Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2016

Chúa Nhật IV Thường Niên Năm C

Lời Chúa: Như các ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa, Đức Giê-su không phải chỉ được sai đến với dân Dothái mà thôi.
     Hôm ấy, tại hội đường Na-da-rét, sau khi đọc sách ngôn sứ I-sai-a, Đức Giê-su bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
     Họ bảo nhau: "Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?" Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!" Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
      Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đon. Cũng vậy, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri-a thôi".

      Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi - họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.

SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
      Bài Tin Mừng hôm nay được nối tiếp với Chúa nhật III trong khung cảnh Chúa Giêsu về thăm quê hương, nhưng mang nội dung nhấn mạnh tới một khía cạnh khác. Nếu Chúa nhật III chúng ta dừng lại ở sự ngạc nhiên, thán phục của bà con đồng hương, thì hôm nay chúng ta thấy cuộc tranh luận gay gắt giữa Chúa Giêsu và dân chúng thành Nagiarét, và kết cục là những người đồng hương muốn giết Chúa bằng cách xô Người xuống vực sâu vì tức giận.
     Trong cuộc sống chúng ta đã tiếp nhận Đức Kitô, nhưng đời sống người Kitô hữu của chúng ta chưa thực sự được đổi mới. Vì thế một câu hỏi được đặt ra, chúng ta đã thật sự tiếp nhận Chúa chưa? Có thể là đã tiếp nhận, nhưng chỉ theo hình thức bên ngoài mà thôi, vì chúng ta vẫn còn giữ những thành kiến, lối suy nghĩ, những nỗi sợ hãi, và những ước muốn xác thịt của chúng ta. Cho nên, thánh Phaolô trong bài đọc 2 dạy chúng ta rằng: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được.”     
      Ước gì qua lời Chúa hôm nay xin cho mọi người chúng ta biết mở rộng con tim để tha thứ, để yêu thương và biết chia sẻ vật chất cũng như tinh thần cho mọi người xung quanh chúng ta, nhất là những người nghèo khổ trong xã hội để cùng nhau sống chan hòa trong tình yêu thương của Chúa.  Amen. 

 Ngày 31/01 – Thánh Gioan Bosco, Linh mục (1815-1888)
Gioan Bosco sinh ngày 16-08-1815 tại Berchi (Asti, Torino, Ý).
Lý thuyết giáo dục của thánh Gioan Bosco được dùng nhiều trong các trường học ngày nay. Đó là một hệ thống bảo vệ, phản đối hình phạt thể lý và đặt học sinh trong môi trường tránh dịp tội. Ngài khuyên thường xuyên lãnh nhận bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Ngài kết hợp việc đào tạo giáo lý và hướng dẫn, tìm cách kết hợp đời sống tâm linh với công việc, học và chơi.
Hồi nhỏ được khuyến khích làm linh mục nên ngài có thể làm việc với các em trai, ngài thụ phong linh mục năm 1841. Việc phục vụ người trẻ bắt đầu khi ngài gặp một đứa trẻ mồ côi và hướng dẫn cậu bé chuẩn bị rước lễ lần đầu. Rồi ngài tụ họp các bạn trẻ lại và dạy giáo lý.
Sau khi làm tuyên úy ở một nhà tế bần (hospice) dành cho ác em gái lao động, ngài mở Nhà nguyện thánh Phanxicô Salê cho các em trai. Vài nhà tài trợ giàu có và uy thế đã góp tiền để ngài có thể mở xưởng cho các em trai đóng giày và may. Năm 1856, Khánh lễ viện đã có tới 150 em trai và có nhà in để xuất bản các tập sách giáo lý và tôn giáo. Mối quan tâm của ngài về việc hướng nghiệp và xuất bản khiến ngài trở thành thánh bảo trợ giới trẻ học việc và các nhà xuất bản Công giáo. Danh tiếng giảng dạy của thánh Gioan lan nhanh. Năm 1850, ngài đã đào tạo được những người hỗ trợ ngài giảm bớt những khó khăn trong việc đào tạo các linh mục trẻ. Năm 1854 ngài và những người theo ngài cùng tụ họp lại dưới sự bảo trợ của thánh Phanxicô Salê.
Nhờ ĐGH Piô IX khuyến khích, thánh Gioan tụ họp 17 anh em và lập dòng Salêdiêng năm 1859. Hoạt động của dòng tập trung vào việc giáo dục và truyền giáo. Sau đó, ngài lập dòng nữ Salêdiêng để giúp đỡ các cô gái. Ngài qua đời lúc 4 giờ 45 ngày 31-01-1888 tại Valdocco, Torino, Ý, và được an táng chiều ngày 6-2-1888 tại Valsalice, Ý. Nhân dịp sắp phong chân phước, mộ ngài được khai quật ngày 16-05-1929. Lạ thay, xác ngài không có gì lạ thường và vẫn đầy đủ trọn vẹn.
ĐGH Piô XI tôn phong chân phước cho ngài ngày 02-06-1929 tại Vatican (lúc này chân phước Philip Rrinaldi là Bề trên cả). Ngày 09-06-1929, thánh quan Don Bosco được rước về Valdocco. Cũng chính ĐGH Piô XI tôn phong hiển thánh cho ngài ngày 01-04-1934 tại Vatican, đúng ngày đại lễ Phục sinh và kết thúc Năm thánh Cứu độ.

Ngày 30/01-1780-1860 Thánh Tôma Khuông Linh mục dòng Đaminh Tử đạo.

Cha Thánh Tôma Khuông, Sinh năm 1780 tại Nam Hào, Hưng Yên, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 30-01-1860 tại Hưng Yên dưới đời vua Tự Ðức. Ngày 29-4-1951 cùng với 24 vị tử vì đạo khác tại Việt Nam, cha Tôma Khuông được Đức Piô XII tuyên Chân Phúc. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II tuyên ngài vào hàng ngũ Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 30-01.
* Vì Chúa bỏ vinh sang.
Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy không lạ gì mẫu gương của thánh Phanxicô thành Assisi hay thánh Tôma thành Aquinô đã từ bỏ dòng dõi quí tộc giàu sang để vâng nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, đã theo gương Đức Kitô, Thầy Chí Thánh, Đấng Chủ Tể muôn loài chấp nhận trở nên nghèo khó không chốn nương thân để loan báo tin mừng cứu rỗi của Thiên Chúa.

Thánh Tôma Khuông cũng vậy, ngài đã quên đi dòng dõi quyền quý sang trọng, để theo tiếng Chúa kêu gọi và trở thành chứng nhân cho Đức Kitô, chứng nhân cho một tôn giáo mới mẻ đối với dân tộc Việt Nam, một tôn giáo bị miệt thị và chịu bách hại nặng nề. Quả thật, chỉ có Thiên Chúa mới khiến cha hy sinh được như thế. Và cũng thật quý báu biết bao tấm lòng của cha đã sẵn sàng đáp lại tiếng kêu gọi đó, đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình cho tình yêu Thiên Chúa.

