Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014

Chúa Nhật I Mùa Vọng Năm B



Lời Chúa: Anh em phải canh thức: anh em không biết khi nào chủ nhà đến.

       Hôm ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!”


SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
        Bài Tin Mừng hôm nay, nhắc chúng ta phải canh thức mỗi ngày. Canh thức để có thể nhận ra kẻ trộm đang đào ngạch khóet vách. Canh thức để đón ông chủ trở về , hoặc được trao cho mỗi người một số yến vàng để làm ra lợi tức. Chúa luôn nhắc nhở cho chúng ta hãy canh thức, để sống xứng đáng với đời sống người Kitô hữu. Vì Thiên Chúa là tình yêu, là cởi mở và tha thứ, chứ không phải được đóng khung trong bốn bức tường của nhà thờ, mà mỗi người Kitô hữu đã lãnh nhận Tin Mừng cần phải được tỏa sáng, vượt qua những giới hạn cá nhân, để đến với những người xung quanh chúng ta.
        Vâng! Mùa Vọng nào cũng được kết thúc bằng lễ Giáng Sinh. Giáo Hội đặt ra Mùa Vọng trước lễ Giáng Sinh, không đơn thuần chỉ là nhắc lại một việc của quá khứ. Vâng! Không phải đơn giản như vậy. Không phải nhắc lại một quá khứ, như một kỷ niệm nhưng là một biến cố, biến cố cống hiến cho chúng ta một kinh nghiệm sống, và một hướng đi giúp chúng ta chuẩn bị ngày Chúa Kitô quang lâm, để hoàn tất chương trình cứu độ của Chúa một cách tốt đẹp hơn. Như vậy, mỗi lần chúng ta mừng lễ Giáng sinh là mỗi lần chúng ta có kinh nghiệm thêm về việc gặp Chúa trong cuộc sống hôm nay, để tiến dần đến việc chiếm hữu được Chúa trong vinh quang của Người. Và đó là ý nghĩa chính của Mùa Vọng
       Xin Chúa cho chúng con biết nhận mùa Vọng này, và biết đổi mới con người của chúng con, canh tân đời sống, canh thức và sẵn sàng. Quyết lọai bỏ những điều xấu, cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu,  hầu đón nhận được ơn giải thóat và bình an Chúa đã hứa ban cho chúng con.  Amen.


Ngày 30/11 – Thánh Anrê, Tông đồ
Khi Chúa Giêsu xuất hiện, thánh Gioan giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Thánh Anrê và một tông đồ nữa đã theo Chúa Giêsu. “Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Họ đáp: “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1:38-39).
Phúc âm ít nhắc đến thánh Anrê. “Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (x. Ga 6:8-9). “Trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu”. Ông Philípphê đi nói với ông Anrê. Ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu” (x. Ga 12:20-22).
Truyền thuyết nói rằng thánh Anrê rao giảng Phúc âm ở nơi mà ngày nay là Hy Lạp và Thổ NHĩ Kỳ, rồi bị đóng đinh theo hình chữ X tại Patras, thuộc Achaea, Hy Lạp. Thánh Anrê là một trong các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Ngài là em thánh Phêrô, sinh tại Bethsaida gần biển Galilê. Hai anh em làm nghề đánh cá. Khi ấy, Chúa Giêsu đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simôn, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mt 4:18-20).
Sau khi Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, thánh Anrê rao giảng Phúc âm ở Tiểu Á, ở Scythia và ở Kiev.
Thánh tích của ngài là một ngón tay, một mảnh xương sọ và vài mảnh thập giá. Những thứ này được giữ tại nhà thờ thánh Anrê ở Patras.

Thánh Anrê là thánh bổn mạng của nước Tô Cách Lan, Nga và Hy Lạp. Người Tô Cách Lan mừng lễ thánh Anrê vào ngày 30-11. Lá cờ của nước Tô Cách Lan là Thập giá của thánh Anrê.


Ngày 30-11-1803-1835 Thánh Giuse Marchand Du Linh mục Thừa Sai Paris Tử đạo.
Giuse Du (Joseph Marchand), Sinh năm 1803 tại Passavaut, Besancon, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Ngoài, bị xử hình bá đao ngày 30/11/1835 tại Thợ Ðúc dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII đã suy tôn linh mục Marchand Du lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 30/11.
* Người tử hùng bá đao.
Trong 117 thánh tử đạo Việt Nam, cuộc tử đạo của thánh Marchand Du mang màu sắc bi tráng nhất. Với gần ba tháng trong chiếc cũi chật hẹp, và những cuộc tra tấn chết đi sống lại, ngài là vị duy nhất bị án bá đao, nghĩa là bị cắt xẻo 100 nhát trước khi bị chặt ra làm bốn phần, còn thủ cấp bị nghiền nát đổ xuống biển.
Tuy nhiên, chúng ta không nên quá nhấn mạnh đến những đau thương trong cuộc tử nạn, mà quên mất chứng từ đời sống của thánh nhân : sự nhiệt tâm truyền giáo, lòng yêu mến các tín hữu và chí cương quyết chỉ phục vụ Tin Mừng.
* Mong ước tuổi xuân.
Đầu thế kỷ XIX, tại làng Passavant, nước Pháp, nhiều người đã phải ngạc nhiên khi thấy hành vi của một cậu bé chưa đầy mười tuổi : sau giờ học, cậu rủ các bạn hữu về nhà, khiêng bàn, trải khăn làm bàn thờ, trang hoàng hoa nến, đặt cây Thánh Giá, rồi bắt trước các cử điệu như khi linh mục dâng lễ Missa cho các bạn xem. Đó là cậu bé Giuse Marchand.
Mở mắt chào đời ngày 17.8.1803 tại làng Passavant, tỉnh Doubs. Ngay từ niên thiếu, dân làng đã thấy rõ ước muốn trở thành linh mục của cậu. Sau khi rước lễ lần đầu, cậu xin cha mẹ đi tu, nhưng vì gia đình làm nghề nông túng nghèo, thiếu người lao động, nên cha mẹ cậu tìm cách trì hoãn cho cậu đổi ý. Tuy nhiên, Marchand đã không thay đổi ý định, cậu kiên quyết hoàn thành mộng ước tuổi xuân, và cuối cùng bên người đổi ý là song thân của cậu. Năm 18 tuổi, Marchand gia nhập chủng viện giáo phận Besacon. Năm 1828, sau khi lãnh chức phó tế, thày Marchand xin chuyển sang Hội Thừa Sai Paris. Độ nửa năm, thầy được thụ phong linh mục (04.4.1829), sau đó một tháng thì đáp tàu đi Macao đến Việt Nam giảng đạo.
* Nhà du thuyết nhiệt tâm.
Tháng 3.1830, cha Marchand vào tới Việt Nam, và lấy tên mới là Du. Sau một thời gian học tiếng và phong tục Việt Nam tại Lái Thiêu, cha du được cử tới Pnom-Pênh để coi sóc các tín hữu Việt Nam tại đây (khi đó đất Campuchia thuộc giáo phận Đàng Trong). Thế rồi ít lâu, cha được gọi về Lái Thiêu coi sóc các chủng sinh, đồng thời phụ trách 25 giáo họ, với khoảng 7000 tín hữu thuộc tỉnh Bình Thuận.
Trong thư đề ngày 13.6.1832 gởi về quê nhà cha viết : "… 25 giáo họ cách nhau rất xa. Muốn chu toàn bổn phận, con không thể bỏ phí một giây nào… từ năm giờ sáng đến chín giờ tối, nhiều ngày chẳng có lúc nào rảnh rỗi cả. Con chỉ có thể dành chút thời giờ chu toàn việc đạo đức riêng lo cho phần rỗi mình, còn thì luôn luôn phải làm việc để thánh hóa kẻ khác… Con chỉ tiếc một điều là không thể tận tụy hơn được nữa, để vừa giúp giáo dân, vừa giúp lương dân, lại cón phải bắt buộc di chuyển bằng thuyền, nên không thể đi mọi nơi, hầu dẫn về đoàn chiên Chúa Giêsu những con chiên bất hạnh lạc đường…".
Cha Du mới đi hết 25 giáo họ này được hai lần thì ngày 16.1.1833 vua Minh Mạng ra chiếu chỉ lùng bắt các giáo sĩ Âu Châu. Đức cha Tabert Từ, cha Cuénot Thể và các thừa sai dẫn theo các chủng sinh trốn qua Thái Lan. Chỉ mình cha Du nhất nhất quyết ở lại, ẩn tránh ở miền Lục Tỉnh, giúp các họ Cái Nhum, Cái Mơn, Bãi Xan, Giồng Rùm, và trú ngụ tại Mặc Bắc, Vĩnh Long.
* Tôi chỉ biết một điều là giảng đạo.
Lê văn Khôi thực ra có họ Nguyễn, từng nổi loạn ở Cao Bằng, sau ra đầu thú, được Tả quân Lê Văn Duyệt nhận làm con nuôi, mới đổi qua họ Lê. Lợi dụng việc vua Minh Mạng xử tệ với Tả quân (khi đó đã thất lộc cho đánh trên mộ 100 trượng), Lê văn Khôi liền lấy cớ phò cháu đích tôn của vua Gia Long, con hoàng tử Cảnh tên là Đản. Việc bại lộ, khôi bị bắt. Đến 05.7.1833, ông với khoảng 30 bạn tù vượt ngục, giết một vài quan, thả các tù nhân khác, rồi chiêu binh chiếm Phiên An (sài Gòn) và miền Lục Tỉnh.
Lê Văn khôi tuy ngoại đạo, ngưng đã khôn khéo hứa hẹn bãi bỏ các lệnh cấm đạo của vua Minh Mạng, nên một số tín hữu theo ông. Để có thể quy tụ nhiều người Công Giáo hơn ủng hộ mình, Lê Văn Khôi cho mời cha Du về Sài Gòn, cha từ chối. sau vì một số tín hữu Chợ Quán nói : "Nếu cha không chịu về, sợ quan giận mà chém hết bổn đạo trong thành. Ở đó bổn đạo cũng đông lắm…". Thế là cha Du đành lòng về xứ Chợ Quán ở nhà thờ cha Phước, nhưng rất ít khi ở nhà, cha lo đi thăm các gia đình tín hữu. Lê văn Khôi nhiều lần mời, cha vẫn không chịu vào trong thành.
Khi quân triều đình vây thành Gia Định, Khôi cho quan đem voi ra Chợ Quán bắt ép cha Du phải vào thành. Cha Phước và nhiều tín hữu cũng theo vô. Trong thành, tướng Khôi xử đãi cha khá rộng rãi, có nhà riêng để dâng lễ hàng ngày, các tín hữu có thể tụ tập ở đó để đọc kinh, nghe giảng và lãnh các bí tích. Khôi có ý mua chuộc để cha tiếp sức, nhưng trước sau cha chỉ nói : "Tôi chỉ biết việc đạo, còn nghề giặc giã binh lính, tôi không rành".
Một hôm cha được mời vào dinh nguyên soái. Một xấp thư kêu gọi dân chúng và tín hữu nổi dậy chống nhà vua để trên bàn. Tướng khôi xin cha ký tên. Vị linh mục thấy rõ đã đến lúc tỏ rõ lập trường của mình, liền đứng dậy cầm xấp thư, ném tất cả vào lửa. Dầu vậy quân của Khôi không dám làm gì cha, vì sợ các tín hữu trong đội quân sẽ chống lại.
Sau hơn hai năm vây hãm, ngày 08.9.1835 quân chiều đình đã chiếm lại được thành Phiên An. Cha Du vừa cử hành thánh lễ xong thì bị bắt, bị đánh đập và bị nhốt vào cũi nhỏ, dài một mét (1m), rộng bảy tấc (0.7m), cao tám tấc (0.8). Đó sẽ là "nhà ở" của cha cho đến ngày xử tử, căn nhà mà chủ nhân chỉ có thể ngồi khom lưng suốt ngày đêm.
Số người bị tàn sát lên đến 1994, trong đó có 66 tín hữu (chỉ có 20 nam, còn bao nhiêu là phụ nữ và trẻ em), cha Phước cũng bị xử lăng trì (chặt chân tay, rồi chẻ thân hình làm bốn). Cha Du được đưa ra xét xử
- Giặc đã đem thầy vào thành, thầy không làm gì để chúng giúp chúng sao?
- Tôi chỉ lo việc giảng đạo mà thôi…
- Giảng đạo là giống gì ?
- Là đọc kinh, làm lễ và dạy dỗ bổn đạo.
- Thầy có biết làm thuốc mê để dỗ lòng ngụy cho nó theo không?
- Tôi chỉ biết có một việc là giảng đạo mà thôi.
Sau hai cuộc tra vấn nữa, cha Du bị giam trong cũi và bị áp giải về kinh đô cùng với tổng Trắm, đồ Hoành bốn Bang, phó Nhã và con trai Lê văn Khôi là Lê văn Viên mới bảy tuổi. Đoàn người vế tới Phú Xuân ngày 15.10, cha du bị gaim trong ngục Võ Lâm gần tòa Tam Pháp.
* Đàng sau bản án phản loạn.
Hôm sau 16.10, cha Du bị đưa ra tòa Tam Pháp. Các quan cố ép cha nhận tội giúp Khôi làm loạn. Nhưng cha khẳng định : "Tôi chỉ lo cầu nguyện cùng Chúa và làm lễ thôi". Quan hạch hỏi: - Có phải người gửi thư vô Xiêm, cùng gửi thư cho quân Gia Tô trong Đồng Nai, biểu nó đến giúp ngụy không ?
Cha Du trả lời : "Ông Khôi có yêu cầu tôi viết thư, song tôi không chịu viết, một nói cho ông ấy hay : Đạo tôi cấm làm như vậy và tôi thà chết chẳng thà làm theo lời ông ấy. Dầu thế ông Khôi còn đêm mấy bức thư ra, biểu tôi ký tên vào, thì tôi lấy mấy cái thư ấy mà đốt đi trước mặt ông ấy".
Để bắt cha nhận tội, tối hôm sau, các quan dùng đủ cực hình kìm kẹp : Họ cho nung đỏ kìm sắt và cho kẹp hai lần vào hai đùi cha, rồi giữ nguyên cho tới khi kìm nguội. Một lần như vậy mùi thịt cháy xông lên khét lẹt, chính quân lính cũng phải quay mặt đi. Vị anh hùng đức tin hai lần ngất xỉu, nhưng vẫn giữ nguyên lời khai cũ. Họ đành nhốt cha vào cũi lại, rồi đưa về ngục.
Để tạo chứng gian buộc tội cha, các quan dỗ con trai Lê văn Khôi, hứa trả tự do nếu khai rằng "Ông thày Tây" giúp cha em khởi nghĩa. Nhưng cậu bé bảy tuổi ấy không biết nói dối, cậu nói cha Du hoàn toàn vô can, dầu cha cậu có hứa hẹn, khuyên dụ nhiều phen.
Cuối cùng, các quan đành xoay qua "tội giảng đạo". Họ nhắc đến chiếu chỉ nhà vua, và hứa ân xá nếu cha bước qua Thánh Giá. Cha Du cám ơn quan và tuyên bố sẵn sàng chịu cực hình, chứ không thể thất trung với Chúa. họ lại tiếp tục nhốt cha trong cũi. Sáu tuần lễ ở kinh đô đã trôi qua như thế. Các tín hữu ghé vào thăm và tiếp tế cho cha, đều thuật lại rằng : "Cha Du vẫn luôn vui vẻ và thường cầm cuốn sách nhỏ để đọc đêm ngày".
Thừa lệnh vua Minh Mạng, bản án cuối cùng được viết như sau : "Tây dương ma Sang kêu là danh Du, Gia Tô đạo trưởng, phò ngụy Khôi, nhận tội viết thư xin Hồng Mao (nước Anh) và Xiêm La (Thái Lan) sang giúp ngụy thần. Lệnh xử bá đao".


