Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

Thứ Sáu Tuần XVII Thường Niên



Lời Chúa: Ông không phải là con bác thợ sao ? Bởi đâu ông làm được những phép lạ như thế ?
“ Ha-lê-lui-a. Lời Chúa vẫn tồn tại đến muôn thuở muôn đời. Đó chính là Lời đã được loan báo cho anh em như một Tin Mừng. Ha-lê-lui-a.”
Lạy Chúa phần con xin dâng Ngài lời nguyện
Lạy Chúa Trời đây giờ phút thi ân
Xin đáp lại vì ơn cả nghĩa dày

Vì Chúa vẫn trung thành ban ơn cứu độ.


 Ngày 01/08/1755-1838 Thánh Bernadô Vũ Văn Duệ Linh Mục Tử Đạo.
 Bênađô Võ Văn Duệ, là linh mục; sinh 1755 tại Quần Anh, Nam Ðịnh; chết 1 tháng 8, 1838, tại Ba Tòa. Cha Duệ vốn là một tân tòng, học chủng viện, và được thụ phong linh mục. Sau nhiều năm hoạt động truyền giáo, ngài về hưu, sống thầm lặng cho đến khi có tiếng gọi phải tự thú với quân sĩ rằng mình là linh mục. Bị xử trảm (chém đầu) năm 83 tuổi. Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ kính: 1 tháng 8.
* Người tù già hy sinh tự nguyện.
Mùa thu năm 1838 tại nhà giam Nam Định, một tù nhân đã 83 tuổi hình như vẫn coi sự khác nghiệt của trại giam là nhẹ. Những đêm mưa to gió lạnh, chỗ của cụ nằm bị nước mưa giột, nhưng cụ vẫn không chịu dời chỗ khác theo lệnh của lính canh. Từ ngày vào tù, cụ trải chiếu dưới đất, không nhận tiếp tế chăn mền, rồi khoảng một tuần sau, cụ bỏ luôn chiếu để nằm trên đất.
Cụ già đó là linh mục Bênadô Vũ văn Duệ. Đối với ngài, phải có những hy sinh tự nguyện để bổ túc cho những hy sinh bất đắc dĩ. Những hy sinh đó là những phương pháp luyện ý chí để đủ sức đối đầu với những thử thách cuối cùng ngoài pháp trường. Đối với ngài, suy niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu phải dưa đến việc tham dự, chia sẻ những nỗi cơ cực các Chúa trong thực hành. Cha nói: "Nơi tôi nằm bây giờ còn êm ái hơn thánh giá Chúa Giêsu xưa kia nhiều".


* Vị linh mục khắc khổ.
Bernadô Vũ Văn Duệ sinh năm 1755 tại làng Quần Anh Hạ (Quần Phương), tỉnh Nam Định, trong một gia đình Công Giáo. Ngay từ nhỏ, cậu Duệ đã dâng mình cho Chúa, và chuẫn bị học hành hướng tới chức linh mục. Nhưng việc học của cậu bị gián đọan nhiều lần vì tình hình bách hại các chúa Trịnh và thời vua Cảnh Thịnh. Mãi đến năm 1795, thày Duệ mới được toại nguyện, thụ phong linh mục đã 40 tuổi. Cha Duệ phục vụ Giáo Hội và các linh hồn trong nhiệm vụ mục tử suốt 37 năm. Đến năm 1832, năm ngài 77 tuổi, Đức Cha xét thấy tình trạng bệnh tật, đã cho cha về hưu tại xứ Trung Lễ.
Không thể phục vụ Giáo Hội trực tiếp nữa, cha Duệ đã dâng những ngày tháng bệnh tật để cầu nguyện cho Giáo Hội. Tuy đã già, mỗi ngày cha vẫn tiếp tục đọc, suy niệm, chia sẻ Tin Mừng và hướng dẫn cho các tín hữu trong vùng tìm đến bàn hỏi. Cha gia tăng những việc khổ chế hãm mình : bỏ nằm giường để ngủ trên đất, không nằm mùng để muỗi tự do đốt… nhiều người cản trở vì lo cho tuổi già của cha, cha trả lời : "Bấy nhiêu hãm mình đã là gì ? Tôi không có cơ hội dể làm việc lớn thì tôi chọn lựa một chút khó khăn vậy thôi".
* Giá trị một lời hứa.
Từ ngày vua Minh Mạng lệnh cho quan Trịnh Quang Khanh gắt gao truy lùng các giáo sĩ, Đức Cha Delgado Y, Giám mục giáo phận Đông phải bỏ trụ sở Bùi Chu đi trốn. Một hôm trên đường xuống Kiên Lao, Đức Cha ghé vào Trung Lễ gặp cha Duệ. Đức Cha nói nửa đùa nửa thật : "Cụ còn sức theo tôi đến thủ phủ Nam Định chăng ?". Cha Duệ hiểu ý người cha chung giáo phận muốn nói về việc tử đạo, nên trả lời : "Thưa Đức Cha, khi nào Đức cha bị bắt, xin cho phép con theo cùng".
Có lẽ vị Giám mục nói đùa rồi quên đi, nhưng cha Duệ không bao giờ quên điều mình đã nói. Từ ngày 28.05.1838, khi nghe tin Đức cha bị bắt ở Kiên Lao, cha Duệ đã khóc lóc và muốn ra trình diện với quan quân để được tử đạo với Giám mục của mình. lúc đó cha đã 83 tuổi, mắt thì lòa nên đi đâu phải có người dẫn, thế nhưng không ai chịu đưa cha đến nộp cho các quan cả.
Cũng từ đó, nằm trong nhà, hễ nghe có tiếng chân người bên ngoài, cha lại hô lên: "Hãy báo tin cho các quan biết tôi ở đây. Tôi là linh mục, hãy đến mà bắt tôi". Các giáo hữu xin cha thinh lặng kẻo liên lụy đến dân làng. Cha đáp: "Tôi không thể im được vì tôi đã hứa với Đức cha". Một hôm lính đi qua, nghe tiếng cha gọi thì bước vào. Cha nói: "Bây giờ các ông đã có linh mục, hãy bắt mà nộp cho quan đi". Một thày giảng đứng đó liền nói: "Ông nội tôi đó, các ông đừng để ý làm gì, ông ấy già nua nên lú lẫn, tự cho mình là linh mục đó thôi". Cha Duệ thanh minh rất tỉnh táo chớ chưa lẩm cẩm. Nhưng lính thấy cụ già đã ngoài 80 tuổi, nằm liệt trên giường như thế thì tin lời thày giảng rồi bỏ đi. Quân lính đã xa rồi mà cha già Bernadô cứ lẩm bẩm phàn nàn vì người ta đã làm cha mất cơ hội bị bắt.
Những ngày sau đó, cha Duệ vẫn tiếp tục la lên yêu cầu mội người đi ngang báo cho quan đến bắt mình. Các tín hữu thấy không cản được ngài nữa thì bàn tính với nhau, họ đưa cha đến một túp lều của một người cùi ở ngoài đồng, nhờ một bà đạo đức chăm sóc cơm nước. Họ nghĩ rằng quân lính chẳng đến khu vực đó. không ngờ ngày 04.07.1838, một toán lính vô tình đi ngang qua nghe tiếng cha đã ghé vào. Cha nói "Các chú tìm đạo trưởng hả ? Tôi là đạo trưởng đây". Không có ai ở đó để cải chính như hôm trước, nên cha bị bắt đem về nộp cho Tổng đốc Trịnh Quang Khanh.
* Vững như bàn thạch.
Tổng đốc thấy lính dẫn đến một người quá già nua tuổi tác thì cười, rồi cho đặt tấm ảnh Chúa trên đất và nói : "Ông lão bước qua tấm ảnh đi, ta sẽ tha cho về". Cha Duệ đáp: "Xin quan lớn đừng bảo tôi làm thế, dù thế nào tôi chẳng thể vâng lời quan". Bấy giờ trời đã gần tối, quan cho giam cha trong một ngôi chùa gần đó và bỏ đói suốt đêm. Sáng hôm sau lính giải cha về Nam Định. Viên quan án ở đây cũng để một Thánh Giá yêu cầu cha bước qua. Cha trả lời ông như đã nói với quan Tổng đốc. Viên quan tội nghiệp tuổi già nên không đánh đập gì, như bắt cha phải mang gông và cho đưa vào trại giam.
Gần hai tháng trong tù, nhiều lần quan cho người vào dụ dỗ cha bỏ đạo, nhưng cha cương quyết từ chối. Những ngày đầu trong trại giam trật hẹp, hôi hám, cha Duệ phải trải chiếu dưới đất ngủ, có người thương đem đến biếu cha một chiếc chăn để quấn cho ấm, cha từ chối và nói: "Nơi tôi nằm bây giờ còn êm ái hơn Thánh Giá Chúa Giêsu xưa nhiều". Có một hôm mưa giột ướt hết nơi cha nằm, lính đến bảo cha dời chỗ, cha không chịu: "Cứ để tôi ở chỗ ướt này cũng được, không can chi. Tôi chỉ lo những sự đời sau và ước ao đổ máu vì dạo Chúa Kitô thôi".
Ngày 12.07, Đức cha Y đã lìa thế, ly trần trong ngục nhưng vẫn bị đem ra pháp trường xử chém. Nghe tin đó, cha Duệ bỏ luôn chiếu, ngủ trên đất. Cha nói: "Giám mục là cha đã phải xử, ta là con nằm chiếu sao phải lẽ". Cha Duệ đã chọn những hy sinh tự nguyện để dọn mình đón nhận cuộc tử đạo. Thời gian này cũng có cha Hạnh, linh mục dòng Đaminh bị giam chung. Cha Hạnh trẻ hơn, mới 66 tuổi nên thường thay mặt cha già trả lời cho các quan. Sau khi thấy không làm hai vị đổi ý được nữa, các quan liền làm án gởi về kinh đô:
"Chúng tôi đã tra khảo hai tên Vũ Văn Duệ và Nguyễn Văn Hạnh. Chúng đã bị bọn Tây lừa mà theo đạo Gia Tô từ lâu. Chẳng những chúng tin mà còn giảng đạo ấy cho nhiều kẻ khác tin theo nũa… Xem ra đạo ấy đã thấu tận tâm can bọn chúng đến nỗi không thể bỏ được. Vậy chúng tôi luận cho chúng án trảm quyết, để ai lấy đều biết tội chúng nặng, đáng phải phạt thể ấy".
* Chiến thắng vinh quang.
Theo luật thời đó, ở tuổi cha Duệ 83 lẽ ra không bị xử tử, nhưng vua Minh Mạng bất chấp cả luật lệ, ký bản án liền. nghe tin ấy, cha Duệ tỏ ra vui mừng, gia tăng việc hãm mình chuẩn bị cho ngày hồng phúc cha vẫn mong đợi. Ngày 24.07, quan cho tách riêng cha Hạnh đi giam nơi khác. Nhưng ngày 01.08, hai vị cùng được đưa ra tòa lần chót trước khi đưa đi xử. Cả hai vị đều khẳng khái tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa. cha Duệ và quá yếu sức, lính phải cáng ra pháp trường Bảy Mẫu. Ra đến cửa thành, vì viên quan chủ tọa cuộc xử án chưa đến, hai linh mục phải đứng ngoài nắng mấy giờ liền. một người đưa cha Duệ một chiếc chiếu nhỏ để che nắng, cha cảm ơn từ chối. Suốt hành trình, cha làm dấu Thánh Giá nhiều lần và cầu nguyện cách sốt sắng.
Đến nơi hai vị cầu nguyện chung một lát. Sau đó, lính tháo gông xiềng xích và trói hai vị vào cọc. Theo lệnh quan, hai lý hình thi hành phận sự, chém và tung đầu lên cho mọi người trông thấy. Dân chúng ùa vào thấm máu hai vị tử đạo. Quân lính chôn cả đầu lẫn xác tại pháp trường, sau các tín hữu xin phép được đưa thi hài về an táng tại Lục Thủy.
Thế là cha Duệ đã thực hiện trọn vẹn lời hứa với vị Giám mục Y: Đi theo ngài đến cùng, để rồi chung hưởng hạnh phúc trường tồn trên Thiên Quốc.
Cùng với vị Giám mục của mình, Đức cha Y, linh mục Bernadô Vũ Văn Duệ được Đức Lêo XIII suy tôn lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Ngày 01/08/1772 – 1838 Thánh Đaminh Nguyễn Văn Hạnh Linh Mục Tử Đạo.