* Phản đối bạo động.
Tôma Khuông sinh khoảng năm 1780 (thời Trịnh Nguyễn) tại làng Nam Hòa xứ Tiên Chu, tỉnh Hưng Yên. Con đường danh vọng rộng mở cho cậu bé thông minh xuất sắc này, vì cha cậu đã từng làm Tuần Phủ ở Hưng Yên. Nhưng cậu đã nghe theo tiếng gọi linh thiêng và xin vào Nhà Đức Chúa Trời. Sau đó cậu theo học tại chủng viện và được thụ phong linh mục.
Trong trách nhiệm coi sóc các linh hồn, cha Khuông nổi tiếng là một linh mục khôn ngoan, thánh thiện, khéo giao thiệp và nhiệt thành với xứ vụ truyền giảng Phúc Âm. Sống trong giáo phận do Dòng Đaminh đảm trách, cha Khuông muốn liên kết sâu xa hơn với dòng, cha đã gia nhập dòng ba Đaminh và cổ động nhiều giáo hữu cùng tham gia để thánh hóa đời sống mỗi ngày.
Trải qua ba thời bách hại của các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, cha Tôma Khuông đã khôn khéo thân thiện với quan chức địa phương để tiếp tục thi hành việc mục vụ. Nhiều lần cha bị bắt giữ, nhưng nhờ những quan hệ này, cha được trả tự do. Tuy nhiên từ năm 1858, cuộc bách hại của vua Tự Đức gia tăng mãnh liệt, công việc của cha gặp nhiều khó khăn hơn. Áp lực của quân Pháp đã khiến vua Tự Đức tức giận và nghi ngờ Công Giáo tiếp tay với thực dân, nên thẳng tay đàn áp họ. Một vài làng Công Giáo có tổ chức một số thanh niên để tự vệ trước sự càn quét của quân lính nhà vua. Cha Khuông khi đó đã gần 80 tuổi, hoàn toàn không hưởng ứng chủ trương này. Năm 1859, thấy một giáo dân Cao Xá tổ chức võ trang, cha liền ngăn cản và quyết định lánh sang đại phận Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng). Quyết định này khiến cha bị bắt và được lãnh phúc tử vì đạo.
Khi cha đến đầu cầu làng Trần Xá, cha thấy quân lính đã đặt sẵn ở đó một Thánh Giá buộc mọi người đi qua phải đạp lên. Là một linh mục của Chúa Giêsu Kitô, cha nhất định quay lưng trở lại tìm lối đi khác. Thái độ dứt khoát đó, khiến quân lính nhận ra và chặn cha lại. Khi cha khẳng khái từ chối việc bước qua Thánh Giá, lính liền bắt trói cha cùng với người tín hữu đi theo cha.
Sau 15 ngày giam giữ, cha Tôma Khuông và bốn giáo hữu khác có địa vị, được áp giải tới quan Tổng đốc xét xử. Quan tìm mọi cách ép buộc cha làm nhân chứng tố cáo: những Kitô hữu ở Cao Xá thông đồng với tàu Pháp – Tây Ban Nha đang bỏ neo ngoài cửa biển, âm mưu nổi loạn chống lại nhà vua. Cha Tôma thẳng thắn trình bày lập trường của Giáo Hội: "Đạo Công Giáo không những cấm các tín hữu chống đối chính quyền mà còn khuyến khích họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương được an ninh thịnh vượng". Bấy giờ quan không nói gì đến vấn đề này nữa, chỉ bắt cha bỏ đạo, bước qua Thánh Giá và yêu cầu cha khuyên các tín hữu khác làm như vậy để được tự do về nhà. Khi đó người tôi trung của Chúa trả lời: "Tôi nay đã 80 tuổi rồi, lại là Linh Mục Công Giáo, tôi luôn luôn nhắc nhở các tín hữu trung thành giữ Đạo Thánh Chúa. Giờ đây nếu tôi khuyên họ chối đạo thì tôi thật bất xứng và chẳng đáng làm linh mục. Tôi và các bạn tôi không mong ước gì hơn là được hy sinh mạng sống vì đạo Chúa".

* Thánh Giá và vinh quang.
Lòng khao khát mong mỏi trên của vị anh hùng đức tin đã được thể hiện. Án trảm quyết do quan Tổng đốc đệ vào kinh được vua Tự Đức chuẩn y. Và ngày 30-1-1860 cha Tôma Khuông bị điệu ra pháp trường Hưng Yên. Trên đường tới đồi Canvê của mình, mọi người thấy vị cha già khả kính chống cây gậy mà cha đã cẩn thận cột thêm một thanh ngang cho giống hình Thánh Giá, bước đi chậm rãi. Cha vui vẻ chào giã biệt những người đang ngậm ngùi thương tiếc tiễn đưa.
Cây Thánh Giá, biểu tượng suốt đời cha đã tin tưởng và công bố; cây Thánh Giá mà cha không bao giờ giày đạp cho dù phải chịu muôn nỗi gian khổ và cả cái chết, thì giờ đây, với cách biểu hiện đơn giản đó, cha muốn nói với mọi người rằng : cho đến phút cuối cùng của cuộc đời, Thánh Giá vẫn mãi mãi là niềm an ủi và là chỗ dựa vững chắc cho Kitô hữu. Đến nơi xử, cha Khuông quỳ gối trang nghiêm cầu nguyện trước cây Thánh Giá đó rồi cuối đầu lãnh nhận lưỡi gươm đem lại vinh phúc ngàn thu.
Ngày 29-4-1951 cùng với 24 vị tử vì đạo khác tại Việt Nam, cha Tôma Khuông được Đức Piô XII tuyên Chân Phúc. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên ngài vào hàng ngũ các bậc Hiển thánh.

Thứ Bảy Tuần III Thường Niên Mc 4,35-41.

Lời Chúa: Người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh.
Ha-lê-lui-a. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời. Ha-lê-lui-a.
Lạy Thiên Chúa con thờ là Thiên Chúa cứu độ,
xin tha chết cho con, con sẽ tung hô Ngài công chính.
Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con,

cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.

Ngày 30/01 – Thánh Hyacintha Mariscotti (1585-1640)
Hyacintha chấp nhận các tiêu chuẩn của Thiên Chúa hơi trễ. Xuất thân từ một gia đình quí tộc ở gần Viterbo, bà vô dòng nữ ở địa phương theo Luật Dòng Ba. Tuy nhiên, bà tự lo đủ thức ăn, quần áo và những đồ dùng khác để sống sung túc ở giữa các chị em sống khắc khổ.
Một lần Hyacintha bị bệnh nặng nên phải đưa Mình Thánh tới phòng riêng. Thấy bà sống quá thoải mái, linh mục khuyên bà sống khiêm nhường hơn. Hyacintha đã bỏ hết những trang phục và những tiện nghi khác, sống rất hãm mình ép xác, và sẵn sàng làm những việc hèn hạ nhất trong tu viện. Bà tận hiến cho sự đau khổ của Đức Kitô, sự ăn năn của bà trở nên nguồn cảm hứng cho các chị em trong tu viện. Bà được phong thánh năm 1807.

Thứ Năm, 28 tháng 1, 2016

Thứ Sáu Tuần III Thường Niên Mc 4,26-34.

Lời Chúa: Một người vãi hạt giống rồi ngủ, và hạt giống mọc lên trong khi người ấy không biết.
Ha-lê-lui-a. Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen cha, ví Cha đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Ha-lê-lui-a.
Xin cho con được nghe tiếng reo mừng hoan hỷ,
Để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng.

Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm.

Ngày 29/01 – Tôi tớ Chúa Juniper, Tu sĩ (qua đời năm 1258)
Thánh Phanxicô nói về tu sĩ thánh thiện Juniper: “Anh em thân mến, ước gì tôi có cả một khu rừng gồm những Juniper như vậy”. Chúng ta không biết nhiều về Juniper trước khi ngài gia nhập dòng năm 1210. Thánh Phanxicô sai ngài đi mở các “tu sở” ở Gualdo Tadino và Viterbo. Khi thánh Clara hấp hối, tu sĩ Juniper đã an ủi bà. Ngài tận hiến cho cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và ngài có tiếng là sống giản dị.
Có vài câu chuyện về Juniper trong cuốn Little Flowers of St. Francis(Những bông hoa nhỏ của thánh Phanxicô) cho thấy lòng đại lượng của ngài. Có lần Juniper chăm sóc một bệnh nhân nam, người này rất thèm ăn giò heo. Tu sĩ này đến một cánh đồng gần đó bắt một con heo và cắt lấy một chân, rồi đem về nấu cho bệnh nhân kia ăn. Chủ nhân của con heo tức giận và lập tức đến gặp bề trên của Juniper. Khi thánh Juniper nhận ra lỗi mình, ngài hết lòng xin lỗi. Rồi ngài còn có thể xin chủ nhân cho con heo đó để các tu sĩ ăn!
Lần khác, thánh Juniper được lệnh không lấy quần áo của mình cho những người thiếu đồ mặc mà ngài gặp trên đường. Muốn vâng lời bề trên, có lần thánh Juniper nói với một người đàn ông nghèo khó rằng ngài không thể cho người đàn ông đó, nhưng ngài không ngăn cản người đàn ông kia lấy áo của ngài. Lúc đó, các tu sĩ biết rằng không để lại gì để thánh Juniper có thể cho đi. Ngài qua đời năm 1258 và được an táng tại nhà thờ Ara Coeli ở Rôma.

Thứ Tư, 27 tháng 1, 2016

Thứ Năm Tuần III Thường Niên Mc 4,21-25.