* Chết vì lý do tôn giáo.
Sáng sớm 30.11.1835, bảy phát súng thần công nổ vang kêu gọi mọi người đến tham dự cuộc xử án. Cha Du, ba vị tướng của Khôi và em Lê Văn Viên được đưa ra khỏi cũi (phó Nhã đã chết trong ngục), mọi người chỉ được đóng khố, rồi dẫn đến cửa Ngọ Môn trình diện và phục lạy vua năm lạy. Vua Minh Mạng tỏ vẻ giận dữ ném chiếc cờ hiệu xuống đất. Đó là dấu không ân xá lần cuối, năm tội nhân được đưa ra pháp trường. Riêng cha Du, theo mật lệnh, được đưa vào tòa Tam Pháp tra khảo một lần nữa. Đọc nội dung cuộc tra khảo này, chúng ta thấy quan quân không đá động gì đến lý do chính trị cả !
Năm người lính cầm năm kìm nung đỏ kẹp vào bắp vế cha. phía sau là năm người lính khác cầm roi để năm lý hình không được phép nương tay. Ba lần kìm kẹp, thân thể cha Du có đủ 15 vết bỏng. Song song với cuộc tra tấn là mẫu đối thoại sau :
- Tại sao Gia Tô móc mắt mấy người gần chết?
- Không có, không bao giờ tôi thấy điều đó.
- Tại sao mấy người kết hôn lại phải đến các thày đạo trước bàn thờ ?
- Họ đến để thày cả chúc phúc và chứng nhận trước mặt các tín hữu ở đó.
- Khi làm yến tiệc trong nhà thờ, bay làm những sự quái gở lắm phải không ?
- Không, chẳng có những điều quái gở.
- Vậy sao có thứ bánh dùng làm bùa mê thuốc lú để phát cho những đứa đã xưng tội mà làm nó mê đạo đến thế?
Cha Du kiệt sức không thể trả lời được nữa. Lính dọn cho tử tội bữa ăn sau cùng, nhưng cha không dùng chi cả, chỉ lo cầu nguyện với Chúa. Sau đó, lính đưa các tử tội đến pháp trường tại họ Thợ Đúc bên sông Hương, cách kinh thành một dặm đường.
* Chết như một tội nhân.
Năm cây cọc đã cắm sẵn. Lính trói năm tử tội, cha Du bị trói vào cây cọc thứ hai. Ngài bị án "Phản loạn" và sẽ chết giữa những người phản loạn. Dân chúng bị đuổi lùi ra xa 30 thước. Cứ mỗi tử tội lại có ba lý hình, một cầm kìm, một cầm đao, còn một lo đếm số cho đủ 100 lát cắt. Trước đó, lính đã nhét vào miệng tội nhân và cột chặt, để không ai có thể kêu la được nữa.
Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da trên trán cha Du lật xuống che mặt, rồi cắt từng mảnh hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn, vị chứng nhân giẫy giụa, quằn quại, ngước mắt lên trời cao rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa đời. Tiếp theo quân lính cắt đầu của ngài, cởi dây, bổ thân mình làm bốn, và ném xuống biển chung với bốn tử tội kia. Còn thủ cấp cha, được đưa đi bêu ở nhiều nơi, rồi được trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.
Ngày 30.11.1835 cũng là ngày kính thánh Anrê. Các thánh lễ hôm đó đều đọc lại đoạn sách Isaia (Is. 52,7): "Đẹp thay bước chân người rao giảng Tin Mừng" như lời chúc tụng vị thừa sai đã hoàn tất sứ mạng tông đồ của mình. Giáo Hội đã rất thận trọng khi nghiên cứu hồ sơ cha Marchand Du, căn cứ vào các buổi tra khảo, nhất là cuộc thẩm vấn cuối cùng, Giáo Hội khẳng định ngài đã hiến mạng sống vì đức tin. (2)
Đức Lêo XIII đã suy tôn linh mục Marchand Du lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng  Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2014

Thứ Bảy Tuần XXXIV Thường Niên



Lời Chúa: Anh em hãy tỉnh thức, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến.
“ Ha-lê-lui-a. Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đứng vững trước mặt Con Người. Ha-lê-lui-a.”
Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục
Quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta
Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ
Còn ta là dân Người lãnh đạo

Là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.


Ngày 29/11 – Tôi tớ Chúa Gioan Monte Corvinô, Giám mục (1247-1328)
Ngài rao giảng Phúc âm cho người Mông cổ, rồi tới Trung quốc vào khoảng thời gian Marco Polo trở lại.
Ngài đã từng là một binh sĩ, thẩm phán và bác sĩ, rồi đi tu. Năm 1278, ngài tới Tabriz, Persia (Iran ngày nay), ngài có tiếng giảng hay và dạy giỏi. Năm 1291, ngài rời Tabriz với tư cách là đại diện của ĐGH Nicholas IV tới triều đình của Kublai Khan. Ngài và một thương gia người Ý tới Trung quốc năm 1294, khi Kublai Khan đã băng hà.
Nhiều Kitô giáo phản đối giáo huấn của Công đồng Êphêsô về Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã hoán cải một số người và một số người Trung quốc, kể cả Hoàng tử George của lảnh địa Tenduk, thuộc Tây Bắc của Bắc Kinh. Hoàng tử George đã đặt tên con trai mình theo tên tu sĩ Gioan Monte Corvinô.
Ngài thành lập cơ quan chính ở Khanbalik (Bắc Kinh ngày nay), tại đây ngài đã xây 2 nhà thờ. Năm 1304, ngài dịch các Thánh vịnh và Tân ước sang tiếng Tatar.
Trả lời 2 lá thư của ngài, ĐGH Clêmentô V đã bổ nhiệm ngài làm TGM GP Khanbalik năm 1307, và tấn phong 7 tu sĩ khác làm giám mục các giáo phận khác. Một vị ở lại Âu châu, 3 vị qua đời trên đường tới Trung quốc, 3 vị khác và các tu sĩ theo bước họ tới Trung quốc năm 1308.
Khi ngài qua đời, nhiều người Kitô giáo và ngoài Kitô giáo đều thương tiếc. Mộ ngài trở nên nơi hành hương. Năm 1368, Kitô giáo bị bách hại khi người Mông cổ bị trục xuất khỏi Trung quốc, và đời nhà Minh bắt đầu.

Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

Thứ Sáu Tuần XXXIV Thường Niên



Lời Chúa: Khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
“ Ha-lê-lui-a. Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc. Ha-lê-lui-a.”
Phúc thay người được ở trong thánh điện
Họ luôn luôn được hát mừng Ngài
Phúc thay kẻ lấy Ngài làm sức mạnh
Càng tiến lên họ càng mạnh bước.



Ngày 28-11-1814-1835 Thánh Anrê Trần văn Trông Quân nhân Tử đạo
Thánh Anrê Trần Văn Trông sinh năm 1814 trong một gia đình Công Giáo ở Kim Long, Phú Xuân (Huế). Cậu là con trai duy nhất trong nhà. Năm lên 15 tuổi, cha cậu mất sớm, gia đình phải lâm vào cảnh mẹ góa con côi. Vì thương mẹ và không muốn mẹ phải chịu khổ nhiều, nên Anrê Trông đành thu xếp sách đèn, theo chân bà con lối xóm về họ Thợ Ðúc dệt tơ cho hoàng gia. Ảnh hưởng sự giáo dục từ người mẹ hiền, cậu ngay thẳng thật thà, luôn chăm chỉ làm việc và không ưa những chuyện gây gỗ, bất hòa. Mỗi buổi chiều, sau những giờ lao động mệt mỏi, cậu thường vác cần câu đến ngồi bên bờ sông Hương xanh biếc, để được gần gũi với thiên nhiên.
Năm 20 tuổi, Anrê Trông cảm thấy với đồng lương ít ỏi của nghề thợ dệt tơ không đủ nuôi sống gia đình, cậu đành giã từ mẹ lên đường nhập ngũ.