* Laurensô Việt Nam.
Chuyện tử đạo thánh Đaminh Hạnh làm chúng ta liên tưởng đến thánh Laurensô phó tế thủa xưa. Bản thân ngài trốn tránh khi xảy ra cuộc bách hại, nhưng khi đã nắm chắc án tử thì can trường trước mọi cực hình. Sau một trận đòn chí tử, vị chứng nhân quay lại hỏi viên quan: "Các ông đánh đủ chưa?". Rồi chắp tay sau lưng nói tiếp: "Làm đến ông lớn mà còn bất công, bắt một mông chịu cả, còn mông kia chẳng chịu gì hết". Câu nói đó làm chúng ta chợt nhớ đến thánh Laurensô khi bị nướng trên giường sắt, đã nói với lý hình : "Bên này chín rồi, trở qua bên kia đi thôi". Câu nói đó có vẻ thách thức, diễu cợt, nhưng nói lên lòng can đảm dám chấp nhận mọi thử thách của một con người đã sẵn sàng hiến chính mạng sống cho Đấng mình yêu.
Đaminh Nguyễn Văn Hạnh sinh năm 1772 tại làng Năng A, tỉnh Nghệ An, thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài. Ngay từ bé cậu đã có nguyện ước làm linh mục, được Đức cha Delgado Y hỗ trợ, và gởi cậu đến học với cha Liêm. Sau khi thụ phong linh mục, cha Hạnh xin gia nhập dòng thánh Đaminh, và khấn ngày 22.08.1826 trong tay bề trên Amandi Chiêu khi đã 54 tuổi. từ ngày đó, cha càng tích cực rao giảng danh Chúa và phục vụ các linh hồn. Lúc vua Minh Mạng bách hại những người công giáo, cha phải làm việc mục vụ cách lén lút, nhưng không bao giờ chịu bó tay.
Năm 1838, cha đến phục vụ ở Quần Anh Hạ. Tới khi tình hình ở đó căng thẳng, cha di chuyển qua làng Trung Thành. Hai người làng Quần Anh hứa đưa cha đến nơi trú ẩn một cách an toàn, cha thật thà tin lời đi theo. Ngày 07.07, trên đường đi, chính hai người này bắt cha nộp cho quan. Cha bị giải về thị trấn Nam Định và tống giam chung với cha Bernadô Vũ Văn Duệ, một linh mục triều cùng giáo phận đã bị bắt trước cha bốn ngày.