Lời Chúa: Mang đèn tới để đặt trên đế. Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong đấu ấy cho anh em.
Ha-lê-lui-a. Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là anh sáng chỉ đường con đi. Ha-lê-lui-a.
Vì Đức Chúa đã chọn Xi-on,
đã thích lấy chốn này làm nơi Người ngự.
Người phán: Đây là chốn Ta nghỉ ngơi đến muôn đời,

Ta sẽ ngự nơi này, vì Ta ưa thích.

Ngày 28/01 – Thánh Thomas Aquinas, Linh mục Tiến sĩ (1225-1274)
Theo sự công nhận toàn cầu, thánh Thomas Aquinas là phát ngôn viên xuất sắc của truyền thống Công giáo về tín lý và mạc khải. Ngài là một trong những thầy dạy vĩ đại của Giáo hội Công giáo thời Trung cổ, được tôn vinh là Tiến sĩ Giáo hội và Tiến sĩ Thiên thần. Thomas thông thái nhưng rất khiêm nhường.
Là con lãnh chúa Aquinas thuộc hoàng tộc Hohenstanfen nhưng Thomas không thích thế quyền. Lúc 5 tuổi, ngài được đưa vào dòng Benedict ở Monte Cassino vì cha mẹ ngài hy vọng ngài chọn cách sống đó và sau sẽ làm Tu viện trưởng để làm vẻ vang dòng dõi quí tộc. Năm 1239, ngài được gởi tới Naples để hoàn tất việc học. Tại đó ngài say mê triết học Aristote.
Năm 1243, Thomas bỏ kế hoạch của gia đình và gia nhập dòng Đa-minh, mẹ ngài rất thất vọng. Mẹ ngài cho người bắt ngài về và giam biệt lập ở nhà hơn 1 năm. Gia đình còn thuê gái điếm vào quyến rũ Thomas nhưng ngài đã lấy cây củi đang cháy trong lò sưởi mà đuổi đi. Ngài vẽ hình Thánh giá trên tường và qùy xuống cầu nguyện. Sau 1 tháng, ả gái điếm đành chịu thua. Người chị thương em nên giúp Thomas trốn khỏi nhà.
Khi được tự do, ngài đi Paris rồi tới Cologne và hoàn tất việc học với thánh Albert Cả. Ngài tốt nghiệp khi mới 20 tuổi và làm giáo sư trẻ tại Paris. Ngài sống trong dinh của Giáo hoàng Urban IV, hướng dẫn các trường dòng Đa-minh ở Rome và Viterbo, tranh luận với các tu sĩ khất thực, tranh luận với một số tu sĩ dòng Phan-xi-cô về thuyết của Aristote, và chống lại giáo thuyết Manich, kể cả phái Averroist. Ngài thường suy tư đến ngây người nên bị gán cho biệt danh “con bò câm”. Giáo sư Albert biết lực học của Thomas nên nói trước lớp: “Hãy học theo Thomas trong cách suy nghĩ. Đó là một con bò, nhưng tiếng rống của nó sẽ vang dội khắp thế giới”. Quả thật, lời tiên báo đó của thánh Albert Cả đã hiện thực.
Danh tiếng ngài vang dội, nhiều người đổ xô đến xin ý kiến. Người ta hỏi:
    - Theo giáo sư, nhàn rỗi là gì?
    - Là cái búa mà kẻ thù bổ xuống đầu bạn.
    - Cái gì tạo ra sức mạnh của giáo sư: Kinh nguyện, việc làm hay ý chí?
    - Kinh nguyện. Ai không cầu nguyện thì như người lính ra trận không có vũ khí.
    - Làm thế nào để được cứu độ?
    - Phải khiêm nhường.
Khi ở Ý, ĐGH Urban IV giao cho ngài nhiều trọng trách – như giảng thuyết cho người Do thái, và muốn trao mũ gậy giám mục cho ngài nhưng ngài từ chối để được dạy học và lo việc cho nhà dòng. Tương truyền Thomas đã đàm đạo với Đức Mẹ, các thánh và cả với Chúa Giêsu nữa. Có lần Chúa Giêsu hỏi: “Sách con viết, Ta rất hài lòng. Con muốn được thưởng gì?”. Thomas đáp: “Con chỉ muốn được yêu mến Chúa mà thôi”.
Công đóng góp to lớn của ngài cho Giáo hội Công giáo là những sách ngài viết, đặc biệt là bộ Tổng luận Thần học (Summa Theologiae) được viết từ năm 1266–1273. Sự hiệp nhất, sự hài hòa và sự liên tục của đức tin và lý lẽ, của kiến thức con người tự nhiên và được mạc khải, thấm sâu vào những gì ngài viết. Có lẽ người ta hy vọng Thomas, với tư cách là người-của-phúc-âm, trở thành người bảo vệ hăng hái của chân lý mạc khải. Ngài hiểu biết sâu rộng đủ để thấy trật tự tự nhiên đến từ Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, và thấy lý lẽ là tặng phẩm từ trời rất được yêu mến.
Nhưng tác phẩm cuối cùng của ngài bộ Tổng luận Thần học, giải quyết toàn bộ Thần học Công giáo, lại chưa hoàn tất. Ngài ngừng viết tác phẩm này sau khi cử hành thánh lễ ngày 6/12/1273. Khi được hỏi tại sao ngài ngừng viết thì ngài nói: “Tôi không thể tiếp tục… Những gì tôi đã viết có vẻ như rơm rác so với những gì tôi nhìn thấy và những gì tôi được mạc khải”.
Ngài được ĐGH Grêgôriô mời đến dự công đồng Lyon. Ngài bị bệnh và qua đời trên đường đi ngày 07/03/1274, thọ 49 tuổi. Ngài được phong thánh năm 1323 và được phong Tiến sĩ Hội thánh năm 1567. ĐGH Leo XIII đã đặt ngài là bổn mạng các nhà thần học và các trường học Công giáo.

Thứ Ba, 26 tháng 1, 2016

Thứ Tư Tuần III Thường Niên Mc 4,1-20.

Lời Chúa: Người gieo giống đi ra gieo giống.
Ha-lê-lui-a. Hạt giống là lời Thiên Chúa, người gieo giống là Đức Ki-tô. Ai tuân giữ lời Người sẽ muôn đời tồn tại. Ha-lê-lui-a.
Ta sẽ yêu thương Người đến muôn thuở
và thành tín giữ giao ước với Người.
Ta cho dòng dõi Người muôn năm tồn tại,

cho ngai vàng trường cửu tựa trời xanh.

Ngày 27/01 – Thánh Angela Merici, Trinh nữ (1470?-1540)
Angela nổi bật về việc thành lập hội giáo dục đầu tiên cho các phụ nữ trong giáo hội mà ngày nay gọi là “Tu hội đời” (Secular Institute) của các nữ tu. Hồi trẻ, Angela nhập Dòng Ba Phanxicô (Third Order of Francis) và sống khổ hạnh, không có gì, thậm chí giường cũng không có, như thánh Phanxicô vậy. Thánh nhân sợ hãi khi thấy trẻ em nghèo bị bỏ rơi, cha mẹ chúng không thể hoặc không dạy dỗ chúng những điều về đạo. Thái độ thu hút và ngoại hình dễ nhìn của Angela đã bổ sung phẩm chất lãnh đạo của thánh nhân. Nhiều người cùng thánh nhân giáo dục các bé gái ở vùng lân cận.
Thánh nhân được mời gọi sống với một gia đình ở Brescia, tại đó thánh nhân đã thấy thị kiến để có ngày thánh nhân thành lập tu hội. Công việc của thánh nhân tiếp tục và được biết đến nhiều. Thánh nhân trở thành trưởng nhóm của những người cùng lý tưởng. Thánh nhân hăng hái dùng cơ hội đến Thánh Địa. Khi đến đảo Crete, thánh nhân bị mù. Bạn bè của thánh nhân muốn trở về nhưng thánh nhân xin mọi người tiếp tục đi hành hương, và thánh nhân đã sốt sáng kính viếng Mộ Thánh như thể còn sáng mắt vậy. Trên đường về, khi cầu nguyện trước Thánh Giá, thánh nhân sáng mắt trở lại ngay tại nơi mà thánh nhân đã bị mù.
Lúc 57 tuổi, thánh nhân tổ chức một nhóm 12 cô gái giúp dạy giáo lý. Bốn năm sau, nhóm này tăng lên 28 người. Thánh nhân làm họ thành Đội Quân Thánh Ursula (Company of St. Ursula), bảo trợ các trường đại học thời Trung cổ và được coi là vị lãnh đạo phụ nữ, với mục đích tái Kitô hóa đời sống gia đình qua việc giáo dục Kitô giáo vững chắc đối với các người vợ và người mẹ tương lai. Các thành viên tiếp tục sống tại gia, không tu phục và không lời khấn, qua Nội quy ban đầu buộc giữ thanh tịnh, thanh bần và thanh tuân. Ý tưởng về hội giáo dục phụ nữ còn mới lạ và cần thời gian để phát triển. Cộng đoàn hiện hữu như Tu hội giữa đời đến vài năm sau khi thánh Angela qua đời.