Sau tám tháng phục vụ trong quân đội, tháng 11 năm 1834, triều đình ra lệnh những binh sĩ Công Giáo phải ra trình diện. Không chút e dè, Anrê Trông cùng với 12 đồng đội cùng ở khu Thợ Ðúc đến ra mắt quan. Quan yêu cầu các anh phải tuân lệnh nhà vua bỏ đạo và đạp lên Thánh Giá. Cả 13 chiến sĩ Công Giáo đều cương quyết khước từ. Các quan bèn dùng biện pháp tra tấn dã man... Lần lượt 12 người từ từ bỏ cuộc, chỉ còn một mình Anrê Trông vẫn trung kiên đến cùng. Quân lính trói anh lại khiêng qua Thánh Giá, nhưng anh co chân lên quyết không xúc phạm đến ảnh Chúa. Thế là từ trại lính, anh bị tống qua trại giam. Các quan kết án tử hình, nhưng còn giam hậu, nghĩa là chưa xử tử ngay.
Suốt một năm bị giam trong ngục, Anrê Trông chịu nhiều điều cơ cực khổ sở, nhưng niềm tin của anh qua những thử thách đó càng ngày càng vững mạnh. Anh sốt sắng cầu nguyện và đặc biệt phó thác đời mình cho Ðức Mẹ, xin Chúa vì lời Mẹ Maria chuyển cầu ban cho ơn trung tín đến cùng. Những món quà tiếp tế nhận được, anh chia sẻ cho các bạn tù và lính canh ngục, nên được họ quí mến. Cũng chính nhờ đó, anh có cơ hội đặc biệt để đi xưng tội, rước lễ và thăm mẹ.
Khi biết tin có cha Ngôn đang hoạt động ở Phú Xuân, Anrê Trông liền xin viên cai ngục và cậu được phép về nhà một ngày dưới sự giám sát của một người lính. Nhờ đã dò hỏi rõ nơi ở của vị linh mục, Anrê Trông và người lính chèo thuyền đến bến đò kia vào giữa lúc trưa. Lúc đó, mọi người dân chài đã lên bờ ăn uống nghỉ ngơi. Anh Anrê Trông liền bước qua thuyền của cha Ngôn, đẩy thyền trôi nhẹ ra giữa dòng. Hai người nhỏ to tâm sự và anh quỳ xuống lãnh phép lành tha tội. Xưng tội xong, anh ngỏ ý xin rước lễ, cha Ngôn hẹn anh sáng hôm sau tại Kẻ Văn. Thế rồi anh và người lính tiếp tục chèo thuyền về Kim Long. Hai người lên bờ và ngủ tại nhà mẹ một đêm. Tả sao cho xiết niềm vui của hai mẹ con được tái ngộ trong hoàn cảnh bất ngờ này. Mẹ anh đã hết lời khích lệ động viên anh kiên tâm vì đức tin.
Tảng sáng hôm sau, anh Anrê Trông và người lính gác vội vã chèo thuyền đến điểm hẹn. Gặp lại vị "khách quí" là cha Ngôn, anh liền quỳ xuống lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Cha Ngôn chúc lành: "Ước gì Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô sẽ gìn giữ con đến cuộc sống muôn đời". Anh thưa: "Amen". Rồi trong niềm hân hoan vì hồng phúc mới lãnh nhận, anh vui vẻ trở về trại giam như lời hứa với viên cai ngục.
Sau một năm giam tù, thấy không hy vọng gì Anrê Trông thay đổi ý kiến, các quan quyết định ngày xử là 28/11/1835. Sáng hôm đó, người chiến sĩ đức tin gặp được người anh họ mình. Anh ta hỏi có muốn ăn gì không? Anrê Trông trả lời: "Em muốn ăn chay để dọn mình tử đạo", rồi nói tiếp: "Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Ðừng lo gì cho em cả, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện, và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết". Nhưng thực tế, người anh họ chưa kịp nhắn lại. Bà mẹ của Anrê Trông khi hay tin con bị đem xử, liền vội vã ra đón con ở đầu chợ, nơi con sắp đi qua, gặp con, bà chỉ hỏi một câu vắn tắt: "Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần ai chăng, nếu có thì cho mẹ hay, mẹ sẽ trả thay con". Tấm lòng người mẹ là thế đấy. Bà biết rõ con của mình đủ can đảm chịu mọi đau đớn, giờ đây bà chỉ lo cho con về đức công bình.
Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh thêm lời khích lệ. Ðến nơi xử, sau khi quân lính tháo gông xiềng, người chiến sĩ đức tin liền đón lấy, trao cho người lính cạnh bên và nói: "Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm". Mẹ anh đứng gần nên nghe rất rõ, nhưng bà chưa lấy kỷ vật đó làm đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa.
Chiêng trống nổi lên, lý hình vung gươm, đầu vị tử đạo 21 tuổi rơi xuống. Bà mẹ của Anrê Trông chứng kiến ngay từ giây phút đầu tại pháp trường, bà thỏa lòng dù rất khổ đau, bước ra đòi viên chỉ huy trao thủ cấp con bà.
Trong hạnh tích thánh Anrê Trông, người quân nhân xứ Huế, Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII ca tụng người mẹ của thánh Anrê Trông đã thể hiện lòng can trường "theo gương Nữ Vương Các Thánh Tử Ðạo". Như Ðức Maria dưới chân Thánh Giá dâng hiến người Con Yêu Dấu, bà mẹ đó cũng có mặt trong cuộc hành quyết để hiến dâng người con trai duy nhất của mình. Bà đi bên cạnh con, không than khóc không sầu buồn, trái lại còn bình tĩnh vui vẻ khuyên con hãy bền chí đến cùng. Khi đầu Anrê Trông rơi xuống, bà mạnh dạn bước vào pháp trường kêu lớn tiếng trước mặt các quan: "Ðây là con tôi, đứa con mà tôi đã cưu mang dưỡng dục. Giờ này nó vẫn là con tôi, xin các ông trả lại tôi cái đầu của con tôi". Nói xong, bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp đẫm máu của người con yêu quí. Bọc trong vạt áo rồi ghì chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lặp đi lặp lại: "Ôi con yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ nhé!" rồi bà đem về mai táng trong nhà.
Ngày 27/05/1900, Ðức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn người chiến sĩ anh hùng Anrê Trông lên hàng Chân Phước. Ngài cũng không ngớt lời ca ngợi mẫu gương của bà mẹ hào hùng, đã họa lại gần trọn vẹn hình ảnh Ðức Maria, Nữ Vương Các Thánh Tự Ðạo xưa trên đỉnh Canvê. Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh.

Ngày 28/11 – Thánh James Marche, Linh mục (1394-1476)
Ngài sinh tại Marche, thuộc Ancona, Trung Ý, dọc theo biển Adriatic. Sau khi đạt học vị tiến sĩ về giáo luật và dân luật tại ĐH Perugia, ngài vào Dòng Phanxicô và sống khổ hạnh. Ngài ăn chay 9 tháng trong năm, mỗi đêm chỉ ngủ 3 giờ. Thánh Bernardine Siena nói ngài đền tội vừa phải thôi.
Ngài học thần học với thánh Gioan Capistranô, thụ phong linh mục năm 1420, đi rao giảng khắp nước Ý và ở 13 nước thuộc Trung Âu và Đông Âu. Ước tính ngài đã làm cho khoảng 250.000 người trở lại đạo và giúp phổ biến lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu. Lời ngài giảng làm cho nhiều người Công giáo canh tân đời sống và nhiều thanh niên gia nhập Dòng Phanxicô.
Cùng với các thánh Gioan Capistranô, Albertô Sarteanô and Bernardine Siena, thánh James được coi là một trong 4 cột trụ của Phong trào Observant của Dòng Phanxicô (theo đùng nghi lễ). Các tu sĩ này nổi tiếng giảng hay.
Để đấu tranh chống ăn lời cao, thánh James thành lập Hội montes pietatis (nghĩa đen là Núi Bác ái) – một tổ chức phi lợi nhuận cho vay tiền và cầm đồ với mức lời thấp. Ai cũng phấn khởi với việc ngài làm. Khi đối mặt ngài, 2 kẻ ám sát đã không dám giết ngài. Ngài được phong thánh năm 1726.

Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014

Thứ Năm Tuần XXXIV Thường Niên



Lời Chúa: Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại.
“ Ha-lê-lui-a. Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc. Ha-lê-lui-a.”
Bởi vì Chúa nhân hậu
Muôn ngàn đời Chúa vẫn chọn tình thương

Qua bao thế hệ vẫn một niềm thành tín.


Ngày 27/11 – Thánh Francesco Antonio Fasani, Linh mục (1681-1742)
Ngài sinh tại Lucera (Đông Nam Ý), vào Dòng Phanxicô năm 1695. Ssau khi thụ phong linh mục được 10 năm, ngài dạy triết học cho các tu sĩ trẻ, làm người gác cổng nhà dòng và được bầu làm giám tỉnh. Khi hết nhiệm kỳ, ngài làm giáo tập và linh hướng.
Ngài có lòng yêu thương, đạo đức và đền tội. Khi nghe án phong thánh, một nhân chứng làm chứng về sự thánh thiện của ngài: “Cách ngài giảng rất thân thiện, đầy tình yêu dành cho Chúa và cho tha nhân, đầy Chúa Thánh Thần, ngài nói và làm như Kinh thánh, đánh động lòng người và khiến người nghe ăn năn đền tội”.
Ngài luôn tỏ ra là người bạn trung thành của người nghèo, không bao giờ lưỡng lự giúp đỡ những gì người khác cần. Khi ngài qua đời, nhiều người than khóc ngài: “Thánh nhân đã qua đời! Thánh nhân đã qua đời!”. Ngài được phong thánh năm 1986.

Ngày 26/11 Thánh Đaminh Nguyễn Văn Xuyên Lm và Thánh Tôma Đinh Viết Dụ Lm Tử đạo



Ngày 26-11-1786-1839 Thánh Đaminh Nguyễn văn Xuyên Linh mục dòng Đaminh Tử đạo.
Ða-Minh Nguyễn Văn Xuyên (Ðoàn), Sinh năm 1786 tại Hưng Lập, Nam Ðịnh, Linh mục dòng Ða Minh. , bị xử trảm ngày 26/11/1839 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 26/11.
Sau đây là những vần thơ lục bát do thánh Đaminh Xuyên sáng tác trong ngục tù, vừa diễn tả tâm tình của mình vừa khuyên nhủ các tín hữu đến thăm. Những vần thơ ngắn gọn nhưng cô đọng trọn vẹn triết lý sống của các vị tử đạo, lòng tràn đầy niềm tin yêu vượt qua mọi gian khổ để chiếm đoạt vinh quang nước trời.
Ai ơi giữ lấy túi khôn,
Dẫy tràn tin cậy đầy lòng mến yêu.
Gươm đao đe đọa dẫu nhiều,
Quỷ ma cám dỗ sớm chiều đe loi.
Ai mà thắng được trên đời,
Mai sau hưởng phúc cõi trời cao sang.
* Tấm lòng người tu sĩ áo trắng.
Đaminh Nguyễn Văn Xuyên còn có tên là Doãn, sinh năm 1786 tại làng Hưng Hiệp, tỉnh Thái Bình. Thấy con có trí thông minh, cha mẹ cho cậu đi học chữ Nho, rồi gửi gấm cậu cho Đức cha Delgado Y dạy bảo. Được Đức cha nhắc nhở, cậu Xuyên chăm chỉ học hành, nhất là học giỏi giáo lý. Lớn lên, ngài cho anh vào chủng viện, và trao ban chức linh mục năm 1819. Ngày 20-04 năm sau, cha Xuyên tuyên khấn trong dòng thánh Đaminh. Từ đó, cha rất nhiệt thành phục vụ các giáo hữu, không ngừng đi nhiều nơi giảng tĩnh tâm, dạy giáo lý và sốt sắng cử hành phụng vụ bí tích.
Trước tiên, cha Xuyên coi xứ Phạm Pháo, tỉnh Nam Định, rồi về xứ Kẻ Mèn, Thái Bình trong ba năm. Tại đây, ngài lập họ đạo mới, họ Thanh Minh, chọn thánh Vinh sơn làm bổn mạng. Sau cha phụ trách xứ Đông Xuyên 13 năm. Thời gian này dân chúng bị hạn hán mất mùa nhiều năm, và bị giặc Phan Bá Vành quấy phá nên đói nghèo khổ sở. Có lần cha phải dốc cạn túi để giúp đỡ họ, có lần cha nhường phần cơm của mình… Bao giờ cha cũng để một ngân khoản riêng làm việc bác ái, từ thiện.