* Ai dại ai khôn.
Khi tới cửa thành, cha Hạnh thấy một cây Thập Giá đặt dưới đất ngay lối đi, cha liền đứng lại yêu cầu quan cho lính cất đi. Thấy thái độ dứt khóat của cha, quan cho cất Thánh Giá, bấy giờ người chiến sĩ đức tin mới chịu vào thành, bình tĩnh vui vẻ ra mắt quan tòa. Sau khi hỏi về tuổi, quê quán quan hỏi: "Vậy ông dạy dân chúng những gì?. Cha đáp : "Tôi chỉ người ta làm điều lành, tránh điều dữ thôi". Quan lại hỏi :- Tại sao không bước qua Thập Tự?
- Thưa quan, Thập Tự đối với chúng tôi là hình Thánh Giá, tượng trưng cho ơn cứu chuộc, nên không được ai chà đạp, vì đó là một trọng tội.
- Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo rồi được tha về, ông cứ làm như thế ta sẽ tha cho.
Nhưng cha Đaminh Hạnh cương quyết không chịu đạp lên Thánh Giá. Cha bình tĩnh giải thích cho quan các lẽ đạo rồi kết luận : "Kẻ trung thành với Chúa Giêsu, khi chết sẽ được lên Thiên Đàng". Quan hỏi: "Thế nhưng người không tôn thờ ông Giêsu, chết sẽ đi đâu ?". Cha đáp: "Xuống hỏa ngục". Câu trả lời đã làm cho quan giận quá, tiện tay cầm quạt đập ngay vào đầu cha một cái, chửi mắng thậm tệ và cho lính đánh cha 15 roi. Đánh xong, quan bắt cha mang gông xiềng tống ngục.
Cha Hạnh còn phải ra tòa nhiều lần nữa. Một lần quan đưa ra mẫu ảnh Đức Bà, yêu cầu cha đạp lên thay cho Thánh Giá, nhưng cha kính cẩn cầm lấy mà hôn. Việc tôn kính Đức Mẹ ấy được quan "ban thưởng" 100 roi đòn, nhưng cha vui vẻ chấp nhận. Lần khác cha ra tòa với linh mục Duyệt, một người trước đây có nhiều tiếng xấu. Linh mục này bị bắt và đã bỏ đạo. Khi quan bảo bước qua Thập Giá, linh mục Duyệt vâng ngay, bước qua lại mấy lần.
 Cha Hạnh thấy thế nổi nóng chỉ thẳng mặt nói : "Bớ ông kia ! Hãy xem đầu mình đã bạc, còn sống được bao năm nữa mà cả lòng bỏ Chúa mình vì năm ba ngày tháng chóng qua ru ? Ông làm ô danh Đấng Bậc của mình để được lòng vua dữ ? Ông thêm cực lòng cho Giáo Hội đã nuôi nấng dạy dỗ bấy lâu, đi làm bạn với ma quỷ, chực làm hại đời mình".
Nhưng kẻ phản bội quay qua cười chế nhạo và nói : "Tôi làm khôn, chỉ có ông là dại dột". Quan và lính nghe nói vỗ tay reo hò cách đắc thắng. Người chiến sĩ quay ra cãi lý với các quan. Nói một hồi mất bình tĩnh, cha xưng hô "mày tao" nên bị phạt 30 roi đòn. Khi quan ra lệnh ngưng đánh, cha Hạnh ung dung nói: "Các ông đánh đủ chưa?". Rồi chắp tay sau lưng nói tiếp: "Làm đến ông lớn mà còn bất công, bắt một mông chịu cả, còn mông kia chẳng chịu gì hết".
* Đạo thấm vào tâm can.
Sau khi thấy không làm cha Hạnh và cha Duệ bỏ đạo được, quan liền làm án gởi vào kinh đô xin vua Minh Mạng châu phê. Án ấy như sau:
"Chúng tôi đã tra khảo hai tên Vũ Văn Duệ và Nguyễn Văn Hạnh. Chúng đã bị bọn Tây lừa, mà theo Gia Tô đã lâu. Chẳng những chúng tin, mà lại giảng đạo ấy cho nhiều người khác tin theo nữa… Xem ra đạo ấy đã thấu vào tâm can bọn chúng đến nỗi không thể bỏ được. Vậy chúng tôi luận chúng cho chúng án trảm quyết, để ai nấy đều biết tội chúng nặng, đáng phải phạt thế ấy".
Nghe tin bản án đã được ký, cha Hạnh tỏ ra vui mừng và vững mạnh hơn trước: Cha tranh thủ những giờ giấc có thể để tùy ủy lạo các bạn tù và giải thích về đạo cho các lính gác. Ngày 24.07, cha Fernandez Hiền bị đem đi chém, cha Hạnh được đem đến dinh quan án thì mừng rỡ, tưởng sẽ được tử đạo như cha chính giáo phận, nhưng quan chỉ muốn tách riêng cha qua nhà tù khác.
Tuần lễ cuối cùng ở trong nhà tù của cha Hạnh không còn ghi dấu bằng những trận đòn đánh nữa. Quan cho người này đến người khác vào thăm và xúi cha bỏ đạo. Một lần có người nói: "Ông không thoát chết được đâu". Cha đáp: "Phải, sự chết thì đã hẳn rồi. Trước tôi cứ ngỡ là được chết với cha chính Hiền, mà tôi chẳng được sự ấy thì lấy làm buồn lắm". Lần khác, người của quan nói rằng nếu cha bỏ đạo, quan hứa sẽ nuôi dưỡng và đề nghị cho cha làm quan. Cha đáp: "Dù tôi được làm quan ngay hôm nay mặc lòng, tôi cũng không xuất giáo đâu. Tôi chỉ mong được làm con Đức Chúa Trời thôi".
* Chúng tôi về thiên đàng đây.
Ngày 01.08.1838, hai cha Bernadô Duệ và Đaminh Hạnh được dẫn đi xử. Từ sáng sớm, khi biết tin đó, cha Hạnh liền chỗi dậy đọc kinh, rồi chào giã biệt và cám ơn các bạn tù đã giúp mình cách này cách khác. Quan cho dẫn hai cha lên tòa lần chót, để hỏi xem có đổi ý không. Cha Hạnh trả lời : "Được chết vì đạo là điều tôi mong đã lâu, rầy sự ấy đã gần thì tôi vui mừng lắm". Cha Duệ già 83 tuổi thì được lính võng đi trước. Cha Hạnh 66 tuổi mang gông xiềng nặng nề theo sau, tới khi kiệt sức mới được lính cho lên cáng. Thế nhưng cha vẫn vui vẻ nói với các tín hữu đi theo rằng: "Anh chị em ở lại bình an, hai chúng tôi về Thiên Đàng hưởng phúc vô cùng"
Đến pháp trường Bảy Mẫu, cha Hạnh nói với cha già Duệ: "Đến nơi rồi, chúng ta hãy cầu nguyện cho sốt sắng hơn". Cả hai vị quỳ xuống cầm trí cầu nguyện một lát. Sau đó lính tháo gông xiềng và chói hai vị vào cột. Theo lệnh quan, hai lý hình thi hành phận sự, họ chém và tung đầu lên cho mọi người thấy. Dân chúng ùa vào thấm máu hai vị tử đạo. Thi hài các ngài được chôn ngay tại pháp trường, sau các tín hữu xin phép được đưa về an táng tại nhà thờ Lục Thủy.
- Hai linh mục đã cùng nhau uống cạn chén đắng khổ nạn, cũng được cùng nhau chung hưởng phúc vinh quang.
Đức Lêo XIII đã suy tôn cha Đaminh Nguyễn Văn Hạnh và Bernadô Vũ Văn Duệ lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Ngày 01/08 Thánh Alphongsô Ligôri, Giám mục Tiến sĩ (1696-1787)
Công đồng Vatican II nói rằng Thần học Luân lý (THLL) nên được nuôi dưỡng xuyên suốt bằng Kinh thánh, Công đồng còn cho thấy tính cao quý của ơn gọi Kitô giáo của các tín hữu và trách nhiệm của họ là sinh hoa kết quả trong đức ái đối với cuộc sống trần gian. Thánh Alphongsô được ĐGH Piô XII tôn vinh là bổn mạng các nhà thần học luân lý năm 1950. Suốt đời ngài đấu tranh cho sự giải phóng của THLL khỏi sự khắt khe của tà thuyết Gian-sen (*). THLL của ngài, được xuất bản 60 lần sau khi ngài qua đời, tập trung vào các vấn đề cụ thể và thực tế của các mục tử và các vị giải tội. Nếu một sự tuân thủ luật pháp và tính tối thiểu nào đó luồn lách vào THLL, nó không nên được quy vào kiểu chừng mực và sự nhẹ nhàng này.
Tại ĐH Naples, lúc mới 16 tuổi, ngài đã nhận bằng tiến sĩ về Giáo luật và Dân luật, nhưng ngài mau chóng bỏ nghề luật sư để hoạt động tông đồ. Ngài thụ phong linh mục và tận tụy với việc mục vụ, giải tội, và thành lập những nhóm Kitô giáo. Ngài lập Dòng Chúa Cứu Thế năm 1732. Đó là một đoàn thể linh mục và tu sĩ sống đời cộng đoàn, cố gắng noi gương Chúa Kitô, và hoạt động chủ yếu về các nhiệm vụ phổ biến dành cho dân nghèo ở các vùng quê. Việc cải cách mục vụ vĩ đại của ngài tòa giảng và tòa giải tội. Ngài có tài viết lách, đi khắp vùng Naples, và rao truyền các nhiệm vụ phổ biến.
Ngài được bổ nhiệm giám mục lúc 66 tuổi, dù ngài cố từ chối, và ngài liền cho xây các cơ sở trong khắp giáo phận. Ngài bị khập khiễng và kém thị lực, ký các văn bản và bị lừa.
Lúc 71 tuổi, ngài bị thấp khớp không chữa được nên bị vẹo cổ. Ngài chịu suốt 18 tháng về cảnh “đêm tối”, sợ hãi, bị cám dỗ chống lại các bài viết về đức tin và nhân đức, nhưng vẫn có những khoảng sáng và khuây khỏa là những lúc thường xuyên xuất thần.
Ngài không chỉ nổi tiếng về THLL, ngài còn viết nhiều về lĩnh vực thần học tâm linh và tín lý. Cuốn Glories of Mary (Vinh quang Mẹ Maria) là một trong các tác phẩm lớn của ngài, và cuốn Visits to the Blessed Sacrament (Viếng Thánh Thể) của ngài được tái bản 40 lần ngay khi ngài còn sống, ảnh hưởng nhiều đến việc thực hành sự tận hiến trong Giáo hội.
lập cơ sở tại một tu viện ở Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung thành của Jansen, đã bảo vệ các giáo huấn của họ trong Provincial Letters (1656–1657). Năm 1709, vua Louis XIV ra lệnh bãi bỏ tu viện này. Những người theo Jansen bắt đầu lập Giáo hội Jansen năm 1723 và tồn tại tới cuối thế kỷ 20.

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014

Thứ Năm Tuần XVII Thường Niên



Lời Chúa: Người ta nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài.
“ Ha-lê-lui-a. Lạy Chúa, xin mở lòng chúng con, để chúng con lắng nghe lời của Con Chúa. Ha-lê-lui-a.”
Ca tụng Chúa đi hồn tôi hỡi !
Suốt cuộc đời con xin hát mừng Chúa

Sống bao lâu nguyện đàn ca kính Chúa Trời.


