết khom lưng cõng tử tội đến nơi xử, và được tử tội âu iếm tặng đôi giầy của mình làm kỷ niệm. Thế đó, lính tráng ngỡ ngàng, dân chúng nghẹn ngào, các tín hữu xúc động. Người hành quyết cõng tử tội đến pháp trường. Tử tội đó là linh mục Phêrô Trương Văn Thi.
* Người mục tử hiền hòa nghèo khó.
Phêrô Trương Văn Thi mở mắt chào đời năm 1763 tại làng Kẻ Sở, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Năm 11 tuổi, cậu được nhận vào nhà Đức Chúa Trời để tu học, tập tành các nhân đức, rồi trở thành thầy giảng. Trong chức vụ này, thầy thi luôn chứng tỏ nhiệt tâm tông đồ, đời sống đạo đức, và khả năng đời đạo, nên được gửi vào chủng viện. Đến ngày 22.03.1806, thầy lãnh chức linh mục khi đã 43 tuổi.
Trong 27 năm liền, cha Thi coi sóc xứ Sông Chảy thuộc phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Năm 1833, ngài được bổ nhiệm chính xứ Kẻ Sông, và ở đó cho đến khi tử đạo năm 1839. Theo lới chứng của các tín hữu tại đây, cha Thi là một linh mục : "Rất nhân đức, mỗi ngày đọc kinh cầu nguyện lâu giờ ba bốn lần, cử hành thánh lễ trang nghiêm, ăn uống đạm bạc, thường ăn chay các thứ sáu, mặc dù sức khỏe của ngài yếu kém với chứng đau bụng thường xuyên".
Thừa sai Jeantet Khiêm sau làm Giám mục Tây đàng Ngoài đã viết về cha Thi : "Tôi quen biết ngài từ năm 1835, tôi cảm phục ngài về lòng đạo đức thâm sâu, có tính hiền hòa, khôn ngoan và trung thành giữ lề luật". Cha sống khó nghèo, ngoài áo chùng thâm, cha chỉ mặc đồ nâu như một nông dân nghèo nàn. Ngoài giáo xứ chính, cha còn phụ trách thêm nhiều họ lẻ. Một lần di chuyển trên sông, thuyền của cha bị đắm, người tháp tùng cha chết đuối, còn cha sống sót được nhờ bám vào hòm đựng đồ lễ. Suốt mấy chục năm phục vụ giáo xứ, không hề thấy một ai kêu ca, chê trách cha lới nào.
Do chiếu chỉ cấm đạo tòan quốc của vua Minh Mạng, cha Thi luôn hoạt động âm thầm. Được một thời gian khá lâu, bất ngờ vào ngày 10.10.1839, khi cha Dũng lạc ở làng kế cận tìm đến xưng tội, viên lý trưởng tên Pháp hay tin, đưa người đến bắt cả hai linh mục. Lý Pháp mặc cả giá tiền chuộc với các tín hữu, và ngã giá là 200 quan. Khi các tín hữu mới gom góp được một nửa số tiền, ông chỉ tha một mình cha Dũng Lạc. Ai ngờ trên đường về, cha Dũng lạc lại bị một tốp lính khác bắt được. Thế là Lý Pháp không dám cho chuộc cha Thi nữa, và cho áp giải ngài về Bình Lục. Giữa đường, ông gặp đám lính đang áp giải cha Dũng Lạc, liền nộp cha Thi cho quan huyện. Từ đó, hai vị chung một số phận tù ngục và cùng chung hưởng phúc vinh quang.
* Ông "quan bên đạo" dưới mắt ông quan bên đời.
Quan huyện Bình Lục tỏ ra rất vị nể hai linh mục. Riêng với cha Thi, quan ái ngại cho tuổi già sức yếu, nên cư xử càng lịch thiệp hơn. Ông nói : "Tôi làm quan bên đời, còn ông làm quan bên đạo". Dĩ nhiên, quan đã hiểu sai về chức năng phục vụ của người linh mục, nhưng dầu sao, đó cũng là bằng chứng của sự kính nể. Biết không thể lay chuyển lòng tin của hai vị, quan không tra tấn gì cả, chỉ giữ lại ba ngày rồi cho giải về Hà Nội. Như Philatô rửa tay trong vụ án đức Giêsu, viên quan huyện sau đó cũng mở lễ cúng vái các thần, thanh minh với mọi người, và xin trời đất chứng giám cho mình vô can trong cái chết của những kẻ vô tội.
Khi hai cha được đưa lên Hà Nội bằng thuyền theo đường sông Hồng, các tín hữu kéo nhau đi theo rất đông, kẻ đi thuyền, người đi bộ trên bờ đê.
Ngày 16.10, thuyền áp giải hai cha được cập bến. Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường và bắt đạp lên Thánh Giá. Cha Thi quỳ xuống, nghiêm trang hôn kính dấu chỉ Đấng Cứu Độ. Sau nhiều lần hạch hỏi, quan thấy không có cách nào khuất phục được hai vị linh mục, liền làm án tâu vua xin trảm quyết.
Trong khi chờ đợi vua phê án, cha Thi biết trước số phận của mình, và chuẩn bị đón nhận phúc tử đạo của mình. cha gia tăng việu cầu nguyện và hãm mình. Cha ăn chay các ngày thứ hai, thứ tư, thứ sáu và thứ bảy. Bệnh tật gông cùm (dù cha chỉ phải mang gông nhẹ) và chay tịnh làm sức khỏe của cha càng sa sút. Thừa sai Jeantet Khiêm viết thư vào đề nghị cha giảm bớt khổ chế đi, nhưng cha vẫn không thay đổi.