Cuối năm 1836, cha được bổ nhiệm làm phụ tá cha Fernandez Hiền tại chủng viện Ninh Cường giữa lúc cuộc bách hại của vua Minh Mạng gay gắt. Năm sau cha về làm quản lý giáo phận Đông Đàng Ngài, giúp Đức cha Delgado Y. khi Đức cha phải lưu lạc về Kiên Lao rồi bị bắt thì cha Xuyên vừa tìm chỗ ẩn trốn, vừa giúp xứ Hạ Linh. Tuy phải lang thang nay nhà này mai nhà khác, cha cũng phục vụ các tín hữu ở đây được khoảng một năm. Ngày 18.8, cha đến cử hành lễ mừng thánh Gioakim, bổn mạng họ Phú Đường (họ lẻ xứ Hạ Linh) thì bị bắt. Một giáo viên trước có dạy ở Bùi Chu biết mặt cha đã đi báo quan kiếm tiền thưởng.


* Bền trí trung kiên…
Cha Xuyên dâng lễ gần xong, nghe tiếng loa gọi của quân lính, cha vội rước hết Mình Thánh rồi cởi áo lễ đi trốn. Nhưng không kịp nữa, quân lính đã tóm bắt cha và dẫn đến quan phủ. Quan phủ cười hỏi: "Đưa đây một số bạc, ta tha cho về". Cha trả lời: "Tôi chẳng có đồng nào trong người, nếu quan tha tôi cám ơn, nếu quan bắt tôi xin chịu". Về sau giáo hữu Hạ Linh góp tiền đem đến chuộc, nhưng quan phủ không dám thả nữa vì trên tỉnh đã biệt.
Khi nghe thuật lại chuyện, cha Xuyên an ủi họ : "Anh em hãy để tiền lo cho giáo xứ thì hơn, đừng tốn tiền chuộc tôi làm chi vô ích. Ý Chúa đã muốn, chẳng ai làm khác được. Anh em cứ bình an về nhà, nhớ cầu nguyện cho tôi chịu sự khó cho nên". Thế rồi cha mang gông nặng theo lính về Nam Định.
Biết cha là quản lý tòa Giám mục, Tổng đốc Trịnh Quang Khanh không những bắt cha bỏ đạo mà còn muốn khai thác các tài sản giáo phận. Lần đầu tiên khi ra lệnh đánh đòn, Tổng đốc đứng ngay bên thúc giục: "Đánh nữa, mạnh lên cho đến khi nó chịu khai và xuất giáo". Người chiến sĩ đức tin chỉ biết kêu tên cực trọng "Giêsu, Maria, xin cứu con !", cho đến khi bất tỉnh phải khiêng về ngục.
Những lần sau ngài cố gắng cắn răng chịu đựng không kêu một tiếng, cũng chẳng tiết lộ điều gì về giáo phận. Quan tổng đốc cho dùng những cực hình đã man hơn : lấy sắt nung đỏ dí vào cháy từng miếng thịt, cầm kìm nguội, kẹp hay cắt nhiều chỗ trên thân thể … Nhưng cha can đảm gắng sức nói thẳng với quan: "Dù sống dù chết, tôi cũng không bỏ đạo. Tôi chọn cái chết để sống đời đời, hơn là nghe quan sống thêm ít lâu mà muôn đời bị tiêu diệt".
Nhiều lần quá đau đớn ngất xỉu giữa cuộc tra tấn. Sợ vị quản lý giáo phận chết sớm, Tổng đốc sai lính đưa cha về ngục, cho mời lang y chữa trị để mong biết được những tài sản mà ông tưởng là vô số. Đến khi cha Xuyên bình phục, quan lại đưa ra khảo nữa, nhưng ông phải thất vọng vì thực sự giáo phận chẳng có gì để khai, mặt khác, chẳng bao giờ cha chịu khuất phục bỏ đạo.
* Phần thưởng nước trời.
Ngày 25.10, quan Tổng đốc lập bản án trảm quyết gởi về kinh đô. Tháng sau bản án của cha Xuyên và cha Dụ trở lại Nam Định. Những ngày cuối, hai cha được giam chung một phòng, tay bắt mặt mừng, xưng tội với nhau, an ủi khích lệ nhau vững chí đến cùng.
Ngày 26.11.1839, hai cha bị dẫn đi xử. Giữa đám quân lính đông đảo võ trang voi ngựa, hai vị chứng nhân Đức Kitô đi bộ mang gông, nhưng bình tĩnh vui vẻ, vừa đi vừa cầu nguyện cho tới pháp trường Bảy Mẫu. Dân chúng đi xem đều bỡ ngỡ thán phục. Quan hỏi lại lần chót có muốn xuất giáo để được tha không. Hai vị trả lời: "Không", rồi đưa tay cho lính trói vào cọc đã chôn sẵn.
Hai nhát gươm cùng vung lên, hai tôi tớ Chúa được lãnh triều thiên tử đạo tiến thẳng về Trời. Cha Xuyên với 53 tuổi đời, phục vụ Chúa trong chức vụ linh mục được 20 năm. Thi thể ngài được an táng ngay tại đó. Tháng giêng năm 1841, tín hữu cải táng hài cốt ngài về Lục Thủy.
Đức Lêo XIII suy tôn cha Đaminh Nuyễn Văn Xuyên, linh mục dòng Thuyết giáo lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.


Ngày 26-11-1783-1839 Thánh Tôma Đinh Viết Dụ Linh mục dòng Đaminh Tử đạo.
Tôma Ðinh Viết Dụ, Sinh năm 1783 tại Phú Nhai, Nam Ðịnh, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 26 tháng 11 năm 1839 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII suy tôn linh mục dòng Đaminh, cha Tôma Đinh Viết Dụ lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 26/11.
Giả thiết có ai đặt câu hỏi như sau : "Anh sắp bị giam tù lâu ngày, anh muốn mang theo cái gì ?". Mỗi người chúng ta sẽ có câu trả lời riêng, nhưng xoay quanh hai nhu cầu là tiền bạc và đồ dùng thường nhật. Câu trả lời bằng hành động của thánh Tôma Dụ lại rất khác. Tài sản duy nhất, vũ khí duy nhất, cũng là hành lý duy nhất của ngài là một chuỗi tràng hạt Mân Côi. Suốt đời cha đã đọc, đã sống và truyền bá kinh Mân Côi cho mọi người, giờ đây cha tiếp tục phó thác bản thân cho sự bảo trợ của Mẹ Maria.
* Một đời hiến dâng.
Tôma Đinh Viết Dụ sinh khoảng năm 1783, tại làng Phú Nhai, tỉnh Nam Định. Được Chúa kêu gọi, từ bé, cậu đã quyết tâm sống đời tu trì. Sau khi thụ phong linh mục, cha Dụ xin nhập dòng Đaminh và khấn ngày 21.12.1814. Cha là một tông đồ nhiệt thành dấn thân vì lợi ích các linh hồn. Đồng thời cha cũng là một tu sĩ gương mẫu về đời sống chiêm niệm, ngày đêm chìm đắm trong suy gẫm cầu nguyện, đến nỗi các bạn trong dòng đã gọi ngài là "Thánh Brunô Việt Nam".
Cha Dụ đã hoạt động tông đồ nhiều nơi, trước khi tới họ Liễu Đề, Bùi Chu, thay thế cha Phêrô Tuần bị bắt năm 1838. Ngày 20.03.1839, dưới thời vua Minh Mạng cấm đạo, Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dẫn 800 quân lính bao vây, lục soát làng Liễu Đề, vì có người chỉ điểm báo tin "Danh Trùm Vọng" tức cha Hemoisilla Liêm đang ở đó, nhưng lính không bắt được cha Vọng. Phần cha Dụ, khi vừa hoàn tất thánh lễ tại nhà bà Anrê Thu, được tin quan quân đã vây kín làng, biết không kịp đến nơi trú ẩn cách đó hơi xa, cha đành cải trang thành người làm vườn qua nhà bên cạnh lúi húi ngồi nhổ cỏ. Quân lính đi ngang qua không biết, nhưng người tố cáo nhận ra được và nói : "Đạo trưởng đấy". Thế là cha bị bắt và dẫn đến quan đang ở đình làng. Cha bình tĩnh nói : "Tôi là Đạo trưởng, có nhiệm vụ coi sóc giáo hữu ở đây".
Tiếp đó, quan hỏi về thừa sai Vọng và các linh mục khác ở đâu, cha nhất quyết không trả lời chi cả. Quan tức giận cho lục soát khắp người xem có tiền bạc giấy tờ gì không. Nhưng ông hoàn toàn thất vọng, vì chỉ có một chuỗi tràng hạt Mân Côi, lính tịch thu và đánh cha 21 roi. Cha vui vẻ chịu đòn, không một lời than van oán trách. Bà Anrê Thu, vì không kịp cất giấu đồ lễ, nên cũng bị bắt trói và giữ tại đình làng 24 tiếng đồng hồ mới được về.