Ngày 31/07/1826 – 1859 Linh Mục Thánh Phêrô Đoàn Công Quý Tử Đạo
Phêrô Ðoàn Công Quý, Sinh năm 1826 tại chợ Búng, Gia Ðịnh, Linh mục, bị xử trảm ngày 31/07/1859 tại Châu Ðốc dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X suy tôn Chân Phước cho cha Phêrô Đoàn Công Quý ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 31/07 hằng năm.
* Những năm thơ ấu.
Ông Antôn Đoàn Công Miêng và bà Anrê Nguyễn Thị Thường sinh sống ở Bắc Việt cho đến năm 1820. Cả gia đình di cư vào Nam ở tại họ Búng, làng Hưng Thịnh, tổng Bình Thạnh, hạt Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Năm 1826, người con trai út, Phêrô Đoàn Công Qúy chào đời. Đây là người con thứ sáu trong gia đình và là hy lễ của gia đình ông Miêng hiến dâng cho Thiên Chúa.
Vì thấy cậu út rất thông minh, nên ông Miêng cố lo liệu để cậu chuyên chăm theo đường học vấn, với hy vọng mai sau nối dòng thi lễ, làm vẻ vang cho cả gia tộc. Nhưng thiên Chúa muốn cho người con út này đi theo con đường khác. Cậu Quý thường lui tới và học hỏi cha Tám ở nhà thờ họ Búng. Một thời gian sau, cậu xin phép cha mẹ được ở luôn với người, thỉnh thỏang mới về thăm gia đình.

* Theo tiếng Chúa gọi.
Năm 1847, cha Tám giới thiệu chàng trai 21 tuổi này với cha Gioan Miche Mịch để được học hỏi tiếng la tinh và tiếp tục theo đuổi ơn gọi tu trì. Sau khi học tiếng Latinh tại nhà cha Mịch, cậu Quý được học tại chủng viện Thánh Giuse (Thị Nghè) do cha Borelle làm giám đốc. Năm 1848, thầy Quý du học tại đại chủng viện Hội Thừa Sai Paris ở Pénang (Mã Lai). Tại đây, thầy học triết lý và thần học, ngôn ngữ, văn chương. Việc huấn luyện như thế được coi là khá đầy đủ cho một linh mục thuộc miền truyền giáo trở về hoạt động tại quê hương.
* Trên con đường xứ vụ.
Năm 1855, thầy Quý hồi hương vào thời kỳ vua Tự Đức ra sắc chỉ cấm đạo gắt gao. Tháng 09.1855, vua Tự Đức ra chiếu chỉ thứ ba, trong đó không những lùng bắt các đạo trưởng, mà còn bắt cả giáo hữu phải xuất giáo, triệt hạ các thánh đường, phá hủy các cơ sở tôn giáo …
Với hoàn cảnh bất lợi này, Đức cha Lefèbvre Nghĩa trao cho thầy nhiệm vụ săn sóc, dạy dỗ, động viên các giáo hữu tại các họ đạo. Qua một thời gian hoạt động, thầy tỏ ra là người nhiều khả năng, nên Đức cha đã truyền các chức nhỏ cho thầy. Sau ba năm thi hành việc mục vụ tại các giáo họ, tháng 09.1858, thầy Quý đã được lãnh chức linh mục tại nhà thờ Thủ Dầu Một. Sau một thời gian phục vụ tại các giáo xứ Lái Thiêu, Gia Định và Kiến Hòa, Đức cha bổ nhiệm cha Phêrô Quý làm phó xứ Cái Mơn (Vĩnh Long).
Cha Phêrô Quý được tuyển chọn vào cánh đồng truyền giáo trong giai đoạn đặc biệt của đất nước : Pháp và Tây Ban Nha đem quân đánh phá ở Cửa Hàn (Đà Nẵng) vào tháng 09.1858 làm cho vua Tự Đức càng thêm căm ghét các giáo sĩ nước ngoài và Đạo Thiên Chúa. Do đó, cuộc bách hại ngày càng khốc liệt hơn. Nhưng nhiệt tình truyền giáo đã làm cho cha Quý vượt thắng mọi gian khổ, đe dọa, hiểm nguy. Chỉ ba tháng sau khi cha về Cái Mơn, quân lính bao vây Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn để lùng bắt giáo sĩ, nhưng không có vị nào ở đó, nên lính bắt giam một tu sĩ nữ để tra tấn, khai thác các chị về chỗ ở của các ngài.
Nghe tin các nữ tu bị bắt, cha Quý muốn nộp mạng để lính tha cho chị em, nhưng giáo hữu ngăn cản và không để cha thực hiện ý định này. Cha vẫn ao ước sẵn sàng hy sinh tính mạng để thế cho các chị. Cha chỉ bỏ ý định này khi có lệnh rõ ràng của cha bề trên giáo phận Borelle Hòa. Từ đó cha cải trang thành thường dân, đi thăm viếng, an ủi và ban các bí tích cho các giáo hữu.
* Chặng đường khổ giá.
Đức cha bổ nhiệm cha Quý về giáo họ Đầu Nước ở Cù Lao Giêng, tỉnh An Giang ngày 27.12.1858 thì mười ngày sau (07.01.1859) quan Tổng đốc An Giang được mật báo có Tây dương đạo trưởng trú ẩn tại nhà ông Lê văn Phụng ở Đầu Nước. Quan sai 100 lính đến bao vây nhà ông Phụng. Khi lính gần đến làng, giáo hữu tới báo tin cho gia đình ông Phụng. Nghe tin này, cha Pernot Định đã đề nghị với cha Quý cùng đi trốn, nhưng cha Quý bình tĩnh trả lời:
"Tôi là người bản xứ chắc quan quân khó nhận ra, cha cứ đi trước, tôi ở lại thu dọn đồ lễ khỏi gây phiền hà cho chủ nhà và giáo họ, rồi sẽ theo sau". Sau khi cha Pernot ra khỏi thì quan quân ập tới. Cha Quý chạy vào ẩn nấp dưới sàn nhà, quan ra lệnh cho ông Phụng phải nộp đạo trưởng Tây như đã được mật báo. Ông Phụng cương quyết trả lời là không có ai là đạo trưởng Tây cả. Quan dọa là nếu không tuân lệnh thì sẽ bị đánh đòn. Thấy lính sắp đánh đòn chủ nhà, cha Quý tự ra nhận mình là đạo trường. Lính không chịu nghe và nói chắc chắn là có tên đạo trưởng Tây ở trong nhà này. Cha Quý lại cương quyết khẳng định : "Không có Tây dương đạo trưởng nào ở đây, chỉ có tôi là đạo trưởng. Ai muốn theo đạo tôi sẵn sàng chỉ dậy".
Thấy cha Quý còn rất trẻ, quan không tin ngay liền hỏi em nhỏ 10 tuổi, cháu nội của ông Phụng xem đạo trưởng là ai. Nó chỉ vào cha Quý và thưa : "Bẩm, ông này ạ". Lính liền trói cha Quý, ông Phụng và 32 giáo hữu, rồi xiềng xích giải về Châu Đốc. Đến Châu Đốc, lính áp giải cha Quý đến quan tổng đốc. Quan thẩm vấn cha nhiều điều và hứa sẽ tha cho cha nếu cha tuyên bố bỏ đạo, theo như chiếu chỉ nhà vua. nhưng cha Quý vẫn kiên quyết nhận mình là đạo trưởng, không bao giờ bỏ đạo Thiên Chúa.
Lần khác quan nói với cha: "Thầy là người thanh liêm, nhân từ, đức hạnh, tại sao lại mê theo tà đạo, hãy nghe ta mà bỏ đạo đó đi". Cha Quý trả lời: "Dạ, thưa quan tôi là người giảng dạy đạo này, sao lại có thể bỏ đạo cho được ? Vả nữa, đây là chính đạo, vì chỉ dạy điều tốt lành, chứ không phải là tà đạo như quan hiểu lầm đâu". Quan ra lệnh tống giam cha và sau đó dùng nhiều phương kế dụ dỗ đe nạt, tra tấn hòng làm thay đổi lập trường của cha. Nhưng cha vẫn một lòng trung kiên với chính đạo. Sau cùng, quan thảo bản án trảm quyết gửi về kinh đô. Bảy tháng trong ngục, cha Quý động viên các bạn tù, cử hành bí tích, nguyện ngắm và đọc kinh Mân Côi với họ. Một giáo hữu đến thăm cha, có cả linh mục bản quốc cải trang để vào giải tội và cho cha rước Thánh Thể.
* Tình thương với thân mẫu.
Dù sống trong cảnh tù ngục, cha Quý vẫn tưởng nhớ đến thân mẫu của mình (thân phụ đã qua đời). Cha gởi thơ kính thăm và báo tin cho thân mẫu biết tin mình sắp được phúc tử đạo.
Ký vụ thân mẫu đôi chữ trưởng tri
Kể từ ngày con vâng lệnh ra đi
Lòng lã chã lệ rơi luồng lụy
Ngỡ tới đây hành công biện sự
Một hai tháng về viếng từ thân
Ai ngờ rầy sớm tách lìa phân
Trời cùng nước không hề vầy hiệp
Hễ đạo làm tôi đua giữ lời răn dậy
Cho nên con vâng lệnh chỉ sai
Đàng xa xôi cách trở lại chi nài
Miễn đặng tiếng vâng lời chịu lụy
Khi con tới An Giang tạm nghỉ
Gặp chân trời mở hội khoa thi
Nên con phải liều công ứng cử
Ấy là Thiên Chúa chi sổ nhiên
Nhơn tất tùng chi, nhi dĩ hỉ.
Dầu trăng trói gông cùm tù rạc
Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề
Miễn vui lòng cam chịu một bề
Cho trọn đạo trung thần hiếu tử
Chí con dốc đến công ơn Chúa
Dạ con làm báo nghĩa mẹ cha
Xin mẫu từ chớ chút phiền hà
Một cam chịu cho danh cha cả sáng.
Nay thơ,
Thân tử Bá Đa Lộc Đoàn Công Quý,
Linh mục bản quốc"
* Sau ba tiếng chuông ngân.
Ước vọng hiến dâng trọn vẹn cuộc đời cho Thiên Chúa của cha Phêrô Đoàn Công Quý đã được chấp nhận. Ngày 30.07.1859, bản án trảm quyết cha được gởi từ kinh đô về đến Châu Đốc cùng với bản án ông Emmanuel Lê Văn Phụng. Sáng hôm sau (31.07), cha Quý và ông Phụng hớn hở đi ra pháp trường ở xóm Chà Và cùng với quan quân và giáo hữu. Người lính đi trước tay cầm tấm thẻ của cha Quý và thỉnh thoảng đọc to:
"Tự Đức thập tam, An Giang tỉnh, kỷ vị niên, thất nguyệt, sơ nhị nhật.
Thẻ : Đạo trưởng Đoàn Công Quý, tùng gian đạo, tụ tập đạo đồ, đạo chủng, đạo thư: Bất khẳng quá khóa, vi phạm quốc pháp, luật hình trảm quyết". (1)
Đến nơi xử án, hai vị chứng nhân Chúa Kitô: cha Quý và ông Phụng, cùng qùy xuống cầu nguyện. Sau đó, cha Quý giải tội cho ông Phụng. Giờ hành xử đã đến, ba tiếng chuông vang lên giữa pháp trường, lý hình chém cha Quý ba nhát gươm, đầu cha lìa khỏi thân mình và rơi xuống đất. Vị tử đạo gĩa từ cõi đời trở về quê hương vĩnh cửu với tuổi đời 33, sau một năm thi hành chức vụ linh mục. Thi hài vị tử đạo được an táng tại nhà thờ Năng Gù, sau được cải táng về chủng viện Cù Lao Giêng năm 1959, nhân dịp bách chu niên cuộc tử đạo.
Đức Piô X suy tôn Chân Phước cho cha Phêrô Đoàn Công Quý ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Ngày 31/07/1796 – 1859 Trùm Họ Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng Tử Đạo
* V ì chính tôi đã tha thứ.
"Con ơi, hãy tha thứ. Đừng tìm báo thù kẻ tố giác cha nhé". Đó là lời trăn trối cuối cùng của thánh Emmanuel Lê Văn Phụng cho con trai trước khi bị xử chém. Noi gương Đức Kitô trên Thập Giá xin Chúa cha tha những kẻ hành hạ mình, thánh nhân nài nỉ các bạn hữu sống trọn vẹn giới luật bác ái Kitô Giáo : "Hãy tha thứ cho kẻ thù. Đừng báo oán những kẻ tố giác hay kết án tôi, hãy tha thứ, hãy tha thứ vì chính tôi, tôi đã thứ tha…" Cho đến muôn đời, mẫu gương và lời nói đó sẽ mãi mãi vang vọng trong lòng người tín hữu Việt Nam.
* Xanh vỏ đỏ lòng.
Emmanuel Lê Văn Phụng sinh năm 1796 tại họ Đầu Nước, Cù Lao Giêng, tỉnh An Giang, thuộc trấn Châu Đốc, Nam Hà. Nhìn bề ngoài, ông Phụng không mấy hấp dẫn, vì vóc dáng có vẻ gân guốc, lại hay lớn tiếng với mọi người. Nhưng trái lại, nhờ tính cương trực, sự dứt khoát cũng như lòng nhiệt thành với việc chung, ông được bà con tín nhiệm đề bạt làm "câu" (Trùm) họ Đầu Nước. Đáp ứng lại sự tín nhiệm đó, ông Câu Phụng đã góp sức tổ chức giáo họ thêm lớn mạnh ngay trong thời bách hại đạo dưới thời vua Tự Đức.
Nhờ tài đức của ông, họ đạo đã tái thiết được ngôi thánh đường khang trang, cất nhà cho các nữ tu và trở thành khu trú ngụ khá an toàn cho các giáo sĩ. viên quan huyện địa phương một phần vẫn nhận tài trợ của ông, một phần đã thấy rõ sinh hoạt tôn giáo không có gì nguy hiểm, nên cho người báo tin trước khi phải kiểm tra theo lệnh trên, đủ thời giờ để các tín hữu cất dấu ảnh tượng và các vật dụng tôn giáo.
* Tai họa bất ngờ.