* Tình yêu không biên giới.
Ngày 21.12.1839, lần thứ hai cha Trân đưa Mình Thánh vào, cha Thi đã liệt giường, phải nhờ cha Dũng Lạc ra nhận và trao Thánh Thể. Không ngờ chính hôm đó lại là ngày cuối cùng cuộc đời dương thế của các ngài, bản án vua châu phê đã vào tới. Quân lính dẫn hai cha ra pháp trường. Trên đường, cha Thi không còn sức đi nữa, nên một người lính đã đóng vai "Simon", cõng cha đến nơi thụ án.
Quãng đường cuối cùng của cha Thi: Đôi giầy, kỷ vật tặng cho người lính, hình ảnh một "Simon Xirênê" Việt Nam cõng tử tội ra pháp trường… Làm sao diễn tả hết ý nghĩa của những điều đó. Phải chăng hình ảnh đó có thể khái quát được tang thương của Giáo Hội Việt Nam thời khai nguyên ? Phải chăng điều đó đủ xoa dịu những đố kỵ còn sót lại cho đến ngày hôm nay ? Và phải chăng hình ảnh đó cho phép ước mơ một xã hội, tương lai sáng lạn hơn, khi mọi người dân vượt qua mọi trở ngại để đối xử với nhau bằng trái tim yêu thương ?
Giáo hữu thấm máu vị tử đạo, thâu lượm các di vật, rồi đưa thi hài các ngài về Kẻ Sở dâng lễ và an táng cách trọng thể.
Đức Lêo XIII đã suy tôn cha Phêrô Trương Văn Thi lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
Thừa sai Jeantet Khiêm nhận định về cuộc tử đạo của cha Phêrô Thi như sau : "Ân sủng đã toàn thắng sự yếu đuối của con người. Nhờ ân sủng, con người bẩm sinh vốn hiền lành nay đã có được sức mạnh trước đây chưa từng có".

Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B



Lời Chúa: Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai.
       Khi ấy, bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
       Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
        Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần : “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng ?”
       Sứ thần đáp : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà ; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

     Bấy giờ bà Ma-ri-a nói với sứ thần : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.


SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
        Càng gần lễ Giáng sinh, công việc chuẩn bị của chúng ta lại càng gấp rút. Xin Chúa chúc lành cho tất cả mọi cố gắng của chúng ta, để lễ Giáng sinh năm nay được tràn đầy hồng ân Chúa. Trong bầu khí nhiệt tình chuẩn bị Ðại lễ Giáng Sinh này, mà bài Tin Mừng hôm nay đã nói lên sự chuẩn bị  của Thiên Chúa đối với Đức Maria. Ngài đã tạo dựng Mẹ như một thụ tạo tuyệt vời, độc nhất vô nhị, chỉ vì Ngài muốn Mẹ xứng đáng trở nên người mẹ cưu mang chính Con Một của Ngài. Đức Maria là một kiệt tác của Thiên Chúa, dù bề ngoài Mẹ chỉ là một thôn nữ của một ngôi làng nhỏ bé miền quê. Thiên Chúa không ép buộc Đức Maria  sinh Đấng Cứu Thế, dù Ngài đã chuẩn bị cho Mẹ một cách đặc biệt, để đón nhận trách nhiệm cao cả này. Ngài tôn trọng tự do của Mẹ, tự do mà chính Ngài đã ban cho Mẹ trong tư cách làm người. Ngài không đặt Mẹ trước một sự đã rồi. Ngài muốn hỏi ý Mẹ, và chờ Mẹ ngỏ lời ưng thuận. Vâng, Mẹ đã ưng thuận “ Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.”
       Thiên Chúa đến gặp gỡ con người để mang cho họ một niềm vui. Và mỗi khi chúng ta gặp gỡ nhau, chúng ta cùng cộng tác xây dựng tình thân giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người đồng loại với nhau. Mỗi cuộc gặp gỡ giữa chúng ta phải tăng thêm tình bạn, bớt đi oán thù ngăn trở. Việc Chúa đến mang ý nghĩa sâu xa là thế, mà xem ra thường ngày chúng ta hay bị lãng quên. Nhiều người chỉ nghĩ lễ Giáng Sinh là ngày nghỉ ngơi ăn chơi hội hè, mà quên nhận ra Đấng đã đến để ở với nhân loại. Có người chỉ thấy qua lễ Giáng Sinh như một biến cố, từ hai ngàn năm xa xưa vời vợi mà không biết rằng. Chúa đang hiện diện giữa chúng ta.
       Xin cho chúng ta luôn hưởng trọn vẹn niềm vui như Mẹ Maria khi biết sống hết mình vì tha nhân.  Xin Mẹ giúp chúng ta luôn làm những điều đẹp lòng Chúa, để chúng ta nhận lại niềm vui ngập tràn trong Chúa, và nhất là luôn được Chúa chúc phúc như Mẹ. Xin cho cuộc đời mọi người chúng ta luôn được an bình, hạnh phúc và hết lòng gieo niềm vui và hạnh phúc cho những người khác. Amen