* Xin vâng ý Cha.
Cha Tôma Dụ bị đóng gông vào cổ, tay chân mang xiềng xích như một tội phạm, và bị giải lên tỉnh Nam Định. Các quan ở đây tiếp tục tra vấn nhiều lần, khuyên dụ cha đạp lên Thánh Giá. Nhưng mặc cho những lời dụ dỗ hay dọa nạt, cha Dụ vẫn cương quyết không xúc phạm đến Thập Giá, và không cung khai điều gì hại đến các tín hữu. Cha bị đánh đạp tàn nhẫn nhiều lần, lần thứ nhất 90 roi, lần hai 30 roi, lần khác 20 roi và phải đón nhận nhiều lời mắng nhiếc chế nhạo của dân chúng tò mò đến xem.
Sau những cuộc tra tấn, cha Dụ bị tống giam vào ngục, ban ngày mang gông xiềng, ban đêm bị cùm chân, thêm vào đó là chịu đói khát, chịu nóng nực hôi hám khổ cực khôn tả. Vị tông đồ của Chúa chẳng những tỏ ra nhẫn nhục, mà còn vui vẻ coi đó là những cơ hội tốt để suy niệm và bước theo chân Đức Kitô tử nạn. Chứng nhân Giuse Hiền thuật lại chuyện mẹ của ông ta, giả làm hành khất vào tận ngục thăm cha. Khi thấy cha tiều tụy vì những cuộc tra tấn, bà khóc lên nức nở, cha nói với bà :
"Sức lực tôi tuy giảm, nhưng tôi còn có thể chịu đựng được nữa. Chúa chúng ta đã chịu bao cực khổ để cứu độ nhân loại, tôi cũng sẵn lòng chịu những sự khổ này để nên giống Chúa Kitô phần nào".
* Để danh Chúa cả sáng.
Lần thứ hai bà vào thăm, cha dụ cho biết những cực hình sau này cha cảm thấy không đau đớn như trước, hình như Chúa đã giảm bớt sự đau khổ cho cha. Khi bà chào từ biệt, cha nói : "Tôi không biết ngày nào sẽ được hiến dâng mạng sống vì Chúa, có thể anh chị em không còn gặp tôi nữa. Bà hãy cầu nguyện nhiều, xin Chúa ban cho tôi ơn nhẫn nại chịu đựng tất cả những điều người ta gây cho tôi để danh Chúa được cả sáng".
Sau sáu tháng giam cầm và tra tra tấn, quan tuyên bố bản án với những lời sau: "Đạo trưởng Tôma Đinh Viết Dụ bị kết án trảm quyết vì tội truyền bá Gia Tô tả đạo. Các quan đã hết sức khuyên dụ, dọa nạt và tra tấn để bắt y quá khóa theo luật nước, nhưng y không chịu. Y đã trở nên chai đá không gội rửa được những dị đoan đã quá ăn sâu… Do đó, mọi người thấy rõ y là kẻ điên khùng cố chấp bất trị, đáng khinh dể. Vậy phải nghiêm trị, còn phàn nàn gì nữa".
Thực tế, cha Dụ nghe bản án có phàn nàn chi đâu. Ngày 07.11, vua Minh Mạng ký án. Ngày 12.11, án về tới Nam Định. Khi ấy có cha Đaminh Nguyễn Văn Xuyên cũng thuộc dòng thánh Đaminh đã bị bắt ngày 18.8 được đưa tới trại giam chung và cùng bị án tử với cha Dụ. Hai anh em gặp nhau trong tù tay bắt mặt mừng, hàn thuyên tâm sự. Hai cha xưng tội với nhau, an ủi khuyến khích nhau kiên trì tới cùng.
* Mừng ngân khánh trên thiên quốc.
Ngày 26.11.1839, hai vị tông đồ Chúa bị điệu đến nơi xử án. Hai vị ung dung bưởc đi giữa một đoàn quân oai vệ, có các quan cưỡi voi chỉ huy với cờ quạt chiêng trống, và theo sau là đông đảo dân chúng. Vai mang gông, tay mang xiềng, hai vị thừa sai vừa đi vừa cầu nguyện, dáng điệu hân hoan khiến mọi người phải sửng sốt bỡ ngỡ. Quan hỏi lần chót xem nếu chịu xuất giáo sẽ được tha. Hai cha trả lời ngắn gọn: "Không" rồi tiếp tục cầu nguyện cho tới khi đến pháp trường Bảy Mẫu. Bà Maria Ơn có mặt tại buổi hành quyết thuật lại rằng : "Tôi thấy hai cha quỳ xuống, chắp tay lại, mắt hướng lên trời, lính cưa gẫy gông, chặt đứt xích sắt, trói tay vào cột rồi chém cổ hai cha". Sau khi thi hành án trảm, lý hình tung đầu hai cha lên cao ba lần và nói : "Đầu đạo trưởng đã bị chém đây".
Cha Tôma Đinh Viết Dụ hưởng thọ 56 tuổi, đã lãnh phúc tử đạo đúng vào năm kỷ niệm ngân khánh linh mục của cha. Một mùa ngân khánh được ghi vào lịch sử Giáo Hội. Thi thể hai cha được an táng ngay tại pháp trường. Đến tháng giêng năm 1841, tin hữu cải táng về Lục Thủy.
Đức Lêo XIII suy tôn linh mục dòng Đaminh, cha Tôma Đinh Viết Dụ lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Từ đó hài cốt vị tử đạo được đặt trong hòm gỗ sơn son thiếp vàng trưng bày tại đền thờ Phú Nhai. Muôn đời sẽ mãi mãi ghi nhớ hình ảnh người chứng nhân đức tin, một người con yêu của Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi.

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

Thứ Tư Tuần XXXIV Thường Niên



Lời Chúa: Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợ tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu.
“ Ha-lê-lui-a. Chúa phán: Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triền thiên sự sống. Ha-lê-lui-a.”
Vì Người ngự đến xét xử trần gian
Người xét xử địa cầu theo đường công chính

Xét xử muôn dân theo lẽ công bình.

Ngày 26/11 – Thánh Catarina Alexandria, Tử đạo (qua đời khoảng năm 310)
Theo truyền thuyết, thánh Catarina trở lại Kitô giáo sau khi thấy một thị kiến. Lúc 18 tuổi, bà đã tranh luận với 50 triết gia ngoại giáo. Ngạc nhiên trước sự không ngoan và kỹ năng tranh luận của bà, họ đã gia nhập Kitô giáo – kể cả khoảng 200 binh sĩ và các thành viên của hoàng gia. Tất cả họ đều tử đạo.
Bị kết án tử và bị treo vào bánh xe, rồi bà bị chém đầu. Những thế kỷ sau, truyền thuyết cho rằng các thiên thần đã đem thi hài bà tới một tu viện ở chân Núi Sinai.
Lòng sùng kính bà phát triển thành Thập tự quân. Bà được coi là bổn mạng của học sinh, sinh viên, giáo viên, quản thủ thư viện và luật sư. Bà là một trong 14 người giúp việc tông đồ, rất được sùng kính ở Đức quốc và Hungary.

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014

Thứ Ba Tuần XXXIV Thường Niên



Lời Chúa: Sẽ không còn tảng đá trên tảng đá nào.
“ Ha-lê-lui-a. Chúa phán: Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triền thiên sự sống. Ha-lê-lui-a.”
Hãy nói với chư dân Chúa là Vua hiển trị
Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lai

Người xét xử muôn dân nước theo đường ngay thẳng.


Ngày 25/11-Thánh Catarina Alexandria Trinh nữ Tử đạo.
Thánh nữ Catarina sống vào thời Giáo Hội sơ khai. Ngài là con gái của một gia đình dân ngoại giàu có ở thành Alêxandria, Ai Cập. Thánh nữ là một cô gái rất đẹp và rất ham thích việc học hành. Catarina Alêxandria say mê nghiên cứu những vấn nạn sâu xa của triết học và tôn giáo. Một ngày kia, Thánh nữ Catarina Alêxandria bắt đầu đọc các sách viết về Kitô giáo. Và chẳng bao lâu, Catarina Alêxandria trở thành Kitô hữu.      
Thánh nữ Catarina Alêxanđria được 18 tuổi khi hoàng đế Maxentiô bắt đầu bách hại các Kitô hữu. Rất mực can đảm, thánh nữ đáng yêu này đã đến nói cho nhà vua biết về sự độc ác của ông. Khi ông vua này bàn về các tà thần, Catarina đã minh nhiên chỉ cho ông thấy các thần ấy là giả tạo. Maxentiô không thể lý giải được các vấn nạn của Catarina; và vì thế, ông đã triệu vời 50 triết gia ngoại giáo hảo hạng nhất đến để đối phó với Catarina. Một lần nữa, Catarina lại làm sáng tỏ chân lý của đạo Công giáo. Tất cả 50 triết gia này đều phải công nhận rằng Catarina có lý. Hết sức tức giận, Maxentiô đã cho lính giết chết từng người trong họ. Sau đó, ông cố gắng chinh phục Catarina bằng cách tặng cho thánh nữ chiếc vương miện hoàng hậu. Khi biết Catarina Alexanđria nhất mực từ chối, ông liền sai quân lính đánh đòn và tống giam Catarina vào ngục.
Đang lúc Maxentiô cắm trại ở nơi xa, vợ ông và một viên sĩ quan đã tò mò đến nghe cô bé Kitô hữu lạ lùng này thuyết giảng. Họ đã tới bên phòng giam của Catarina Alexandria. Kết quả là họ cùng 200 lính canh khác đã được ơn trở lại. Vì chuyện này, hết thảy cả bọn đã bị Maxentiô lên án tử. Bản thân Catarina thì bị đặt trên một bánh xe đầy đinh nhọn để chịu hành hình. Thế nhưng khi bánh xe bắt đầu quay, thì lạ lùng thay, nó cứ bị bật ra. Sau cùng, Catarina Alexandria bị trảm quyết. Thánh nữ được tôn tặng danh hiệu là thánh bổn mạng của các triết gia Công giáo.
Thánh nữ Catarina Alexandria đã trân quý vẻ đẹp của niềm tin Kitô giáo. Đó là lý do thánh nữ có thể thuyết phục cách hiệu quả những người khác tôn giáo cùng tin theo đạo. Chúng ta hãy nài xin Thánh nữ Catarina Alexandria giúp chúng ta tăng triển lòng yêu mến đối với các chân lý đức tin như ngài.

Ngày 25/11 – Thánh Clêmentê I, Giáo hoàng Tử đạo (qua đời năm 100)
Theo truyền thống, thánh Clêmentê được chính thánh Phêrô phong chức linh mục. Theo một số tác giả, thánh GH Clêmentê là người kế vị thánh GH tiên khởi Phêrô, nhưng một số học giả hiện đại cho rằng thánh Clêmentê là giáo hoàng thứ 3.
Ngài được thánh Phaolô nhắc tới trong thư gởi giáo đoàn Philipphê, và ngài có lẽ là người Philipphê. Các học giả hiện đại cho rằng không biết thánh Clêmentê là người Do Thái hay dân ngoại. Một số học giả cho rằng ngài là người Do Thái vì lá thư nổi tiếng của ngài thấm sâu Cựu ước.
Có học giả cho rằng ngài là người La Mã, tử đạo ngoài thành Rôma. Trong “Công vụ Tử đạo” (Acts of the Martyrs, được viết hồi thế kỷ IV) có nhiều chi tiết thú vị. Thánh Clêmentê bị hoàng đế Trajan bắt đi đày ở Chersonese, Crimea hiện đại. Tại đây ngài tích cực giúp các tù nhân phải làm ở mỏ nên ngài bị kết án tử. Thi hài ngài bị ném xuống biển với chiếc neo gắn vào cổ. Sau đó người ta tìm thấy thi hài ngài và an táng trong mộ cẩm thạch.
Không biết có đúng xương ngài hay không, nhưng thánh tích ngài có giá trị trong thư gởi giáo đoàn Corintô. Các học giả vẫn đồng ý như vậy. Thư này được viết khi một trong các tông đồ còn sống, lá thư của thánh Clêmentê là tài liệu quan trọng đầu tiên hồi đó.


Ngày 25/11 – Thánh Columban, Viện phụ (543?-615)
Ngài là một trong những nhà truyền giáo vĩ đại của Ai-len tại Âu châu. Thời trẻ, ngài khổ sở vì bị cám dỗ về xác thịt, ngài tìm lời khuyên của một phụ nữ đã ẩn tu nhiều năm. Ngài thấy trong câu trả lời của bà là tiếng gọi rời bỏ thế gian. Ngài đến gặp một tu sĩ ở một hòn đảo tại Lough Erne.
Sau nhiều năm sống ẩn dật và cầu nguyện, ngài đến Gaul cùng với 12 nhà truyền giáo khác. Ngài được nhiều người kính trọng vì ngài sống kỷ luật nghiêm khắc, truyền giáo, và bác ái. Ngài thành lập vài tu viện ở Âu châu, các tu viện này đều trở thành các trung tâm tôn giáo và văn hóa.
Cũng như các thánh khác, ngài cũng bị chống đối. Cuối cùng ngài phải kêu gọi giáo hoàng chống lại những lời than phiền của các giám mục ở Frank, để được xác minh sự chính thống và phê chuẩn các thói quen của người Ai-len. Ngài khiển trách nhà vua về cách sống dâm loạn của ông vì ông đã kết hôn. Vì điều này đe dọa quyền lực của mẫu hậu, thánh Columban được lệnh về Ai-len. Tàu của ngài gặp bão, ngài tiếp tục làm việc tại Âu châu, cuối cùng ngài đến Ý, tại đây ngài được vua Lombards ủng hộ. Trong những năm cuối đời, ngài thành lập tu viện Bobbio nổi tiếng, và ngài qua đời tại tu viện này. Các tác phẩm của ngài có một chuyên luận về sám hối và chống tà thuyết Arian (*), các bài giảng, thi ca và tu luật.

Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2014

Thứ Hai Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Bổn Mạng Hội Thánh Việt Nam Lễ trọng.