Thế nhưng có điều ông Câu Phụng không ngờ tới là món tiền thưởng của nhà vua vốn có một hấp lực với một vài lương dân trong vùng. Những ngày này họ chia nhau theo dõi nhà ông, mỗi đêm họ cử người leo lên cây xoài gần đó để quan sát, và họ đã toại nguyện. Cuối năm 1858, họ đã phát hiện một vị thừa sai ngoại quốc Pernot Định đang tạm trú tại nhà ông Câu.
Đêm hôm đó, khi mọi người đã an giấc, cha Pernot Định ra sân đi dạo để hít thở không khí trong lành và cầu nguyện giữa khí mát trăng sao. Đêm thanh như có phép mầu làm tiêu tan đi những mệt nhọc ban ngày và giúp cha hướng về Đấng Tạo Hóa cao thẳm, thầm ước mong các tín hữu Việt Nam sẽ đông đúc như sao ở trên trời. Trước khi khép cửa để vào nhà ẩn nấp, cha còn nói với lại : "Chào các bạn tinh tú nhé. Thực là tồi tệ cho những ai bắt tôi phải sống thế này".
Thế là hai người rình rập hôm đó mừng rỡ, họ vội vã kéo nhau đi báo cho quan trấn phủ Châu Đốc. Họ tố gíac ông Câu Phụng chứa chấp Tây Dương Đạo Trưởng. Họ cũng không quên xin phái quan lãnh binh đi bắt, chứ đừng báo quan huyện, vì quan này thông đồng với Công Giáo.
Sáng ngày 07.01.1859, ông Câu Phụng chưa hay biết gì cả. Ngoài thừa sai Pernot Định, còn có cha Phêrô Quý (cha sở mới họ Đầu Nước). Đang trọ tại nhà ông. hai linh mục vẫn dâng lễ như thường. Sau đó, mới có người chạy về báo tin là quan quân Châu Đốc đi thuyền và đi bộ đang tiến đến nhà ông. Ông Phụng liền cử người đưa hai cha đi trước, nhưng cha Quý nhất định ở lại, vì nghĩ mình có thể trà trộn vào dân được, và tìm chỗ ẩn núp ngay trong nhà.
Đến khi quan quân ập vào hạch hỏi và dọa đánh chủ nhà, cha sở Quý tự ra trình diện. Thế là quân lính liền bắt trói ông Câu Phụng, cha Quý và 32 giáo hữu khác áp giải về Châu Đốc. Trước mặt quan, vì có người tố cáo, ông Câu khẳng khái xác nhận mình đã từng tiếp đón và cho thừa sai nước ngoài trọ tại nhà mình. nhưng sau đó, dù tra tấn hay dụ dỗ nhiều lần, ông nhất định không khai thêm chi tiết nào khác về các thừa sai, và cương quyết không bỏ đạo.
* Kỷ vật cuối cùng.
Sau sáu tháng giam giữ, không hy vọng gì các tù nhân đổi ý, các quan trấn Châu Đốc làm án gởi về kinh đô xin xử giảo và vua Tự Đức châu phê liền. Ngày 31.07.1859, linh mục Phêrô Đoàn Công Quý và ông Câu Lê Văn Phụng được đưa ra pháp trường Chà Và. Cả hai vị bình tĩnh, cha Quý vừa đi vừa đọc kinh Mân Côi, còn ông Câu thì dặn dò các bạn hữu tha thứ cho những kẻ hại mình.
Tại pháp trường, ông câu gặp các con mình. ông đeo vào cổ con gái cô Anna Nhiên ảnh Thánh Giá và nói: "Con ơi, hãy nhận lấy kỷ vật của ba. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ảnh này quý hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé".
Ông cũng dặn con trai, đừng chôn cất rầm rộ, và nhớ chôn ông bên cạnh cha sở của mình. Tiếp theo, hai chứng nhân của Chúa quỳ xuống cầu nguyện. Cha Quý giải tội cho ông Câu. Sau ba tiếng chiêng vang, vị linh mục bị chém đầu, còn ông Câu Emmanuel bị xiết cổ bằng dây thừng do hai người kéo.
Đức Piô X suy tôn hai vị tử đạo lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Đặc biệt ông câu Emmanuel Phụng được đứng trong số sáu vị đứng đầu danh sách 117 hiển thánh tại Việt Nam.
Nghĩa cử quảng đại tha thứ của ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng trước giờ tử đạo đã là bài giảng hùng hồn nhất về sự bao dung của đức bác ái Kitô giáo.