Thứ Hai, 25 tháng 1, 2016

Thứ Ba Thánh Timôthêô và Thánh Titô Giám Mục Lễ Nhớ Lc 10,1-9.

Lời Chúa: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.
Ha-lê-lui-a. Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị gian cầm biết họ được tha. Ha-lê-lui-a.
Hát lên mừng Chúa một bài ca mới.
hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu !
Hát lên mừng Chúa, chúc tụng thánh Danh !

Hãy kể cho muôn dân được biết những kỳ công Chúa làm.

Ngày 26/01 – Thánh Timôthê và Titô, Giám mục
* Thánh Timôthê (qua đời năm 97?): Điều chúng ta biết qua Tân ước về cuộc đời thánh Timôthê có vẻ như cuộc đời của một vị giám mục bị phiền nhiễu hiện đại. Ngài vinh dự là tông đồ bạn của thánh Phaolô, cùng chia sẻ việc rao giảng Phúc âm và đồng lao cộng khổ.
Thánh Timothê có cha là người Hy lạp và mẹ là người Do thái, tên Eunice. Là kết quả của cuộc hôn nhân khác chủng tộc, ngài bị người Do thái coi là bất hợp pháp. Bà Lois, bà nội (ngoại) của ngài, là người đầu tiên trở thành Kitô hữu. Thánh Timôthê là người được thánh Phaolô cảm hóa vào khoảng năm 47 và được làm công việc tông đồ với thánh Phaolô. Ngài ở với thánh Phaolô khi thành lập giáo đoàn Côrintô. Trong 15 năm làm việc với thánh Phaolô, ngài là một trong số bạn bè trung tín nhất của thánh Phaolô. Ngài được thánh Phaolô sai đi làm nhiều nhiệm vụ khó khăn – thường gặp nhiều phiền toái ở các giáo đoàn địa phương mà thánh Phaolô đã thành lập.
Thánh Timôthê ở với thánh Phaolô tại Rôma trong khi nhà bị chiếm giữ. Có một thời gian chính thánh Timôthê đã bị tù (x. Dt 13:23). Thánh Phaolô đặt ngài làm người đại diện ở giáo đoàn Êphêsô. Thánh Timôthê tương đối non trẻ đối với công việc ngài đang làm lúc đó. Thánh Phaolô viết trong 1 Tm 4:12a: “Đừng coi thường người trẻ”. Một số điểm cho thấy ngài nhút nhát. Một trong số câu thánh Phaolô viết về ngài: “Đừng chỉ uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm ít rượu vì anh thường đau bao tử và ốm yếu luôn” (1 Tm 5:23).
* Thánh Titô (qua đời năm 94?): Thánh Titô là bạn thân và là môn đệ của thánh Phaolô, đồng thời cũng là bạn truyền giáo. Ngài là người Hy lạp, vùng Antioch. Mặc dù Titô là dân ngoại, thánh Phaolô vẫn không để ngài phải chịu cắt bì (circumcision) ở Jerusalem. Thánh Titô được coi là người kiến tạo hòa bình, nhà quản lý, người bạn vĩ đại. Thư thứ 2 thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô cho thấy sự thấu hiểu tình bằng hữu với thánh Titô, một tình bạn trong việc rao giảng Phúc âm: “Khi tôi đến Troas... Tôi không yên tâm vì tôi không gặp Titô, người anh em của tôi. Nên tôi giã từ họ để đi Macedonia.... Thậm chí khi chúng tôi đến Macedonia, thân xác chúng tôi không yên chút nào, nhưng chúng tôi khổ sở trăm bề – xung đột bên ngoài, lo sợ bên trong. Nhưng Thiên Chúa, Đấng an ủi những người nản chí thất vọng, đã khuyến khích chúng tôi bằng cách gởi Titô đến...” (2 Cr 2:12a, 13; 7:5-6).
Khi thánh Phaolô gặp rắc rối với giáo đoàn Côrintô, thánh Titô là người đem thư của thánh Phaolô đi và làm cho mọi chuyện êm xuôi. Thánh Phaolô viết rằng ngài được vững mạnh không chỉ nhờ Titô đến mà còn “vì anh ấy đã được anh em an ủi. Anh ấy đã cho chúng tôi biết là anh em nóng lòng mong đợi, buồn phiền, nhưng vẫn đầy nhiệt tình đối với tôi, khiến tôi càng vui mừng hơn nữa.... Lòng anh ấy càng tha thiết quý mến anh em, khi nhớ lại anh em đã vâng lời, đã kính sợ và run rẩy đón tiếp anh.” (2 Cr 7:7a, 15). Thư gởi Titô nói ngài là người quản lý giáo đoàn ở đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh và bổ nhiệm các giám mục.

Chủ Nhật, 24 tháng 1, 2016

Thứ Hai Thánh Phaolô Tông Đồ Trở Lại Lễ kính Mc 16,15-18.

Lời Chúa: Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng.
Ha-lê-lui-a. Chúa nói: Chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Ha-lê-lui-a.
Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa,
ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người !
Vì tình Chúa thương ta thật mãnh liệt,

lòng thành tín của Người bền vững muôn năm.

Ngày 25/01 – Thánh Phaolô, Tông đồ trở lại
Cả cuộc đời thánh Phalô có thể mô tả trong hai từ “kinh nghiệm” – cuộc gặp gỡ của ngài với Chúa Giêsu trên đường tới Damascus. Trong khoảnh khắc, ngài thấy rằng tất cả nhiệt huyết về cá tính mạnh mẽ của mình đều uổng phí, như sức mạnh của lực sĩ quyền anh nhún nhảy với dáng man rợ. Có lẽ ngài chưa bao giờ thấy Chúa Giêsu, người chỉ lớn hơn ngài vài tuổi. Nhưng ngài đã thù ghét Chúa Giêsu một cách quá khích, khi ngài bắt đầu làm phiền Giáo hội: “...đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục” (Cv 8:3b). Ngày nay chính Ngài được “xem xét”, được sở hữu, tất cả nỗ lực đến một mục đích – là nô lệ của Đức Kitô trong sự hòa giải, là khí cụ giúp người khác nhận biết Đấng Cứu Thế.
Có một câu xác định thần học của ngài: “Tôi là Giêsu, người mà anh đang khủng bố” (Cv 9:5b). Chúa Giêsu xác nhận với mọi người một cách mầu nhiệm – nhóm người thích Saolê đã bỏ của chạy lấy người như những tên tội phạm. Ngài thấy Chúa Giêsu khỏa lấp những gì ngài đã mù quáng theo đuổi. Từ đó, công việc duy nhất của ngài là “giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Ki-tô. Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi” (Cl 1:28b-29). “Vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa” (1 Tx 1:5a).
Cuộc đời thánh Phaolô trở nên bản tuyên ngôn không ngừng và sống sứ điệp Thập giá: Các Kitô hữu chết cho tội và được mai táng với Đức Kitô. Họ chết cho những gì là tội và chưa được cứu độ trên thế gian. Họ là thụ tạo mới, thông phần chiến thắng của Đức Kitô và một ngày nào đó sẽ sống lại từ cõi chết như Đức Kitô. Qua Đức Kitô phục sinh, Chua Cha ban Thánh Thần trên họ, làm cho họ nên mới hoàn toàn.
Sứ điệp quan yếu của thánh Phaolô gởi cho thế giới là: Người ta được cứu độ hoàn toàn nhờ Thiên Chúa, không nhờ bất cứ thứ gì mà người ta có thể làm. Niềm tin cứu độ là tặng phẩm của sự tín thác nơi Đức Kitô trọn vẹn, tự do, riêng tư, và yêu thương, một sự tín thác sẽ sinh hoa kết trái nhiều hơn là Lề luật khả dĩ dự tính.