Lời Chúa: Ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
“ Ha-lê-lui-a. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính. Ha-lê-lui-a.”
Ca khúc lên Đền Thánh Chúa
Khi Chúa dẫn tù nhân Xi-on trở về
ta tưởng mình như giữa giấc mơ
Vang vang ngoài miệng câu cười nói
rộn rã trên môi khúc nhạc mừng
Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán
"Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay !”
Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại !
Ta thấy mình chan chứa một niềm vui
Lạy Chúa xin dẫn tù nhân chúng con về
như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam
Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng
Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo
lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng .
                                                


 Ngày 24/11 – Các thánh tử đạo Việt Nam
Thánh Anrê Phú Yên là một trong hàng trăm ngàn vị tử đạo Việt Nam trong những năm từ 1820 tới 1862. Có 117 vị được phong chân phước vào 4 dịp trong những năm từ 1900 tới 1951. Và chân phước GH Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị này lên bậc hiển thánh.
Công giáo đã đến Việt Nam qua người Bồ Đào Nha, lúc đó còn tách là Đàng trong và Đàng ngoài). Các linh mục Dòng Tên đã lập Hội truyền giáo đầu tiên tại Đà Nẵng năm 1615. các vị tử đạo đã bị nhà vua bắt, bội giáo bằng cách đạp lên Thánh giá, nhưng tất cả đều son sắt niềm tin, không tham sống mà chối bỏ Chúa.
Có 3 đợt bách hại dữ dội hồi thế kỷ XIX. Trong 60 năm kể từ năm 1820, có khoảng từ 100.000 tới 300.000 người Công giáo bị giết hoặc chịu đau khổ. Các nhà truyền giáo ngoại quốc tử đạo trong đợt đầu gồm các linh mục thuộc Hội Truyền giáo Paris (Paris Mission Society), các linh mục Dòng Đa Minh Tây Ban Nha và các thành viên Dòng Ba Đa Minh. Năm 1847, cuộc bách hại lại nổ ra khi nhà vua nghi ngờ các nhà truyền giáo ngoại quốc và các tín hữu Việt Nam muốn nổi loạn.
Các vị tử đạo cuối cùng là 17 giáo dân, có một vị mới 9 tuổi, bị hành quyết năm 1862. Cũng chính năm này có hiệp ước tự do tôn giáo giữa Pháp quốc và Việt Nam, nhưng vẫn chưa hết bách hại. Năm 1954, có hơn 1.500.000 người Công giáo miền Bắc – chiếm 7% dân số hồi đó. Phật giáo chiếm khoảng 60%. Cuộc bách hại dai dẳng khiến 670.000 người Công giáo phải rời bỏ quê hương xứ sở để vào miền Nam. Năm 1964, miền Bắc vẫn còn 833.000 người Công giáo nhưng nhiều người phải bị tù đày. Tại miền Nam, người Công giáo được tự do tôn giáo trong những thập niên đầu của những thế kỷ qua, họ sống như những người tỵ nạn. Trong thời chiến tranh Việt Nam, người Công giáo lại bị bách hại ở miền Bắc và lại phải chuyển vào miền Nam rất đông.

Ý Nghĩa Bức Họa Các Thánh Tử Việt Nam



Đây là bức tranh được trưng bày trong đại lễ suy tôn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, ngày 19-06-1988 tại quảng trường thánh Phêrô tại Roma, do họa sĩ Gordon Faggetter trình bày. Bức tranh lấy cảm hứng từ câu 9 trong đoạn 7 của sách Khải Huyền : "Tôi đã thấy một đoàn người đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi nước mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng rước ngài Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế"
Bức tranh lấy cảm hứng từ câu 9 trong đoạn 7 của sách Khải Huyền : "Tôi đã thấy một đoàn người đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi nước mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng rước ngài Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế" . Theo Thánh Gioan, đám người đông đảo tượng trưng cho muôn vàn vị Tử Ðạo trong lịch sử Giáo Hội hoàn vũ đã bỏ mình vì trung kiên với Thiên Chúa, và hiện nay đang vinh hiển trong cõi hoan lạc trường sinh. Còn trong Giáo Hội VN, 117 Thánh Tử Ðạo tượng trưng cho trên dưới 130,000 bạn đồng hành đã anh dũng hy sinh mạng sống trong suốt 261 năm bách hại: từ sắc chỉ cấm đạo đầu tiên năm 1625, cho tới hết thời Văn Thân (1886).
Đứng hàng thứ nhất chính giữa hình là sáu vị đứng đầu danh sách 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam, được XƯỚNG DANH trong nghi thức SUY TÔN đó là : Linh mục Anrê Dũng Lạc, Thanh niên chủng sinh Tôma Thiện và Cụ Trùm gia trưởng Emmmanuel Lê Văn Phụng, đại diện chính thức cho 96 vị thánh Việt Nam, thuộc ba miền Bắc Trung Nam.
Hai giám mục Dòng Đaminh Hermosilla Liêm và Valentino Vinh, đại diện cho 11 thừa sai Tây Ban Nha Dòng Đaminh (6 giám mục – 5 linh mục) và 27 vị khác quốc tịch Việt Nam thuộc gia đình Đaminh, (11 linh mục, 6 thầy giảng, 3 linh mục và 7 giáo dân dòng Ba Đaminh)
Linh mục Théophane Vénard Ven, (áo chùng đen, cổ có ba gạch trắng) đại diện cho 10 thừa sai Pháp thuộc Hội Thừa Sai Paris. (gồm 2 giám mục, 8 linh mục). Cũng ở hàng đầu từ trái qua phải là : Linh mục Phaolô Lê Bảo Tịnh, Hai vị Dòng Đaminh tử đạo tiên khởi trong danh sách 117 là cha Vinhsơn Phạm Hiếu Liêm là cha Castaneda Gia (quỳ phía trước).
Quỳ phía bên phải : Quan Thái bộc Micae Hồ Đình Hy.
Sau lưng là ba vị gia đình cụ Án Đaminh Phạm Trọng Khảm, với con trai Luca Phạm Trọng Thìn và người em Giuse Phạm Trọng Tả.
Riêng thánh nữ Annê Lê Thị Thành cũng đứng ngay gần giữa bức tranh, đại diện duy nhất của nữ giới Giáo hội Việt Nam. Thánh nữ đã 60 tuổi, nhưng họa sĩ đã xin phép được vẽ trẻ hơn một chút tính theo tuổi của Nước trời.
Họa sĩ Gordon Faggetter còn chủ tâm vẽ rải rác trong bức họa đủ tám mũ Giám mục, thêm 24 Linh mục triều mặc lễ phục trắng đeo dây stola đỏ, và 7 Thánh Binh trong y phục quân nhân.Dưới chân bức họa là một số dụng cụ gia hình trong các cuộc tử đạo : gông cùm, xiềng xích, dây thừng thắt cổ, roi đòn, kìm kẹp và thanh đao xử trảm.
Cụm hoa sen chỉ ý nghĩa trong sáng của cuộc đời 117 vị thánh, theo biểu tượng văn hóa Việt Nam, Sen tượng trưng người quân tử : "Trong đầm gì đẹp bằng sen… gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Phía sau bức tranh là giang sơn gấm vóc của đất Việt, tượng trưng bằng một số KIẾN TRÚC :
- Chùa Một Cột (Bắc), chùa Thiên Mụ (Trung) và chợ Bến Thành (Nam)
- Và 5 ngôi thánh đường :
Chính tòa Sài Gòn: nơi còn bảo toàn hài cốt một số các vị Tử Ðạo miền Nam;
La Vang (Huế): chỗ Ðức Mẹ đã hiện ra an ủi đoàn con bị truy nã vì tin theo Chúa Giêsu Kitô (1789);
Phát Diệm: ngôi thánh đường duy nhất theo kiến trúc Á Ðông, và là nơi vị linh mục chánh xứ Trần Lục xưa kia đã một thời bị bách hại (1858),và bị đầy trên Lạng Sơn (1859-1860);
Bùi Chu: giáo phận đã đóng góp con số tử đạo nhiều nhất (26 vị trong số 117), vì thế mà vẫn là nơi sản xuất dân số Công Giáo đông nhất trong 26 giáo phận Việt Nam;
Chính tòa Hà Nội: một trong hai giáo phận đầu tiên tại Bắc Việt (1679), là xuất xứ của nhiều vị Tử Ðạo (16 vị, trong đó có Cha Thánh Anrê Dũng Lạc).

- Mở rộng đến tận chân trời là biển khơi và cánh đồng lúa, chính là môi trường truyền giáo của các con cháu các vị Anh Hùng. Họ được kêu mời thêm tin tưởng vững bước tiến vào tương lai. Vì từ trên cao, Đức Kitô với một tay mở rộng đón đợi và một tay đang chúc lành, như muốn lập lại lời Ngài xưa : "Trong thế gian anh em sẽ còn phải gian nan khốn khó, nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian"