Ngày 31/07 –  Thánh Inhaxiô Loyola (1491-1556)
     Thánh Inhaxiô là vị sáng lập Dòng Tên. Ngài là một quân nhân và bị trái pháo làm bị thương ở chân. Khi nằm điều trị, không có sách nào hay để đọc, ngài “giết thời gian” bằng cách đọc sách về cuộc đời Chúa Kitô và hạnh các thánh. Ngài được đánh động sâu sắc. Thấy Đức Mẹ trong một thị kiến, ngài quyết định hành hương tới đền Đức Mẹ ở Montserrat (gần Barcelona). Ngài ở Manresa gần 1 năm, và thường vào hang động để cầu nguyện. Sau một thời gian lắng đọng tâm hồn, ngài cân nhắc cuộc đời. Làm thế nào cũng không thấy lòng bình an. Một thời gian dài sau ngài mới lấy lại được quân bình. Khi đó ngài bắt đầu viết kiệt tác “Luyện tập Tâm linh” (Spiritual Exercises).
     Ngài sống 11 năm ở các trường đại học Âu châu, ngài học rất khó khăn, bắt đầu như một đứa trẻ. Hai lần ngài bị nghi ngờ và 2 lần bị tù một thời gian ngắn.
     Năm 1534, khi ngài 43 tuổi, ngài và 6 anh em khác (trong đó có thánh Phanxicô Xaviê) khấn sống khó nghèo và khiết tịnh, và cùng tới Thánh Địa. Bốn năm sau, thánh Inhaxiô lập Dòng Tên và được ĐGH Phaolô III phê chuẩn, chính thánh Inhaxiô được bầu làm bề trên tổng quyền đầu tiên. Ngài còn thành lập trường ĐH Rôma, kiểu mẫu của các Đại học khác.
     Ngài thực sự là nhà thần bí. Ngài tập trung đời sống tâm linh vào các nền tảng chính của Kitô giáo – Chúa Ba Ngôi, Đức Kitô, và Thánh Thể. Tinh thần của ngài được diễn tả bằng câu châm ngôn của Dòng Tên: “Ad majorem Dei gloriam” (vì vinh quang Thiên Chúa). Theo khái niệm của ngài, vâng lời là nhân đức nổi trội, bảo đảm hiệu quả và tính di động của các tu sĩ. Mọi hoạt động được hướng dẫn bằng lòng yêu thực sự dành cho Giáo hội và vâng lời Đức Giáo hoàng vô điều kiện, do đó mà các tu sĩ Dòng Tên có lời khấn thứ tư là đến bất cứ nơi nào ĐGH sai đi để cứu các linh hồn.

Thứ Ba, 29 tháng 7, 2014

Thứ Tư Tuần XVII Thường Niên



Lời Chúa: Người ấy bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
“ Ha-lê-lui-a. Chúa Nói: Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. Ha-lê-lui-a.”
Lạy Thiên Chúa là sức mạnh của con
Bởi vì Ngài là thành lũy bảo vệ con
Đấng đầy lòng yêu mến sẽ phù hộ tôi
Tình thương Ngài con nguyện sẽ tung hô

Chúa là chốn nương mình trong buổi gian truân.

Ngày 30/07 –  Thánh Phêrô Chrysologus, Giám mục Tiến sĩ (406-450?)
     Ngài thường được gọi là Phêrô Kim ngôn hoặc Kim khẩu. Một người hăng hái theo đuổi một mục đích có thể sinh kết quả hơn cả mong đợi, đó là thánh Phêrô Kim ngôn. Ngài làm giám mục giáo phận Ravenna khi còn trẻ tuổi.
     Thời đó có những sự lạm dụng và vết tích của chủ nghĩa ngoại giáo ở giáo phận của ngài, và ngài quyết định đấu tranh. Vũ khí chính của ngài là những bài giảng ngắn gọn, nhiều bài còn lưu truyền tới ngày nay. Các bài giảng đó không chứa đựng tư tưởng cao siêu, nhưng chứa đầy cách áp dụng luân lý, giáo lý và quan trọng về lịch sử. Các bài giảng của ngài có mức chính xác đến nỗi khoảng 13 thế kỷ sau, ngài được ĐGH Bênêđictô XXIII tôn vinh là Tiến sĩ Hội thánh.
     Ngài nổi bật về lòng trung thành với Giáo hội, không chỉ trong những bài giáo huấn mà còn cả trong quyền hành. Một thời gian trước khi qua đời, ngài trở lại Imola, nơi ngài sinh, và cũng là nơi ngài qua đời.

Thứ Hai, 28 tháng 7, 2014

Thứ Ba Lễ Nhớ Thánh Nữ Mác-ta



Lời Chúa: Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa.
“ Ha-lê-lui-a. Chúa Nói: Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo Tôi, sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. Ha-lê-lui-a.”
Kính sợ Chúa đi đoàn dân thánh hỡi
Vì ai kính sợ Người chẳng thiếu thốn chi
Kẻ giàu sang phải bần cùng đói khổ
Còn ai tìm kiếm Chúa chẳng thiếu của gì

Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.

Ngày 29/07 –  Thánh Matta
     Matta, Maria và Ladarô là các bạn thân của Chúa Giêsu. Ngài tới nhà họ với tư cách là khách hơn là người hoán cải các tội nhân như Dakêu hoặc được một người Pharisêu khả nghi tiếp đón không câu nệ hay khách sáo gì. Hai chị em không ngại mời Chúa Giêsu đến khi em trai họ qua đời, mặc dù trở lại Giuđêa vào thời điểm đó hầu như là đã chết chắc.
     Không nghi ngờ, Matta là người năng động. Một lần nọ (x. Lc 10:38-42), bà chuẩn bị bữa ăn cho Chúa Giêsu và bà không ngại khi trách em gái.
     Nhưng các dịp khác, Chúa nhấn mạnh về tính ưu việt của tâm linh: "Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?... Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:25, 33); “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4:4); “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng” (Mt 5:6).
     Vinh dự lớn lao của Matta là câu tuyên xưng đức tin đơn giản mà mạnh mẽ sau cái chết của em trai. “Đức Giêsu nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” Cô Matta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11:25-27).
Ngày 30/07 –  Thánh Phêrô Chrysologus, Giám mục Tiến sĩ (406-450?)

Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2014

Thứ Hai Tuần XVII Thường Niên Năm A



Lời Chúa: Hạt cải trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được.
“ Ha-lê-lui-a. Chúa Cha đã tự ý dùng lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người. Ha-lê-lui-a.”
Thiên Chúa là Núi Đá sinh ra ngươi
Ngươi lại coi thường Đấng đã sinh ra ngươi
Chúa phán. Ta sẽ ẩn mặt không nhìn chúng
Những đứa con chẳng chút tín trung

Thờ những thần hư ảo mà trêu giận Ta.