Chúa Nhật III Thường Niên Năm C

Lời Chúa: Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.
     Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công biên soạn bản tường thuật những điều đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta. Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc.
    Khi ấy, được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường của họ, và được mọi người tôn vinh.
    Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.

     Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."

SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
     Bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca trình thuật cho chúng ta biết nhân dịp thuận tiện. Đức Giêsu trở về thăm quê hương. Vì là Con Thiên Chúa, nên Đức Giêsu rất yêu mến và quý trọng Hội Đường là nơi tôn thờ Cha của Người. Bởi vậy, Người thường xuất hiện nơi đây vào những ngày Sabát để tham dự giờ Kinh Thánh. Tuy nhiên, lần này Đức Giêsu trở về quê hương. Người vào Hội Đường trong tư cách là Một Đấng Mêsia và chính thức công bố chương trình hoạt động của Người, những lựa chọn ưu tiên cũng như đối tượng mà Người nhắm đến trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.
    Trong Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đã giao sứ mạng ngôn sứ cho một số người và tất cả các Kitô hữu chúng ta đều được trở thành phát ngôn viên của Thiên Chúa, vì được tham dự vào ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Giêsu Kitô khi chịu phép Rửa. Chúng ta có trách nhiệm đọc và giải thích Luật Chúa, có trách nhiệm nói: “Lời tin vui, Lời giải thoát, Lời sáng soi, Lời tự do, Lời hồng ân và Lời chúc phúc” cho mọi người, nhất là cho những người sầu khổ, bị giam cầm, mù lòa, bị áp bức và sống thiếu thốn mọi sự, chúng ta phải có trách nhiệm loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa cho nhiều người được đón nhận.
     Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con xác tín rằng : “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho con đi” và chúng con cũng cảm tạ Chúa đã yêu thương chúng con và dạy cho chúng con biết tiếp cận lời Chúa.   Amen

Ngày 24/01 – Thánh Phanxicô Salê, Giám mục Tiến sĩ (1567-1622)
Người cha muốn Phanxicô làm luật sư để có thể thay thế vị trí thượng nghị sĩ tỉnh Savoy, Pháp quốc. Vì thế Phanxicô được gởi tới để học luật. Sau khi nhận bằng tiến sĩ luật, ngài trở về nhà trình bày với cha mẹ về ước muốn làm linh mục. Cha ngài không đồng ý. Sau khi nỗ lực và khôn ngoan thuyết phục, cha ngài đã đồng ý.
Phanxicô thụ phong linh mục và được bầu làm tổng đại diện giáo phận Geneva, rồi ngài chuyên đối phó với giáo phái Calvin. Phanxicô bắt đầu cảm hóa họ, đặc biệt ở quận Chablais. Bằng việc rao giảng và phân phát những tờ rơi mà ngài viết để giải thích về giáo lý Công giáo đích thực, ngài đã thành công đáng kể.
Lúc 35 tuổi, ngài dược bổ nhiệm Giám mục giáo phận Geneva. Trong khi điều hành giáo phận, ngài tiếp tục rao giảng, giải tội và dạy giáo lý cho trẻ em. Tính cách hiền dịu của ngài là “bí quyết” để ngài chiếm được các linh hồn. Ngài thực hành châm ngôn do ngài đặt ra: “Một muỗng mật ong thu hút nhiều ruồi hơn một thùng giấm” (A spoonful of honey attracts more flies than a barrelful of vinegar – tương tự tục ngữ Việt Nam: “Mật ngọt chết ruồi”).
Ngoài hai cuốn sách nổi tiếng của ngài (The Introduction to the Devout Life và A Treatise on the Love of God – Giới thiệu Đời sống Thành kính và Luận thuyết về Tình yêu Thiên Chúa), ngài còn viết nhiều cuốn sách nhỏ (pamphlets) và nhiều thư. Sách ngài viết thể hiện tinh thần hiền hậu của ngài và được giới thiệu với người ngoại giáo. Ngài muốn làm cho họ hiểu rằng họ cũng được gọi để nên thánh. Ngài viết trong cuốn The Introduction to the Devout Life: “Đó là một sai lầm, hoặc là một dị giáo, khi nói lòng sùng
đạo không tương thích với cuộc đời của binh sĩ, thương nhân, hoàng tử, hoặc phụ nữ có chồng,… Nhiều người đã gìn giữ sự hoàn hảo nơi sa mạc nhưng đã mất nó giữa thế gian”.
Mặc dù ngài sống thương đối ngắn ngủi và bận rộn, ngài đã dành thời gian cộng tác với thánh Jane Frances de Chantal trong việc lập dòng nữ Đức Mẹ Thăm Viếng (Sisters of the Visitation). Các nữ tu thực hành các nhân đức theo gương Đức Maria đi thăm thánh Êlizabet: khiêm nhường, sùng mộ và bác ái lẫn nhau. Họ bận rộn với việc thể hiện lòng nhân hậu đối với người nghèo và người bệnh. Ngày nay, một số cộng đoàn điều hành trường học, một số khác sống chiêm niệm nghiêm nhặt.

Thứ Năm, 21 tháng 1, 2016

Thứ Bảy Tuần II Thường Niên Mc 3,20-21.

Lời Chúa: Thân nhân của Người nói rằng Người đã mất trí.
Ha-lê-lui-a. Lạy Chúa, xin mở lòng chúng con, để chúng con lắng nghe lời Chúa. Ha-lê-lui-a.
Lạy Mục tử nhà Ít-ra-en,
Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giuse
như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe !
Ngài là Đấng ngự trên các thần hộ giá,
Xin giãi sáng hiển linh cho dòng dõi Ép-ra-im,
Ben-gia-min và Mo-na-se được thấy.
Xin khơi dậy uy dũng của Ngài,

Đến cùng chúng con và thương cứu độ.

Ngày 23/01 – Chân phước Marianne Cope, Trinh nữ (1838-1918)
Dù bệnh phong cùi làm dân Hawaii hoang mang hồi thế kỷ 19, chứng bệnh này vẫn nảy sinh lòng đại lượng ở người phụ nữ được biết đến là Mẹ Marianne ở Molokai. Lòng can đảm của bà giúp cải thiện những nạn nhân ở Hawaii, một vùng thuộc Hoa kỳ thời bà sống (1898).
Lòng đại lượng và can đảm của Mẹ Marianne được kính nhớ ngày 14-5-2005, ngày Mẹ được phong thánh tại Rôma. ĐHY Jose Saraiva Martins, Bộ trưởng Bộ Phong thánh, nói rằng Mẹ là một phụ nữ nói với thế giới bằng “ngôn ngữ của chân lý và yêu thương”. ĐHY Martins, người chủ tế lễ phong thánh tại Đại Giáo đường thánh Phêrô, đã gọi cuộc đời Mẹ là “tuyệt tác của Hồng ân Thiên Chúa”. Nói về tình thương đặc biệt của Mẹ dành cho những người phong cùi, ĐHY Martins nói: “Mẹ nhìn thấy khuôn mặt đau khổ của Chúa Giêsu nơi những người phong cùi. Như người Samaritanô nhân hậu, Marianne đã trở nên mẹ của họ”.
Ngày 23-01-1838, một bé gái được sinh ra là con của Peter và Barbara Cope, người vùng Hessen-Darmstadt, Đức quốc. Bé gái này được đặt theo tên người mẹ. Hai năm sau, gia đình Cope nhập cảnh Hoa kỳ và định cư ở Utica, New York. Bé gái Barbara lớn lên và làm việc trong một nhà máy cho đến tháng 8-1862 thì vào Dòng nữ Phanxicô (Sisters of the Third Order of Saint Francis) ở Syracuse, New York. Sau khi tuyên khấn vào tháng 11-1863, nữ tu Barbara được gọi là Marianne và bắt đầu dạy học tại trường của giáo xứ Mông Triệu.
Nữ tu Marianne giữ chức vị cao ở vài nơi, hai lần là giáo tập trong hội dòng và ba lần làm trưởng Bệnh viện Thánh Giuse ở Syracuse, nơi Mẹ biết sẽ hữu ích trong thời gian ở Hawaii. Được bầu làm giám tỉnh năm 1877, Mẹ Marianne lại tái đắc cử năm 1881. Hai năm sau, chính quyền Hawaii tìm một người để điều hành Trạm Tiếp Nhận Kakaako (Kakaako Receiving Station) chăm sóc những người nghi bị phong cùi. Hơn 50 cộng đồng tôn giáo ở Hoa kỳ và Canada đều được yêu cầu. Khi đến dòng nữ ở Syracuse, 35 nữ tu đã tình nguyện ngay. Ngày 22-10-1883, Mẹ Marianne và 6 nữ tu đi Hawaii nhận nhiệm vụ tại Trạm Tiếp Nhận Kakaako ở ngoại ô Honolulu. Trên đảo Maui, các nữ tu mở bệnh viện và trường học cho các em gái.
Năm 1888, Mẹ Marianne và hai nữ tu đi Molokai để thành lập nhà mở cho các phụ nữ và các cô gái không có ai che chở. Chính quyền Hawaii khá lưỡng lự khi để phụ nữ đảm nhận nhiệm vụ khó khăn này. Họ không cần lo về Mẹ Marianne như vậy! Ở Molokai, Mẹ đã đảm trách nhà mở mà Chân phước Damien DeVeuster (qua đời năm 1889) đã thành lập cho đàn ông và các em trai. Mẹ Marianne đã “đổi đời” ở Molokai bằng cách giới thiệu sự sạch sẽ, niềm hãnh diện và sự vui vẻ cho kiều dân. Những chiếc khăn quàng màu sáng và những chiếc áo đầm xinh xắn dành cho phụ nữ là một phần kế hoạch của Mẹ.
Chính quyền Hawaii đã tặng Huân chương Hoàng gia (Royal Order) của Kapiolani và được thi sĩ Robert Louis Stevenson nhớ đến Mẹ trong một bài thơ, Mẹ Marianne trung thành tiếp tục trách nhiệm. Nhiều cô gái Hawaii có ơn gọi đi tu và vẫn làm việc ở Molokai. Mẹr Marianne qua đời ngày 09-08-1918.