Ngày 21/12 – Thánh Phêrô Canisiô, Linh mục Tiến sĩ (1521-1597)
Ngài là người đa tài, sống gương mẫu và phát triển tài năng theo Kinh thánh vì Chúa. Ngài là nhân vật quan trọng trong thời Cải cách ở Đức, giữ vai trò chính và thường được gọi là “vị tông đồ thứ hai của Đức” so với thánh Boniface.
Lúc 19 tuổi, ngài có bằng đại học của ĐH Cologne. Không lâu sau ngài gặp Peter Faber, đệ tử đầu tiên của thánh Inhaxiô Loyola, và cuộc đời ngài đã thay đổi từ khi vào Dòng Tên.
Ngài thụ phong linh mục năm 1546, và nổi tiếng với những bài viết về thánh Cyril Alexandria và thánh Leo Cả. Ngoài ra ngài còn thích làm việc tông đồ, thăm viếng các tù nhân và các bệnh nhân.
Năm 1547, ngài dự vài khóa họp Công đồng Trentô. Ngài dạy tại vài trường đại học, cùng thành lập nhiều đại học và chủng viện. Ngài viết sách giáo lý giải thích về đức tin Công giáo theo cách mà người thường cóa thể hiểu được – thời đó rất cần cách đó.
Ngài có tiếng về giảng thuyết, và khéo hòa giải các giáo phái. Ngài còn viết những lá thư phê bình các vị lãnh đạo Giáo hội – nhưng có cách nói yêu thương và cảm thông. Lúc 70 tuổi, ngài bị đột quỵ, nhưng vẫn rao giảng và viết lách cho tới khi qua đời tại Nijmegen (Ba Lan) ngày 21-12-1597.

Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2014

Thứ Bảy Ngày 20 Tháng 12



Lời Chúa: Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai.
“ Ha-lê-lui-a. Lạy Đức Ki-tô, Ngài nắm giữ chìa khóa nhà Đa-vít, Ngài mở cửa đưa vào Nước vĩnh hằng. Xin Ngài đến đem ơn giải thoát, cho tù nhân khỏi hết xích xiềng, cho họ không còn ngồi dưới bóng đêm. Ha-lê-lui-a.”
Người ấy sẽ được Chúa ban phúc lành
Được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng
Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm Người

Tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp.

Ngày 20/12 – Thánh Đaminh Silos, Linh mục (khoảng năm 1000-1073)
Ngài không là người sáng lập Dòng Đa Minh, nhưng có chuyện liên quan kỳ lạ.
Ngài sinh tại Tây Ban Nha khoảng năm 1000 trong một gia đình nông dân. Hồi nhỏ ngài phải lao động ngoài đồng ruộng, nên ngài sống âm thầm. Ngài tu Dòng Biển Đức và thụ phong linh mục, rồi giữ nhiều chức vụ lãnh đạo. Sau khi tranh chấp với nhà vua về tài sản, ngài và 2 tu sĩ khác bị đi đày. Rồi họ lập dòng mới. Dưới sự lãnh đạo của ngài, dòng này trở nên nổi tiếng tại Tây Ban Nha, nhiều người được chữa lành.
Khoảng 100 năm sau khi ngài qua đời, một phụ nữ trẻ hành hương tới mộ ngài. Ngài đã hiện ra với phụ nữ này và đoan chắc chị sẽ sinh con trai. Phụ nữ này tên là Joan Aza, con trai của phụ nữ này sinh ra và trưởng thành, thanh niên này tên là Đa Minh (Dominic) – người sáng lập Dòng Đa Minh như chúng ta thấy ngày nay.
Sau nhiều năm, di hài thánh Đa Minh Silos được đưa về hoàng cung bất kỳ lần nào Nữ hoàng Tây Ban Nha trở dạ sinh con. Việc này kết thúc năm 1931.