Ngày 28/07/1821 – 1858 Giám Mục Dòng Đaminh
Thánh Giuse Melchior Garcia Sampedro Xuyên Tử Đạo.
* Phác họa một chân dung
Thánh Giuse Sampedro Xuyên với 37 tuổi đời, chín năm truyền giáo, ba năm Giám mục (hai năm làm Giám mục phó), những con số tương đối khiêm tốn, nhưng sự nghiệp của thánh nhân thật lẫy lừng vì ngài đảm nhiệm một giáo phận lớn nhất khi đó (154.000 người) và là giáo phận chịu bách hại nặng nề nhất. Hơn nữa, cuộc đời ngài mãi mãi là mẫu gương sáng ngời của một người luôn sống có lý có tình, trung thành từ những việc nhỏ, khắc khổ hãm mình, nhiệt tâm truyền giáo, chuyên cần cầu nguyện và đặc biệt là, lòng sùng kính Đức Mẹ.
* Tuổi xuân đầy hứa hẹn
Giuse Melchior Garcia Sampedro sinh ngày 29. 04.1821 tại Sampedro de Arrojo, tỉnh Oviedo, Tây Ban Nha. Gia đình cậu tuy thuộc dòng dõi quý tộc, nhưng đã sa sút đến chỗ nghèo khổ. Ngay từ nhỏ, cậu Melchior đã bộc lộ khuynh hướng đạo đức của mình. cậu thích tụ tập những em nhỏ để dạy đọc kinh thánh. Trong giờ đọc kinh ban tối ở gia đình, cậu sốt sắng nhận phần xướng kinh, và nghiêm trang quỳ suốt buổi kinh.
Năm 12 tuổi, Sampedro có ý xin đi tu làm linh mục. Cha mẹ cậu tuy nghèo nhưng vẫn vui vẻ dành dụm gởi cho con theo học tiếng Latinh với tu sĩ Alvarez, để tiết kiệm cho gia đình, cậu quyết định tự nguyện đi bộ mỗi ngày đến trường. Những ngày nghỉ, cậu về giúp song thân trong việc đồng áng. Năm 1835, cậu ghi tên vào đại học Oviedo. Để giải quyết khó khăn kinh tế, cậu phải xin dạy học tư gia và phải thường xuyên dùng sách mượn. Nhờ chăm chỉ, cậu đạt thành quả cao trong các kỳ thi.
Từ năm 1842, tuy vẫn còn học, thầy Sampedro đã được mời làm giáo viên dạy văn chương, La ngữ và âm nhạc tại trường San Jose. Năm 1844, khi đã tốt nghiệp triết học và thần học, thầy được chọn làm giáo sư phụ tá dạy lý luận cho các tân sinh viên. Để chia sẻ với hoàn cảnh khó khăn của gia đình, mỗi kỳ nghỉ, thầy đều trở về quê phụ giúp cha làm ruộng. Khi học sinh tỏ vẻ ngạc nhiên, thầy nói : "Không có việc nào làm mất danh dự, nếu nó không trái với ý Chúa. chính Chúa trên trời cũng đã chọn sinh ra nơi hang đá và nằm trong máng cỏ".
Ngoài ra trong các kỳ nghỉ hè, thầy Sapedro vẫn dạy giáo lý cho các em thiếu nhi để chuẩn bị lãnh nhận các bí tích. Dân chúng trong vùng tỏ vẻ mến phục thầy và quen gọi là "ông cầu nguyện", vì thời gian dài" ông cầu nguyện" quỳ trước Thánh Thể cũng như tập quán thầy giữ suốt đời là đọc và suy niệm sốt sắng 15 mầu nhiệm Mân Côi mỗi ngày.

* Tu sĩ thuyết giáo
Thế nhưng thầy Sampedro chưa thấy vậy là đủ, thầy cảm thấy Chúa kêu gọi mình hiến thân cho Ngài một cách trọn vẹn hơn trong việc truyền giáo cho lương dân. Thầy xin vào tỉnh dòng Đaminh Mân Côi để loan báo tin mừng ở Viễn Đông, dù gia đình phản đối mãnh liệt, dù lời ngăn đe và nước mắt, thầy đã cương quyết từ bỏ chức giáo sư, đến Ocana, trung tâm huấn luyện của tỉnh dòng. Thầy lãnh tu phục ngày 16.08.1845 khi đã 24 tuổi. Ngày 18.08.1846, thày tuyên khấn trọng thể trong dòng Đaminh.
Vì đã mãn khóa thần học ở Oviedo, bấy giờ thầy Sampedro chuẩn bị lãnh các chức thánh và thụ phong linh mục ngày 29.05.1847 tại Madrid, rồi ngày 06.06 vị tân linh mục dâng thánh lễ mở tay ở Ocana. Chín tháng sau, cha Sampedro từ Cadiz đi theo tàu Victoria cùng bốn bạn đồng hành sang Manila ngày 25.07.1848 nhằm lễ thánh Giacôbê. Khi đến nơi, Bề trên đã xếp đặt để cha phụ trách khoa triết lý cho trường đại học Santo Tomas, nhưng cha xin phép trình bày ý nguyện đi truyền giáo ở Việt Nam, và Bề trên đã chấp thuận.
Chỉ ba tháng sau, cha đáp tàu đến Macao, rồi đến Đông Xuyên ngày 28.02.1848 đem theo hai sắc lệnh của Tòa Thánh bổ nhiệm hai Đức cha Hermosilla Liêm và Marti Gia coi sóc hai giáo phận Đông và Trung mới được phân chia. Sau một thời gian học hỏi kinh nghiệm với vị linh mục lão thành Hermosilla, cha Sampedro được ngài đặt tên mới là Xuyên.
Sau đó, Đức cha Liêm gửi cha đến Nam Am học tiếng Việt và phục vụ cho đến tháng 03 năm 1850 thì được Đức cha Sanjurjo An đặt làm Giám đốc chủng viện ở Cao Xá. Tháng 07 năm đó, cha được làm đại diện Bề trên phụ tỉnh, và tháng 08.1852 thì nhận chức Bề trên phụ tỉnh, chu toàn trách nhiệm giáo dục của mình, cha Sampedro còn nêu gương cho các chủng sinh về đời tông đồ truyền giáo. Cha giữ luật chay tịnh, hãm mình theo luật dòng, mặc áo nhặm và gia tăng nhiều việc hy sinh khác. Ngoài ra, cha còn xuất bản nhiều tập sách nhỏ truyền bá đức tin, và đi giảng cho lương dân. Đức cha An xác nhận cả một họ đạo mới thành lập gồm 54 gia đình, 500 tín hữu ở gần Cao Xá là kết quả lòng nhiệt thành của cha bề trên Sampedro Xuyên.
* Giám mục trong cơn bách hại
Tháng 08.1852, Đức cha Sanjurjo An lên kế vị Đức cha Marti Gia (qua đời ngày 26.08). Vì giáo phận quá đông, ngài xin phép Tòa thánh để chọn Sampedro làm Giám mục phụ tá hiệu tòa Tricomia. Lễ phong chức được cử hành rất trọng thể ngày 16.9.1855 tại Bùi Chu, với sự hiện diện của hai Giám mục, 49 linh mục và rất đông giáo hữu. Trong chức vụ mới, Đức cha Sampedro Xuyên càng nhiệt thành hơn với việc truyền bá đức tin. Trong hoàn cảnh nạn dịch lan tràn, việc rửa tội cho trẻ em ngoại đạo sắp chết gia tăng rất nhanh. Chỉ trong năm 1855 được 35.349 em được rửa tội.
Dầu hoàn cảnh khó khăn, Đức cha Xuyên vẫn lén lút đi thăm các họ đạo, và phải thi hành việc phục vụ hầu hết vào ban đêm. Tháng 5.1857, khi Đức cha An bị bắt, Đức cha Xuyên tìm mọi cách để đưa ngài ra, nhưng việc chưa thành thì Đức cha An đã bị xử tử vào ngày 20.07.
Cuộc bách hại ngày càng gia tăng. Quan quân triệt hạ các nhà thờ Bùi Chu, Lục Thủy, Phú Nhai, bệnh viện, cô nhi viện và các chủng viện. Tổng đốc Nguyễn Đình Tân hăng hái quyết lùng bắt hết các Giám mục, linh mục trong khu vực của ông. Thủ cấp của Đức cha Xuyên được treo giá cao nên khắp nơi đều có người rình bắt ngài.
Về phần Đức cha, sợ giáo phận có ngày mất chủ chăn, đã dùng quyền Tòa Thánh để chọn cha Berrio Ochon Vinh làm Giám mục phụ tá có quyền kế vị. Lễ tấn phong âm thầm có một không hai cho vị Giám mục "gậy tre mũi giấy" này đã được cử hành trong một nhà giáo hữu ngày 13.06.1858 ở Ninh Cường.
Điều hành giáo phận trong những ngày khó khăn, cuộc sống của Đức cha Xuyên nổi bật về lòng đạo đức và tinh thần cầu nguyện. Ngài thường tự xưng là "kẻ tội lỗi khốn khổ !" Ngài thường khuyên người khác : "hãy nhìn khuyết điểm của tha nhân để sửa mình và sẵn sàng lắng nghe ý kiến của mọi người".
Đức cha vẫn luôn mặc áo nhặm và suy gẫm chuỗi Mân Côi, mỗi ngày suy niệm về Đức Mẹ Sầu Bi, Nữ Vương các Thánh Tử Đạo, mẫu gương hiệp thông với những đau khổ của Chúa. đặc biệt vì tôn kính Đức Mẹ, ngài luôn khởi đầu thư từ và các buổi nói chuyện bằng lời chúc tụng AVE MARIA.
* Ngục tù và án lăng trì
Sau lễ tấn phong cho vị Giám mục phụ tá, Đức cha Xuyên đi lên Quần Cống, rồi qua Thôn Đông vài ngày, và đến Kiên Lao tạm trú nhà ông trùm Khanh. Ngày 08.07.1858 quân lính đã vây bắt được ngài và hai chú giúp lễ : Đaminh Nguyễn Tiệp và Mai Hiến. Quan bắt Đức cha mang gông xiềng nặng nề và giải ba cha con lên tỉnh Nam Định.
Sau 20 ngày trong ngục, Đức cha lãnh án lăng trì ngày 28.07.1858. trên đường ra pháp trường Bảy Mẫu, đi sau đám lính đông đảo và lý hình 20 người tuốt gươm trần, Đức cha Sampedro Xuyên một tay cầm sách nguyện, một tay giơ lên ban phép lành cho dân chúng. Tuy nhiên cũng có kẻ lấy bùn ném vào ngài.
Tại pháp trường, hai cậu Tiệp và Hiến đón nhận phép lành của Đức cha, rồi đưa cổ chịu chém. Sau đó, lý hình xô vị Giám mục nằm sấp trên chiếu có phủ vải sẵn, tước hết y phục, chỉ để cho ngài mặc chiếc quần cụt. Rồi họ cột chân tay thật căng vào bốn cọc ở bốn phía, và thêm hai cọc ở dưới nách để nạn nhân khỏi cựa quậy.
Năm lý hình cầm năm cái rìu chờ lệnh quan ám sát ra dấu, lần lượt từng người thi hành nhiệm vụ. Họ chặt từng chân, từng cánh tay rồi mới chặt đầu. Máu tuôn ra đọng lại thành vũng, trong khi vị tử đạo vẫn giữ được vẻ mặt bình tĩnh, không ngừng kêu tên Chúa Giêsu cho đến khi tắt thở.
Mấy phút sau, đám lính mổ bụng ngài, cắt buồng gan giơ lên cao và nói: "Xem này, Gan Tây thật là to", rồi họ chia nhau ăn. Cuối cùng họ đẩy thi thể ngài xuống một hố sâu, lấp đi và muốn cho voi dày xéo nữa. Nhưng họ thúc giục hò la mà đàn voi vẫn không đạp lên hố. Thủ cấp của vị tử đạo sau ba ngày bị bêu nơi công cộng, quân lính băm nát rồi ném xuống sông. Đến sau các giáo hữu đưa thi thể của Đức cha về mai táng tại Phú Nhai. Năm 1888, thi hài ngài được dời về quê hương Oviedo, nhưng tay phải của ngài thì để lại Bùi Chu, và tay trái được đưa về Malina, sau bị thất lạc trong Thế Chiến Thứ Hai vì bom đạn.
Ngày 29.4.1951, Đức Piô XII đã suy tôn Đức cha Giuse Melchior Garcia Sampedro Xuyên lên bậc Chân Phước cùng với Đức cha An và 23 vị tử đạo người Việt Nam. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.