Ngày 22/01-1702-1745 Thánh phanxicô Federich Tế Linh mục dòng Đaminh Tử đạo

* Thánh tử đạo tiên khởi trên đất Việt.

Bốn mươi ba tuổi đời, mười năm truyền giáo trên đất Việt, trong đó gần 8 năm bị giam cầm, cuộc đời truyền giáo của Thánh Phanxicô Tế có vẻ không được thuận lợi, nhưng chính những năm tù này đã làm nên sự nghiệp của thánh nhân. Nhờ bối cảnh đặc biệt vị Linh Mục dòng thuyết giáo đã tiếp tục thi hành xú mệnh của mình ngay tại kinh đô Thăng Long. Cha vẫn đi thăm viếng và trao ban bí tích cho các giáo hữu, rửa tội cho nhiều tân tòng. Rêng năm 1744, cha giải tội cho 1745 người, rửa tội 73 người( trong đó 32 người lớn) và xức dầu cho nhiều bệnh nhân. Thành quả đó của một "tù nhân" đủ cho mọi người thấy nhiệt tâm, tài năng và sự khéo léo của vị thánh Tử Đạo đầu tiên trên đất Việt.

* Tuổi xuân và khát vọng.
Phanxicô Gil de Federich sinh ngày 14-12-1727 tại Tortosa, Tây Ban Nha, quê hương của biết bao vị đại thánh và những vị thừa sai nổi tiếng. Được thừa hưởng truyền thống đạo đức đó, từ niên thiếu ngài nhận ra tiếng Chúa mời gọi sống đời dâng hiến, và đã xin gia nhập dòng Đaminh. Sau một năm tập đầy lòng nhiệt thành đạo đức tu sĩ Federich tuyên khấn trọng thể tại tu viện Santa Catalina thành Barcelona khi mới 16 tuổi.
Sau nhiều năm học tập chăn chỉ, ngày 29-03-1072 tại Tortosa, thầy Federich được thụ phong linh mục, rồi bổ nhiệm làm giáo sư triết lý kiêm giáo sư các tu sĩ sinh viên. Thế nhưng ước nguyện thâm sâu của tân linh mục là được đi truyền giáo ở phương xa. Hai năm sau cha xin chuyển sang tỉng dòng Đức Mẹ Mân Côi, là tỉnh dòng đặc trách việc truyền giáo ở Viễn Đông. Cha xuống tàu, đến trụ sở tỉnh dòng tại Phi Luật Tân năm 1733.
Cha giám tỉnh Diego tại Manila rất quý trọng khả năng đức độ của cha Federich, nên đã chọn cha làm thư ký và phụ tá cho mình. Trong công việc tham gia điều hành tại trụ sở, những tin tức ở các vùng truyền giáo ngày càng thúc đẩy cha thực hiện khát vọng truyền giáo. Những vần thơ cầu nguyện với Đức Maria của cha nói lên tâm tình đó:
"Lạy thánh Mẫu cao vời nhân ái
Tấm lòng con điên dại đáng thương
Ngày đêm nung nấu can trường
Tình bao la Mẹ, đâu phương đáp đền
Trong tâm tưởng con hằng mong ước
Khắp muôn phương loan báo Tin Mừng
Giờ con gặp cảnh sầu thương
Như thuyền neo bến, trùng dương xa vời."
Cuối cùng ước mơ cao đẹp này đã được thành tựu. Ngày 28-08-1735, cha Phanxicô đặt chân lên đất Việt Nam. Bấy giờ là thời vua Lê Ý Tông (1735-1739) và Uy Nam Vương Trịnh Giang (1729-1740).
* Trên cánh đồng truyền giáo.
Sau một thời gian ngắn học ngôn ngữ và phong tục, cha Federich Tế đã đến để phục vụ nhiều nơi. Mới đầu ở huyện Trực Ninh (Nam Định) rồi Vũ Tiên (Thái Bình), sau đảm nhiệm hai giáo xứ Kẻ Mèn, Bắc Trạch : tiếp đó qua huyện Giao Thủy coi họ Lục Thủy và Quất Lâm.
Một hôm ở Quất Lâm cha đang giải tội, bỗng giáo dân chạy vào báo tin lương dân đang lùng bắt người. Cha Tế vẫn cầu nguyện giây lát, rồi cứ tiếp tục giải tội. Sự bình tĩnh và bầu khí thiêng thánh của việc trao ban bí tích Hòa giải đã cứu cha. Những người vây bắt đứng ngây người một lát rồi rủ nhau giải tán.
* Mối giây oan nghiệt …
Mới được hai năm hoạt động ngắn ngủi, cha Tế đã bị bắt ngày 03-08-1737. theo sử sách, một nhà sư tên Tình vốn ghét đạo Công Giáo, lại muốn tìm cách đòi tiền. Nhà sư đã đến xin phép quan huyện Giao Thủy, rồi đưa người đến vây bắt các trưởng ở làng Trung Linh. May là các Linh Mục ở đây biết trước nên trốn đi hết , nhưng sau đó nghe tin có đạo trưởng Âu Châu ở họ Lục Thủy, nhà sư đem quân đến vay ngay lúc cha Tế vừa dâng thánh lễ xong. Để nguyện đường khỏi bị xúc phạm và giáo hữu khỏi bị liên lụy, cha tự nghuyện ra nộp mình, cha nói : "Các ông tìm bắt tôi, thì chính tôi đây, xin hãy tha cho các giáo hữu của tôi."
Khi nghe tin cha Tế bị giam giữ tại làng Thủy Nhai, giáo hữu của cha gom góp tiền đến gặp sư Tình xin chuộc nhưng nhà sư chê ít và giữ cha tại nhà riêng mười ngày. Thấy thế giáo hữu lên tỉnh trình quan và hứa sẽ hậu tạ nều vị linh mục được giải thoát. Quan trấn thủ Sơn Nam liền phái lính về Thuỷ Nhai bắt cả sư Tình lẫn cha Tế. Vị sư này nhanh chân chạy thoát, lên tận kinh đô tố cáo với vua rằng : "Quan Trấn Thủ đã ăn hối lộ và làng Lục Thủy chứa chấp Tây Dương đạo trưởng." Khi hay tin quan trấn biết không thể tha cha Tế được nữa, nên đành áp giải cha về Thanh Long. Dọc đường cha lên cơn sốt rét trầm trọng, nhưng khi lên tới nơi cha vẫn phải mang gông và bị tống giam vào ngục.