Ngày 24-11-1808-1838 Thánh Phêrô Borie Cao Giám Mục Thừa Sai Paris Tử đạo
Ðức Cha Phêrô Cao (Pierre Rose Dumoulin Borie), Sinh năm 1808 tại Beynat, Tulle, Pháp, Giám mục Hội Thừa Sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 24/11/1838 tại Ðồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 24/11.
Giám mục Botie Cao chưa làm Giám mục đến một ngày, nhưng ngài xứng đáng với tước hiệu đó. Căn cứ vào khả năng và nhiệt tình. Đức cha Havard Du đã chọn ngài làm Giám mục phó có quyền kế vị. Cha Cao nhận được giấy quyết định của Tòa Thánh đang khi ở trong tù, và vì thế chưa kịp thụ phong. Tên thường gọi của ngài là Dumoulin do bạn bè đặt (tiếng Pháp Dumoulin là máy xay lúa). Thế nhưng danh xưng Dumoulin đã đi vào lịch sử với hai tước hiệu vinh quang : Giám mục và tử đạo. Quả thật đối với Chúa, giá trị con người là nhân đức và thiện chí, dù thuộc giai cấp nào, mọi người đều được kêu gọi nên thánh.
Phêrô Borie sinh ngày 20.02.1808, tại Beynat miền Correze, thân phụ tên là Guillaume Borie, thân mẫu là Rose Borie. Thế nhưng vì song thân làm nghề xay lúa, bạn bè hàng xóm quen gọi cậu là Dumoulin. Sinh trưởng trong một gia đình tầm thường như vậy, nên thuở bé Dumoulin có tính cẩu thả. Cha mẹ ép cậu vào chủng viện, cậu nghe theo nhưng chẳng hứng thú gì, và vi phạm kỷ luật liên tục. Cha giám đốc phải sử dụng nhiều hình thức xử phạt cũng chẳng làm cậu khá hơn được. Tuy vậy, Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời con người Ngài tuyển chọn.
Bất ngờ Borie bị một cơn sốt trầm trọng. Trên giường bệnh, cậu có cơ hội suy tư về đời mình. Một hôm đang khi đọc cuốn niên giám của trường Thừa Sai ghi lại cuộc đời các vị truyền giáo, cậu thấy một tia sáng chói lòa trong tâm hồn. Thế là như thánh Phaolô trên đường Damas xưa, cuộc đời cậu Borie từ nay chỉ lấy Đức Giêsu làm lẽ sống, từ đó cậu siêng năng đến gặp Chúa trong Thánh Thể. Và trong những giờ gặp gỡ ấy, cậu nghe như Ngài kêu gọi cậu lãnh nhận một sứ mạng cao quý hơn: Sứ mạng truyền giáo.
Trong những giây phút nguyện cầu linh thiêng ấy, Borie như thấy Chúa nói với mình về vùng Viễn Đông xa xăm, về những người ở đây còn chưa biết Chúa, về những thừa sai đã đến đó rao giảng Tin Mừng và hỏi cậu có yêu Ngài đủ để ra đi như thế không. Câu trả lời của Borie đã được chính cậu ghi lại trong một buổi tận hiến cho Đức Maria :
"Lạy Mẹ của con ! Xin hãy tin nơi con, khi con trưởng thành, con sẽ hiến toàn thân con cho việc cảm hóa những người chưa tin. Xin Mẹ giúp con đi theo con đường và tinh thần của ơn kêu gọi đó. Xin cho con được đau khổ vì danh Đức Kitô, được đón nhận ngành lá tử đạo và đến bến vinh quang".
Đức Mẹ như đã nhận lời cậu. Càng ngày Borie càng cương quyết hơn với giấc mơ truyền giáo. Để giấc mơ có thể thành hiện thực, cậu xin chuyển qua chủng viện Hội Thừa Sai Paris. Tại đây cậu kiên trì học tập, lãnh chức phó tế năm 1829, rồi năm sau thụ phong linh mục (21.11.1830). Ngày 01.12.1830, vị tân linh mục bắt đầu xuống tàu khởi hành đến Viền Đông. Thế nhưng vì bão tố phải dừng lại ở Macao khá lâu, ngày 15.5.1832, cha Borie mới tới được Việt Nam.
Nửa năm sau, ngày 06.1.1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo trên toàn quốc. Các thừa sai bị lùng bắt gắt gao, lên phải di chuyển liên tục, nay nhà này, mai nhà khác. Ngày 24.03, cha Borie kể trong thư là "Tôi đã phải đổi chỗ ở đến 17 lần". Nhưng năm sau, mỗi năm cha đổi chỗ khoảng hai đến sáu lần nữa. Nét đặc biệt của cha Dumoulin là hòa mình rất nhanh với phong tục địa phương. Ngày đầu tiên, cha đã có thể ăn nước mắn cách ngon lành (điều này rất khó với người Châu Âu), cha học tiếng Việt cách dễ dàng và phát âm khá chính xác. Nhờ bản tính bình dân vui tươi và hoạt bát, cha nhanh chóng lấy được cảm tình của các tín hữu và với cả lương dân nữa.
Năm 1836, khi đọc những điều vu cáo trong chiếu chỉ của vua Minh Mạng, cha Borie Cao định viết một lá thư điều trần, nhưng các thừa sai cản lại, vì nói là vô ích thôi. Năm 1838, sau khi giết thừa sai Jaccard Phan, vua Minh Mạng vẫn chưa thỏa mãn. Ông cho lệnh tiếp tục truy tầm cha Candalh Kim, Giám đốc chủng viện Di Loan. Ngày 02.7, khi quan quân bắt linh mục Khoa thì bắt được hai thày giảng Đức và Khang. Thày Khang lúc bị tra tấn quá đau, đã khai rằng có một thừa sai Châu Âu ở Bố Chính, thủ phủ của Nghệ An. Người bị tiết lộ tung tích đó là cha Cao, không phải là cha Candalh. Dựa vào lời thày Khang, quân lính bủa vây khắp vùng Bố Chính, bắt bớ nhiều tín hữu rồi đe dọa, tra tấn và dụ dỗ, để tìm cho ra chỗ ẩn của vị linh mục.
Giai đoạn này cha Cao không thể ở nhà nào được đến vài giờ, luôn luôn ngài phải di động. Các tín hữu có người muốn cho trú, nhưng lại sợ người khác khi bị đánh đập, sẽ tố cáo họ. Cuối cùng ngày 13.7, cha Cao đành xuống một thuyền nhỏ chèo ra khơi, chờ mong cuộc lùng bắt lắng dịu. Nhưng trời bỗng nổi cơn giông bão, dồn ghe của cha tấp vào bờ. Cha nghĩ rằng đây là dấu Chúa muốn mình ở lại, cha bỏ ghe trở lên đất liền, và ẩn núp dười một hố sâu có cây cối tre phía trên.
"Các anh đi tìm ai ?"
Một thiếu nữ 16 tuổi bị bắt và bị tra khảo. Dù biết chỗ cha ẩn trốn, cô cắn răng chịu đựng, không tiết lộ điều mình biết. Nhưng bố cô không dằn lòng được khi thấy con mình bị đánh đập, đã chỉ chỗ cho lính đến chỗ nơi ẩn trốn của ngài. Dầu đang giữa đêm, quân lính cũng kéo nhau rất đông đi bắt vị thừa sai. Cha Cao nghe rất rõ tiếng chân của đám lính, biết rằng không thể thoát được nữa, cha liền lao lên và hỏi : "Các anh đi tìm ai ?". Tất cả đám lính đều ngỡ ngàng trông thấy một bóng đen to lớn từ dưới đất chui lên, họ cứ tưởng là ma, nên hoảng sợ không dám hé môi. Lát sau, khi lấy lại bình tĩnh, biết là linh mục, họ yêu cầu cha ngồi xuống, và cha Cao nhẹ nhàng ngồi xuống. Ngài muốn bước vào cuộc hiến tế bằng một thái độ vâng phục hoàn toàn.
Thày Tự thấy cha bị bắt cũng vội chạy đến xưng là đệ tử của cha. Cha định không nhận, nhưng thày khẩn khoản : "Xin cha cho con theo cha đến cùng". Cha Cao nghe thày xin thế thì xúc động, ngài tháo chiếc khăn quàng, xé một mảnh trao cho người môn sinh và nói: "Cầm lấy, con hãy giữ nó làm bằng chứng cho lời con đã hứa". Thày Tự đã giữ mãi miếng vải đó trong những ngày tháng cùng bị giam với cha. Sau này, thày đã viết lại cuộc tử đạo đau thương của Tôn Sư mình. Và cuối cùng, với mảnh vải như kỷ vật giao ước, thày Tự đã theo gót người cha kính yêu: hy sinh mạng sống vì Đức Kitô ngày 01.7.1840.
Tại Đồng Hới, cha Cao phải ra tòa chung với cha Điểm và cha Khoa. Quan hỏi: "Đạo trưởng Cao, vua đã cấm Gia Tô. Nếu ông bước qua Thập Giá, ta sẽ thả ông về ngay". Cha trả lời: "Thà tôi chết ngàn lần còn hơn". Quan hỏn tiếp: "Tại sao ông không về nước mà giảng, ở đây làm gì để phải trốn tránh hết chỗ này đến chỗ khác?". Cha đáp: "vua cấm đạo sau khi tôi đã đến nước này, từ đó vua cấm tàu Au Châu cập bến Việt Nam thì làm sao tôi có thể về được". Quan lại hỏi: "Ông đã ở nhà những ai ?". Cha trả lời: "Tôi đã bị quan bắt, tôi xin chịu cực hình một mình tôi thôi". Quan liền ra lệnh đánh cha 30 roi, lính nọc cha ra, đánh cho đủ số. Tuy rất đau đớn, cha Cao vẫn không kêu than một lời, quan hỏi ngài có đau không, cha đáp: "Tôi cũng bằng xương bằng thịt như ai khác, lẽ nào không đau. Nhưng mặc kệ, trước và sau trận đánh tôi vẫn thấy thoải mái".
Quan đành giải cha về ngục, hôm khác, quan bắt cha chứng kiến cảnh tra tấn thầy Tự, nhưng đến khi thẩm tra lại, ông gọi cha Cao ra đối chất: - Tại sao ông cứng đầu thế?
- Thưa, câu hỏi của ngài tôi không trả lời khác hơn được.
- Đã vậy ngày mai ông sẽ chịu 100 roi.
- Thưa dù đánh 300 roi tôi cũng chịu, chỉ xin một điều là đừng hỏi tôi về dân chúng.
- Thế nếu ông phải ra mắt vua, đứng bên lò lửa cháy bừng, với những chiếc kìm nung đỏ sắt lóc thịt ông ra, liệu ông còn im lặng được không?
- Thưa, chừng đó sẽ biết, tôi không dám quá tự phụ về mình.
Biết không thể làm cha đổi ý, quan liền nghị án gởi về kinh đô. Cha Cao bị giam chung với hai cha Điểm và Khoa, ba vị linh mục hằng ngày cùng nhau đọc kinh Mân Côi và hát vang bài "Ave Maria Stella": Kính chào Mẹ Maria là Sao Mai rực rỡ, xin chuyển cầu cho chúng con". Mấy ngày đầu, vì chưa tìm ra tràng hạt, ba vị nhổ lông quạt để đếm kinh. Ba cha phó thác đời mình cho nữ vương các linh mục : "Như xưa Mẹ đã dâng Con yêu quý trong đền thờ, nay cũng xin hiến dâng chúng con trong cuộc tử đạo đầy hồng phúc".
Trong những ngày tù tội, cha Cao nhận được văn thư Tòa Thánh gởi tới, đặt ngài làm Giám mục Giám mục hiệu tòa Acanthe và làm Đại diện Tông tòa coi sóc giáo phận Tây Đàng Ngoài, thay thế Đức cha Harvard Du. Thế nhưng, vì đang bị cầm tù, ngài không thể tiến hành nghi lễ thụ phong. Chức vụ đó sau này được trao cho cha Retord Liêu.
Ngày 24.11.1838, quan vào ngục tuyên đọc bản án xử trảm. Đức cha Cao yên lặng lắng nghe sắc chỉ của nhà vua, rồi nói với quan rằng : "Thưa quan, từ bé đến nay tôi chưa lạy ai, vì bên Âu Châu chúng tôi, đó là hành vi kính trọng chỉ dành cho Đấng Tối Cao. Nhưng điều tôi vừa nghe làm tôi quá vui mừng, xin được bày tỏ lòng tri ân của tôi theo kiểu Đông Phương".
Nói xong, ngài quỳ xuống định lạy, nhưng viên quan quá xúc động, không thốt lên lời, vội cản ngăn ngài lại.
Lúc dẫn đi xử, Đức cha Cao đi dầu, cổ mang gông tay cầm tràng hạt, vừa đi vừa đọc kinh. Một viên quan khác, ít thiện cảm với người Công Giáo đi lại gần, hỏi Đức cha có sợ chết không. Ngài trả lời : "Tôi đâu phải là quân phiến loạn hay quân trộm cướp mà sợ chết. Tôi chỉ sợ một mình Thiên Chúa. hôm nay tôi chết, mai sẽ đến phiên ông".
Nghe thế, viên quan thét lên: "Láo quá! Tát cho nó vài cái". Nhưng không người lính nào tuân lệnh ông. Đức cha nói với quan : "Nếu lời đó làm phiền ông thì xin ông tha lỗi".
Tại pháp trường Đồng Hới, hai cha Khoa và Điểm bị xử giảo trước. Đến lượt xử chém Đức cha cao, người lý hình rất kính phục ngài, phải uống rượu để lấy bình tĩnh, không ngờ vì quá ché, anh đã chém trật vào tai, hàm và vai Đức cha. mãi đến nhát thứ bẩy, đầu vị thừa sai mới lìa khỏi cổ. Thân xác ngài được chôn cất ngay tại chỗ, năm sau mới được các tín hữu cải táng về họ Hướng Phương.
Năm 1843, hài cốt Đức cha Cao được đưa về chủng viện Hội Thừa Sai Paris, đặt cạnh hài cốt các thừa sai Gagelin Kính và Jarcard Phan.
Đức Lêo XIII suy tôn Giám mục Borie Cao lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Ngày 24-11-1790-1838 Thánh Phêrô Vũ Ðăng Khoa Linh mục Tử đạo.
Phêrô Võ Ðăng Khoa, Sinh năm 1790 tại Thuận Nghĩa, Nghệ An, Linh mục, bị xử giảo ngày 24 tháng 11 năm 1838 tại Ðồng Hới dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII suy tôn cha Phêrô Vũ đăng Khoa lên bậc Chân Phước ngày 27-5-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.. Lễ kính vào ngày 24/11.
* An vui trong hiểm nguy.
Phêrô Vũ Đăng Khoa sinh năm 1790 tại làng Thuận Nghĩa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Cậu là con thứ ba trong bẩy người con ông Phaolô Vũ Đình Tân và bà Maria Nguyễn Thị Hoan. Lên tám tuổi, cậu Khoa được học chữ Hán, rồi tiếp tục học thêm với hai linh mục Hòa (Hoan) và Phương. Nhận thấy cậu có trí thông minh, tính tình hiền lành và có ý dâng mình cho Chúa, hai cha đã gửi cậu vào học tại chủng viện Vĩnh Trị (Nam Định), dướisự giáo huấn của cha chính Jeantet Khiêm. Năm 1820, thầy Khoa được lãnh chức linh mục.
Với nhiệt tình của người thanh niên 30 tuổi, cha Vũ Đăng Khoa được bổ nhiệm làm phụ tá cho cha Nguyễn Thế Điểm, coi sóc hai xứ Luca Loan Đăng và Vĩnh Phước, thuộc hạt Bố Chính. Trong thời gian chín năm làm phụ tá, cha Khoa đã hăng say trong nhiệm vụ, học hỏi thêm trong chức vụ chủ chăn . nhờ có đời sống đạo đức và niềm nở với mọi người, cha đã thu được nhiều thành quả tốt đẹp. Năm 1829, Đức cha Havard Du bổ nhiệm cha về coi sóc giáo xứ Cồn Dừa. Về nhận xứ mới, cha Khoa đã vận dụng hòan cảnh thuận lợi, khiến cho công tác mục vụ ngày càng tiến triển không ngừng. Trong những công việc bận rộn của giáo xứ, cha vẫn giữ được nét trang nghiêm, nói năng điềm đạm, nhất là luôn quảng đại, nhân từ, nên được mọi người kính nể và yêu mến.
Ngày 06.1.1833 vua Minh Mạng ra chiếu chỉ tòan quốc : Lùng bắt các giáo sĩ nước ngoài cũng như bản xứ, kể cả các tín hữu, triệt hạ các thánh đường và các cơ sở tôn giáo. Nhất là sau chiếu chỉ thứ ba ban hành ngày 25.1.1836, cha Khoa phải thay đổi chỗ ở luôn để có thể tiếp tục công tác mục vụ trong hai năm liền (1836 – 1838). Mặc dù hoàn cảnh bất lợi và nhiều hiểm nguy, cha vẫn an vui vì thấy mình đang sống như Chúa Giêsu xưa "cáo có hang, chim có tổ, nhưng Con Người không chỗ gối dầu".
* Trọn đường khổ giá.
Người môn đệ của Chúa Kitô, cha Phêrô Vũ Đăng Khoa đâu ngờ mình sắp được chia sẻ con đường khổ nạn theo chân Thày Chí Thánh. Đó là đêm 02.7.1838, cha đang trú ẩn ở làng Lê Sơn, hạt Bố Chính thì một văn nhân tên là Tú Khiết đột nhập vào nhà bắt trói cha cùng với thầy giảng Đức và Khang. Sau đó Tú Khiết tra gông vào cổ, giải tất cả các ngài lên Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình ngày 10.07.1838.
Tại công đường Đồng Hới, quan tra vấn cha Khoa nhiều lần, khuyên dụ cha bỏ đạo và khai báo chỗ ở của linh mục thừa sai Candalh Kim. Quan ra lệnh đánh cha 76 roi để uy hiếp tinh thần, nhưng quan vẫn chẳng khai thác được điều mong đợi. Không thành công trong việc tra khảo cha Khoa, quay sang hai thầy gỉang Đức và Khang. Thầy Khang khai báo sao đó, khiến quan tìm ra nơi trú ẩn của thừa sai Cao và cha Điểm. Ít lâu sau, hai vị này cùng bị bắt giam chung với cha Khoa (31.7).
Quan tiếp tục thi hành nhiều mưu kế và khổ hình để lung lạc đức tin cha Khoa cùng các vị khác. Là linh mục, là chủ chăn, làm sao lại có thể chối Chúa được, cha Khoa cương quyết đi trọn con đường khổ nạn. Các quan thua cuộc và quyết định lên án xử giảo cha. Các quan đệ án vào kinh đô xin nhà vua phê chuẩn cùng với án trảm quyết thừa sai Cao và án xử giảo cha Điểm. Từ đó ba chiến sĩ đức tin mong đợi ngày vinh quang sắp tới, phó thác đời mình qua tay Đức Mẹ.
Ba vị linh mục hàng ngày cùng nhau đọc kinh Mân Côi và hát vang bài "Ave Maria Stella" kính chào Mẹ maria, là Sao Mai rực rỡ, xin chuyển cầu cho chúng con". Mấy ngày đầu vi chưa tìm ra tràng hạt, ba vị nhổ lông quạt để đếm kinh. Ba cha phó thác đời mình cho Nữ Vương các linh mục như xưa Mẹ đã dâng Con Yêu Quý trong đền thờ, nay cũng xin Mẹ hiến dâng chúng con trong cuộc tử đạo đầy hồng phúc.
Trong những ngày tù tội, cha Cao nhận được văn thư Tòa Thánh gửi tới, đặt ngài làm Giám mục hiệu tòa Acanthe và làm đại diện Tông tòa coi sóc giáo phận Tây Đàng Ngoài, thay thế Đức cha Havard Du.
Vua Minh Mạng châu phê bản án và ban lệnh thi hành. Ngày 24.11.1838, quân lính áp giải cha Khoa, Đức cha Cao và cha Điểm đến pháp trường ngoài thành Đồng Hới. Tấm thẻ ghi án của cha Khoa viết: "Đạo trưởng Vũ đăng Khoa, bất khẳng quá khóa, phải xử giảo".
Đến nơi chỉ định, cha quỳ xuống cầu nguyện. Lý hình tròng dây vào cổ cha. nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi vị anh hùng đức tin nghẹt thở và lịm dần. Với 48 tuổi đời và 18 năm linh mục, cha Phêrô Khoa đã thi hành trọn vẹn chức vụ linh mục của mình : Hòa với của lễ vô giá là đức Kitô, cha hiến tế chính mạng sống mình để dâng lên Thiên Chúa Cha, Đấng hằng yêu thương nhân loại.
Đức Lêo XIII suy tôn cha Phêrô Vũ đăng Khoa lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng  Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.Ngày 24-11 Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa Linh mục