Ngày 28/07 –  Thánh Leopold Mandic, Linh mục (1887-1942)
     Các Kitô hữu Tây phương cố gắng đối thoại nhiều hơn với các Kitô hữu Chính thống giáo có thể thu hoạch hoa trái nhờ lời cầu nguyện của LM Leopold Mandic.
     Ngài là người Croatia, vào Dòng Phanxicô và thụ phong linh mục vài năm sau dù ngài có vài vấn đề về sức khỏe. Ngài không thể nói to để giảng. Suốt nhiều năm ngài chịu đựng chứng viêm khớp nặng, mắt kém và đau bao tử.
     Ngài dạy về các Giáo phụ cho các giáo sĩ trong vài năm, nhưng ngài nổi tiếng về giải tội, có những ngày ngài giải tội 13–15 giờ. Vài vị giám mục tìm đến ngài để được tư vấn tâm linh.
      Ước mong của ngài là đến với các Kitô hữu Chính thống giáo và vận động đoàn kết giữa Chính thống giáo và   Công giáo La mã, nhưng sức khỏe không cho phép ngài làm được điều đó. Ngài thường xuyên nhắc lại lời khấn đến với các Kitô hữu Đông phương, và ngài luôn cầu nguyện cho sự hiệp nhất.
     Khi ĐGH Piô XII nói rằng tội lỗi lớn nhất của thời đại chúng ta là “mất cảm giác về tội”, thánh Leopold đã cảm nhận sâu sắc về tội lỗi và và vững tin vào Ơn Chúa luôn chờ đợi sự hợp tác của con người. Ngài sống nhiều ở Padua, qua đời ngày 30-7-1942 và được phong thánh năm 1982.



                 




Chúa nhật XVII Thường Niên Năm A



Lời Chúa: Người ấy về bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
       Hôm ấy, Đức Giê-su kể cho dân chúng dụ ngôn này: “ Nước Trời giống như chuyện kho báo chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn dấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua lại thửa ruộng ấy.

       “ Nước Trời lại cũng giống, như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”


SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
       Bài Tin Mừng hôm nay. Chúa nói: Nước Trời như một kho báo quý giá, còn mọi của cải trần gian, đều tạm bợ, nên con người khôn ngoan hãy sẵn sàng đổi hết mọi sự, mọi lời lãi thế gian để mua cho được Nước Trời. “Các con hãy tích trữ cho mình kho tàng ở trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6, 20).
       Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh này để nói về Nước Trời. Đó là sứ điệp mà Người muốn  truyền thông cho chúng ta. Chúa dạy chúng ta, Nước Trời phải là một chọn lựa ưu tiên cho những ai muốn nên trọn lành. Cũng như người thương gia quyết định mua thửa ruộng có chôn giấu kho báu và viên ngọc quý có giá trị cao, mà người đón nhận Nước Trời cũng phải chấp nhận hy sinh, có khi phải đánh đổi bằng cả mạng sống mình. Nhưng sự hy sinh ấy không phải là vô nghĩa, vì một khi chúng ta đã được sở hữu Nước Trời làm gia nghiệp thì chúng ta sẽ có tất cả. Chúng ta sẽ có Chúa là Cha, có mọi người là anh chị em, chúng ta sẽ tìm được sự thanh thản trong tâm hồn cùng với niềm vui và hạnh phúc ở đời này và đời sau, lịch sử Giáo Hội nói với chúng ta. Nhờ bí tích Thanh Tẩy, chúng ta đã chọn Chúa là lẽ sống và là gia nghiệp của đời mình. Sự chọn lựa này không chỉ dừng lại ở ngôn từ, cũng không phải chỉ được thực hiện lúc lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, nhưng phải được minh chứng qua đời sống mỗi ngày của chúng ta, thể hiện qua lời nói, tư tưởng và hành động. Đức tin là viên ngọc quý, là kho tàng mà chúng ta phải đánh đổi bằng biết bao cố gắng nỗ lực để giữ gìn. Chúng ta hãy dành cho Ngài một vị trí ưu tiên trong đời sống chúng ta, vì một khi có Chúa trong trái tim và tâm hồn, chúng ta sẽ được Chúa ban mọi điều cần thiết cho cuộc sống.
       Lạy Chúa Giêsu con biết Chúa chính là “viên ngọc quí” nhất trần gian! Chúng con có đổi cả cuộc đời lấy viên ngọc đó cũng không xứng, chúng con cảm tạ Chúa vì mọi thử thách Chúa đã gởi đến cho chúng con. Có những thử thách khá nặng nề đã làm chúng con bàng hoàng kinh sợ, chán ngán cuộc đời. Có khi chúng con đã muốn bỏ cuộc, nhưng rồi qua đó Chúa đã biến đổi cuộc đời chúng con. Kinh nghiệm này giúp chúng con cảm nhận được tình yêu vô cùng khôn ngoan của Chúa, và dạy chúng con trên bước đường đi tới: Hãy biết muốn điều Chúa muốn, yêu điều Chúa yêu, và sống cho Chúa như Chúa đã sống cho chúng con. Xin cho chúng con biết nhìn mọi người, mọi vật và mọi biến cố như Chúa nhìn chúng con trong tinh thần khôn ngoan đích thật. Amen.


Ngày 27/07 –  Chân phước Antôniô Lucci, Giám mục (1682-1752)
     Chân phước Antôniô Lucci là bạn học với thánh Francesco Antonio Fasani. Sau khi CP Antonio Lucci qua đời, thánh Francesco Antonio Fasani đã làm chứng về cuộc sống thánh thiện của CP Lucci.
     CP Antonio Lucci sinh tại Agnone, Nam Ý, một thành phố nổi tiếng về đúc chuông đồng và đồ thủ công bằng đồng, tên rửa tội của ngài là Angelo. Ngài học trường của các tu sĩ Dòng Phanxicô và vào tu dòng này lúc 16 tuổi. Ngài học xong và thụ phong linh mục tại Assisi năm 1705. Ngài học thêm và có bằng tiến sĩ thần học, được bổ nhiệm dạy học ở Agnone, Ravello và Naples.
     Ngài được bầu làm giám tỉnh năm 1718, năm sau ngài được chọn làm giáo sư tại Đại học Thánh Bonaventure College ở Rôma. Rồi ngài được ĐGH Bênêđictô XIII bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Bovino (gần Foggia) năm 1729. ĐGH Bênêđictô XIII giải thích: “Tôi chọn giám mục giáo phận Bovino là một thần học gia xuất sắc và là vị đại thánh”.
     Trong 23 năm làm giám mục, ngài kinh lý các giáo xứ và canh tân Phúc âm sống động trong giáo dân của giáo phận. Ngài dành thời gian để giáo huấn và bác ái. Theo sự thúc giục của bề trên tổng quyền Dòng Phanxicô, ngài viết một cuốn sách về các thánh và các chân phước trong 200 năm đầu của Dòng Phanxicô. Ngài được phong chân phước năm 1989. Năm 1992, bạn ngài là Francesco Antonio Fasani được phong thánh.