* Năm tù đầu tiên và bản án.
Sau khi khỏi bệnh cha Phanxicô Tế được đưa ra tòa hai ngày liền. Các quan đối xử tử tế với cha, nhưng dân chúng có người la ó, buông những lời khiếm nhã, có kẻ lấy que bẻ vụn làm thành hình Thánh Giá ném vào cha. Cha bình tĩnh nhặt lên hôn kính và cất Thánh Giá vào túi. Trong ngục cha được linh mục Nghi giả làm thầy lang vào thăm bệnh, giải tội và trao mình thánh chúa. Suốt một năm cha Nghi cùng cháu của bà Kính vẫn ra vào thăm và tiếp tế. Qua những chứng nhân này, mọi người biết cha Tế luôn kiên nhẫn, bình tĩnh không trách cứ than van, và nhiều lần còn tỏ ý muốn được tử đạo.
Ngày 10-07-1738, cha Tế bị đưa ra toà cùng với nhà sư Tình. Quan trấn Sơn Nam Hạ khi áp giải cha về kinh đô đã tố cáo nhà sư đã chứa chấp cha mười ngày trong nhà. Để chạy tội vị sư này xin được đạp lên Thánh Giá, minh chứng mình không ủng hộ đạo Công Giáo. Về phần cha Tế khi bắt cha bước qua Thánh Giá, cha trả lời : "Tôi không thể phạm tội nặng ấy được". Các quan hỏi về ý nghĩa ảnh tượng Thánh Giá. Cha đáp : "Ảnh này tượng trưng cuộc Tử Nạn con Thiên Chúa giáng sinh cứu chuộc loài người." Các quan nói tiếp : "Nhưng luật triều đình cấm giảng đạo này". Cha trả lời : "Chẳng ai có quyền cấm giảng đạo Thiên Chúa đã truyền loan báo cho mọi dân mọi nước. Ai cấm tức là cướp quyền củaa Thiên Chúa."
Các quan nghị án một lát, rồi tuyên án trảm quyết đạo trưởng Federich Tế, kết án sư Tình và con trai phải phát lưu chăn voi. Ngày 12-09, bản án được chúa Trịnh Giang phê chuẩn, nhưng vì nhà sư chạy chọt chống án ở nhiều nơi, nên bản án chưa được thi hành.
* Lời chúa không thể bị trói buộc.
Thời gian sau đó vì tình hình chính trị bất ổn, bản án của cha Tế bị lãng quên: Trịnh Doanh đảo chánh lật đổ anh, chiếm phủ chúa và tự phong là Minh Đô Vương (1740-1767) rồi Lê Hiển Tông lên ngôi lấy hiệu là Cảnh Hưng (1740-1786) giặc Lê Duy Mật nổi lên ở Thanh Hóa : dư đảng của nhà Mạc cũng nổi loạn ở Thượng Du… những biến cố dồn dập đó làm vua quan bận rộn đến nổi quên mất "tử tội" của mình.
Lợi dụng hoàn cảnh đó cha Tế khéo léo xin phép, có khi mất tiền để được đi lại trong thành Thăng Long để thăm viếng các tín hữu, trao ban Bí Tích và giảng đạo cho lương dân. Có gia đình hai chị em bà Gạo là ngoại giáo đã vào xin quan cho cha Tế đến tá túc tại nhà mình. Chị bà Gạo mắc bệnh nan y, không thuốc nào chữa nổi sau nhờ lời nguyện của cah Tế được khỏi bệnh nên xin được rửa tội ngay. Còn bà Goạ một thời gian sau mới xin tòng giáo lấy tên thánh Rosa. Hai chị em sống đạo rất gương mẫu.
Thấy cha Tế ra vào ngục dễ dàng như thế. Đức Giám Mục Loger Gia ngỏ ý muốn đặt cha làm chính xứ Kẻ Chợ (Thăng Long). Nhưng cha từ chối vì không chắc được dễ dàng mãi. Cha nói : "Một tù nhân không thể chăm sóc ai được."
Từ ngày 30-05-1744, cha Tế có thêm một cộng sự viên đắc lực nữa. Đó là Linh Mục Matthêu Alonso Liciniana Đậu cũng dòng Đaminh, bị bắt cách đó 6 tháng được áp giải về Thăng Long và cùng bị giam một nơi niềm vui mừng xúc động dạt dào tả sao cho hết. Hai nhà thuyết giáo thăm hỏi nhau an ủi, khích lệ và bàn bạc với nhau, biến Thăng Long thành môi trường truyền giáo, hợp tác với nhau làm mục vụ tông đồ.
* Giờ phút vinh quang.
Sau hơn bảy năm tù và bảy tháng được sống chung với người đồng chí hướng. Ngày 22-01-1745, cha Tế bị đem đi xử. Cha tỏ vẻ hân hoan cám ơn và từ biệt anh em bà Gạo, tạm biệt cha Liciniana Đậu và một số ân nhân, Rồi thanh thản tiến ra pháp trường. Riêng cha Đậu chịu bị án chung thân, xin phép quan đi theo đưa tiễn. Thế nhưng khi đi ngang qua hoàng cung, cha Đậu cũng được tin mình cũng bị xử trảm với linh mụ bạn.
Hai vị chứng nhân nhìn nhau sung sướng, cả hai cùng tạ ơn Chúa vì từ nay hai người không bao giờ phải xa lìa nhau nữa, tại pháp trường giáo hữu cũng như lương dân có mặt rất đông và tỏ lòng thương tiếc, cảm thông. Lý hình vừa chém rơi đầu hai vị, nhiều người oà lên khóc và ùa vào thấp máu, hoặc lấy vật gì làm thánh tích.
Theo ý Đức Cha Hilario Hy, thi hài của hai cha được đưa về an táng tại nhà chung Lục Thủy. Vài ngày sau Đức Cha tổ chức thánh lễ tạ ơn long trọng có đông đảo các cha dòng đến tham dự. Ngay khi đó mọi người tin tưởng vào hai đấng đã được lãnh triều thiên tử đạo, và bắt đầu chuẩn bị lập hồ sơ xin phong thánh.
Ngày 20-05-1906, các ngài được Đức Piô X suy tôn lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên hàng Hiển Thánh.

Ngày 22/01-1702-1745 Thánh Matthêu Alonsoliciniana Đậu Linh mục dòng Đaminh Tử đạo

* Đồng tử đạo tiên khởi của đất Việt.
Ngày 22-01-1745, trên đường ra pháp trường ở ngoại ô Thăng Long, hai vị linh mục đồng hành: Cha Phanxicô Tế và cha Matthêu Đậu. Số phận hai nhà thuyết giáo này cho đến nay vẫn gắn liền với nhau. Hai người bạn thân với biết bao điểm tương đồng: từ đồng hương là Tây Ban Nha đến đồng dòng tu thánh Đaminh, tỉnh hạt Đức Mẹ Mân Côi. Rồi cả hai cùng đến giảng đạo tại giáo phận Đông Đàng Ngoài, cùng bắt ở Lục Thủy, đồng lao cộng khổ với nhau ở trong tù. Thế mà trên đường ra pháp trường, một vị tươi cười, cha Phanxicô Tế vì sắp được tử đạo, một vị vẻ mặt rầu rỉ, cha Matthêu Đậu chỉ bị án chung thân và đi tiễn chân bạn mình. Vậy là sắp phải chia tay nhau mãi mãi!

Khi đoàn hành hình đi ngang qua hoàng cung thì dừng lại. Một viên quan đại diện nhà vua đến loan tin: "Đạo trưởng Đậu cũng phải chịu án chém đầu". Niềm mong ước của cha Đậu được toại nguyện, và nhờ bản án đó, hai cuộc đời hai ông chứng nhân đức tin đã nối chặt không bao giờ tách rời được nữa: đồng sinh đồng tử và cuối cùng đồng phúc vinh quang giữa hàng ngũ các thánh tử đạo anh hùng. Và đặc biệt, nhờ bản án đó cha Matthêu Đậu được thành vị thánh đồng tử đạo tiên khởi trên đất nước Việt Nam.