                                                  

Ngày 24-11-1761-1838 Thánh Vinhsơn Nguyễn Thế Điểm Linh mục tử đạo.
Vincentê Nguyễn Thế Ðiểm, Sinh năm 1761 tại Ân Ðô, Quảng Trị, Linh mục, bị xử giảo ngày 24/11/1838 tại Ðồng Hới dưới đời vua Minh Mạng.Linh mục Vinh Sơn Nguyễn Thế Điểm được Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 24/11.
* Cuộc đời thánh thiện.
Vinh sơn Nguyễn Thế Điểm sinh năm 1761 tại An Do, gần Cửu Tùng, tỉnh Quảng Trị. Lớn lên cậu theo học tại chủng viện Kẻ Vĩnh, Nam Định thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài, và sau được thụ phong linh mục.
Lãnh nhiệm vụ chánh xứ Cồn Nam và coi sóc giáo hữu các vùng lân cận thuộc hạt Bố Chính, cha VinhSơn Điểm nêu gương vị mục tử đạo đức, nhân từ, hay thương giúp người nghèo khổ, chuyên cần giảng truyền lời Chúa, nhiệt tình ban phát các bí tích cho giáo dân và loan báo Tin Mừng cho muôn dân. ngài rất quan tâm, chuyên chú huấn luyện và đào tạo các thày giảng. Mặc dầu đã cao niên, với tinh thần hy sinh cao độ, ngài vẫn ăn chay mỗi tuần hai ngày, thứ tư và thứ bảy, hẳn là có ý tôn kính Đức Maria và thánh Giuse.
* Đi về đâu … ?
Vào năm 1838, cuộc bách hại Công Giáo của vua Minh mạng trở nên ác liệt hơn. Ngày 02.07 năm ấy, quan quân tần nà vùng Bố Chính truy lùng thừa sai Candalh Kim, bắt được linh mục Vũ Đăng Khoa, trước là phó xứ của linh mục Vinh Sơn Điểm, cùng với hai thầy giảng Đức và Khang tại làng Lệ Sơn, rồi nộp các vị cho quan Đồng Hới. Bị tra khảo đau đớn, thầy Khang đã tiết lộ nơi trú ần của cha Borie Cao.
Quân lính liền được lệnh truy nã bủa vây khắp vùng Bố Chính. Quan chưa tìm thấy vị thừa sai, nhưng khi đến gần làng Đơn Sa, họ bắt được linh mục Vinh Sơn Điểm và một chú học trò.
Nguyên do khi nghe tin cha Khoa bắt, cha Điểm sai chú Sang đến làng An Bì hỏi giáo hữu có sẵn lòng cho ngài đến trú ẩn không ? Giáo hữu thấy làng mình không đủ bảo đảm an ninh, nên không dám nhận lời. Vị linh mục lão thành còn đang lang thang ngoài ruộng đồng, nhận được câu trả lời như thế, không biết đi về đâu để tìm nơi ẩn trú. Ngài tiếp tục đi một quãng nữa thì bị bắt giải về Đồng Hới. Trong tù, linh mục Vinh sơn Điểm gặp lại cha Khoa, và mấy tuần sau gặp cha Cao, thày giảng Nguyễn Khắc Tự, rồi ông trùm Nguyễn Hữu Quỳnh. Cả năm chứng nhân Chúa Kitô sau này đều được phúc tử đạo.
* Thà chết trăm lần.
Trong lần tra vấn đầu tiên, vì mệt mỏi và sợ hãi, cha Vinh Sơn Điểm lỡ lời khai ra nhà mấy giáo hữu, nhưng ngài rất mạnh dạn tuyên xưng đức tin, nhất quyết không bước qua ảnh Chuộc Tội. Đến khi gặp cha Cao vào tù cho biết những lời khai ấy đã làm tổn hại đến một số giáo hữu, cha Điểm tìm cách sửa lỗi, thưa lại với quan : "Tôi già nua lẩm cẩm, trong lúc sợ hãi quá, đã khai dông dài, có khi gây oan ức cho một số người. xin quan bỏ qua lời khai của tôi, đừng bận tâm tới những người ấy kẻo lầm".
Những cuộc tra khảo sau này chung với cha Cao và cha Khoa, ngài thường thinh lặng. Tuy nhiên, khi cần thiết, ngài cũng lên tiếng minh chứng niềm tin của mình. Một lần quan hỏi ngài : "Này đạo trưởng Điểm, Hoàng Thượng đã ra lệnh cấm đạo rất ngặt, dầu vậy, nếu ông chịu quá khóa, ta sẽ thánh cho ông ngay tức khắc". Cha đáp: "Tôi thà chết trăm lần, chẳng thà quá khóa". Vì đã 77 tuổi, cha Điểm không bị đánh đập, luật pháp đương thời cấm tra tấn tù nhân tuổi tác.
Trong thời gian bị giam giữ, cha Vinh Sơn đã luôn nêu gương đạo đức trung kiên cho các tín hữu cùng bị bắt và đối xử bác ái quảng đại với các bạn tù ngoại giáo. Ngài chia sẻ lương thực và khuyên họ sống ngay chính lương thiện. Tại đây, cha Điểm được vinh dự chia sẻ niềm vui của cha Cao qua văn thư Tòa Thánh đặt vị này làm Giám mục giáo phận Tây Đàng Ngoài.
Được Đức cha Cao khuyên bảo và ban các bí tích cần thiết, cha Vinh Sơn Điểm như được thêm ơn Chúa Thánh Thần, càng ngày cha càng tỏ ra can đảm vững tin hơn, đêm ngày cha cầu nguyện và mong ước được hiến mạng sống để làm chứng cho đạo thánh Chúa Kitô.
Ngày 24.11.1838, bản án được vua Minh Mạng chuẩn phê về Đồng Hới. Ước nguyện của vị mục tử lão thành được thỏa mãn, ngài bị kết án xử giảo. Ba vị tông đồ mục tử : Đức cha Cao, cha Khoa và cha Vinh Sơn Điểm được dẫn ra pháp trường. Người lính đi đầu cầm tấm thẻ ghi chữ Hán cho mọi người biết đây là đạo trưởng tả đạo cố chấp bất tuân lệnh vua nên phải chết.
Đến nơi xử, cha Vinh Sơn Điểm quỳ xuống cầu nguyện một lát. Quân lính thi hành nhiệm vụ, trói chân tay cha vào cột, quấn dây thừng vào cổ, và theo hiệu lệnh, họ kéo mạnh hai đầu dây cho đến khi vị chứng nhân Chúa Kitô tắt thở. Cha Phêrô Nguyễn Đăng Khoa cũng bị xử như vậy. Riêng Đức cha Cao bị trảm quyết cùng ngày ngay tại đây. Người ta chôn cất ba vị tử đạo ngay tại pháp trường Đồng Hới. Về sau linh mục Tự cải táng hài cốt về nhà thờ họ Hướng Phương.
Linh mục lão thành Vinh Sơn Nguyễn Thế Điểm được Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.