* Viễn đông vẫy gọi…
Matthêu Alonso Liciniana Đậu sinh ngày 26-10-1702 (trước thánh Phanxicô Tế bảy tuần) tại Nava Del Rey, Tây Ban Nha. Đáp lại tiếng Chúa kêu mời, cậu Alonso đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho Đức Kitô trong tu viện Santa Cruz do chính thánh Đaminh lập ở Ségovia (năm 1218), thành phố còn lưu dấu nhiều di tích của thánh Tổ Phụ. Tại đây Alonso Liciniana Đậu đã tuyên khấn, học thần học và thụ phong linh mục. Thời gian này tỉnh hạt Đaminh Đức Mẹ Mân Côi phái người đến các tu viện cổ động và tìm người truyền giáo ở Viễn Đông. Tình hình vùng truyền giáo quá thiếu người. Thí dụ tại Bắc Việt không kể Đức Cha Sextri Tri, dòng chỉ còn bốn vị. Năm 1728, ba linh mục gởi đến đây đã bị đắm tàu chết hết (1). Cha Alonso Liciniana Đậu và 23 tu sĩ tây Ban Nha đã đáp lời mời đi tàu đến Manila vào tháng 11 năm 1730. Tháng hai năm sau, cha cùng với hai linh mục Phêrô Ponsgrau Bằng và Micae Pajares lâm bệnh phải trở về. Hai vị còn lại đến Trung Linh ngày 18-01-1732 trong niềm vui lớn lao của giáo phận Đông Đàng Ngoài.
Trên một giáo phận rộng lớn với nhân sự quá ít oi, cha Matthêu Đậu phải di chuyển và phục vụ nhiều nơi. Sau thời gian học tiếng ở Trung Linh, cha truyền giáo ở Sơn nam Thượng, hoạt động trong các huyện Trung Đông, Tiên Lữ, Thần Khê (Hưng Yên), rồi các huyện Thanh Quan, Vũ Tiên (Thái Bình) và sang cả Nam Chân, Giao Thủy, Xuân Trường (Nam Định ). Các giáo xứ lớn được cha coi sóc là Trung Lao, Tiên Chu, Kẻ Hệ và Lai Ổn. Sức khoẻ của cha không được tốt lắm, dáng người mảnh khảnh, ốm yếu nhưng cha đã vượt qua mọi gian khổ và luôn kiên trì hoạt động không ngơi nghỉ.
* Cuộc thử thách…
Tháng 11-1743 đang ở Lai Ổn, thấy tình hình không mấy bình an, cha liền di chuyển qua Lục Thủy Hạ, trú trong nhà ông trùm Độ. Chẳng may trong làng có người bỏ đạo tên Đạt biết được và đi tố cáo quan. Sáng ngày 29-11 quân lính đến vây làng Lục Thủy, ập vào nhà đang lúc cha đang cử hành thánh lễ. Các giáo hữu sợ hãi chạy tán loạn. Cha Đậu vì bất ngờ cũng hoảng hốt bỏ chạy, tay ôm bình thánh và rước hết bánh thánh. Nhưng không kịp nữa rồi, quân lính đuổi theo và bắt cha lại và đánh đập cha cách tàn bạo. Họ xúm vào vật cha xuống đất, kẻ bức tóc, xé áo, kẻ nhổ râu, xỉ vả chế diễu. Một người lính cầm giáo đâm sượt ngang qua hông, máu chảy loang đỏ trên bộ áo dòng trắng, khiến cha tưởng giờ chết sắp đến, miệng thầm kêu lên cực trọng Giêsu-Maria. Cùng bị bắt với cha có ba thầy giảng Đaminh Sĩ, Đaminh
Đậu, Ignatio Quý và hai giáo hữu trong xứ. Tất cả được giải lên quan trấn thủ Sơn Nam, bấy giờ là Lê Văn Phượng. Quan chỉ giữ lại cha Đậu và thầy Quí, còn tất cả được trả về tự do.
Sau ba lần ra tòa, với nhiều cách thức nạt nộ, đe dọa, dụ dỗ hoặc tra tấn, quan trấn thủ không thể làm cha Đậu và thầy Quí chối bỏ Đức Tin. Ngày 21-12 quan hỏi cha có biết lệnh vua cấm giảng đạo khống ? Cha đáp: "Chính vì cấm tôi mới phải lẩn trốn chứ". Quan liền thảo bản án trảm quyết cha Đậu, còn thầy Quí bị phát lưu thảo tượng (chăn voi) suốt đời. Nhưng sau đó nhờ sự can thiệp của một viên quan thiện cảm với đạo, án của cha được đổi thành chung thân, còn thầy Quí được tha bổng sau khi nộp cho quan một món tiền. Ngày 30-05-1744, quân lính áp giải cha về Thăng Long và giam chung với linh mục Phanxicô Tế đã bị bắt từ năm 1737, đã có án trảm quyết, nhưng vì tình hình chính trị nên chưa bị đem đi xử.

* Cùng sống cùng chết cùng vinh phúc.
Thật tả sao cho xiết niềm vui thiêng liêng được gặp lại nhau của hai anh em cùng dòng, lại cùng tuổi trong cảnh tù tội này. Từ nay các vị không còn cô độc nữa. Hai anh em chia sẻ cho nhau những tâm tư thao thức, ôn lại những kỷ niệm, trao đổi bàn bạc việc tông đồ và cùng nhau cầu nguyện. Chỉ sau vài ngày chỉ một ít tiền bạc, cha Đậu cũng được tự do đi thăm và giúp đỡ các tín hữu trong vùng. Vào lễ Chúa Ba Ngôi năm 1744, cha Tế dâng lễ, cha Đậu gíup lễ.
Nhưng một khung cảnh đẹp đáng nghi nhớ hơn, và có lẽ là trường hợp duy nhất trong hạnh các Thánh tử đạo, đó là ngày 04-06 năm ấy, lễ mình thánh Chúa, sau sáu tháng tù không có cơ hội, nay cha Đậu được dâng một thánh lễ âm thầm nhưng ấm cúng trong tù với sự tham dự của 130 giáo hữu Thăng Long. Bảy tháng tù ở kinh đô đã trôi qua thật êm ả, hai vị Linh Mục vẫn tiếp tục loan báo Tin Mừng, giải tội, rửa tội, sức dầu và an ủi khích lệ các tín hữu. Riêng cha Đậu trong bảy tháng đã rửa tội 55 người, trong đó có 22 người lớn và rửa tội cho 620 hối nhân.
Ngày 22-01-1745 có lệnh đưa cha Tế đi xử trảm. Án của cha Đậu vẫn như cũ là án chung thân, cha buồn rầu hết sức và năn nỉ xin phép quan cho đi tiễn chân bạn đến pháp trường. Khi đi ngang qua hoàng cung, đoàn người dừng lại, một viên quan sau khi đọc bản án của cha Tế và đọc tiếp: "Matthêu cũng là đạo trưởng Hoa Lang đã bị kết án chung thân nay bị kết án xử trảm."
Thế là cuối cùng cha Đậu được toại nguyện. Tại pháp trường quân lính chặt tháo xiềng xích ở chân tay hai cha, vô tình làm chảy máu rất nhiều. Các tín hữu đến tận nơi hôn xiềng xích và xin các cha cây Thánh Giá ở tay làm kỷ vật đang bị trói vào cọc. Hai linh mục bị chém cùng một lúc trong sự thương cảm của những người đến dự, dù giáo hay lương. Có sử liệu ghi nhận: một cụ bà Phật tử ở đó lâm râm cầu Trời khấn Phật cho hai cha thoát chết. Khi đầu hai vị tử đạo rơi xuống đất, nhiều người khóc nức nở và xông vào thấm máu hoặc tìm vật kỷ niệm.
Cha Bề trên dòng Phêrô Ponsgrau Bằng, người đã đến Việt Nam cùng ngày với cha Đậu, cử hai thầy giảng Điều và Luận, cùng ít giáo hữu tìm cách rước thi hài các tôi trung đức tin về làng Lục Thủy. Giáo hữu ba xứ Bùi Chu, Trung Linh, Trung Lễ gặp nhau và tranh quyền an táng các ngài ở nhà thờ mình. Cha chính phải can thiệp để họ vui lòng nhường cho nhà chung. Mấy ngày sau, Đức cha Hilario Hy dâng lễ tạ ơn, có các cha dòng và rất đông đảo giáo dân tham dự.
Đức Giáo Hoàng Piô X suy tôn hai cha Phanxicô Federich Tế và Matthêu Linciniana Đậu lên bậc Chân Phước ngày 20.05.1906. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên hàng Hiển Thánh.