Thứ Năm, 31 tháng 3, 2016

Thứ Sáu Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh Ga 21, 1-14.

Lời Chúa: Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho môn đệ; rồi cá, Người cũng làm như vậy.
Ha-lê-lui-a: Đây là ngày chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ. Halêluia
Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ,
lạy Chúa, xin thương giúp thành công.
Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc lành
cho người tiến vào đây nhân danh Chúa.
Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em.

Đức Chúa là Thượng Đế, Người giãi sáng cho ta.

Ngày 01/04 – Thánh Hugh Grenoble, Giám mục (1052-1132)
Thánh Hugh Grenoble có thể là bổn mạng của nhưng người có quá nhiều vấn đề đè nặng mà không biết bắt đầu từ đâu. Ngài phục vụ trong chức vụ giám mục ở Pháp suốt 52 years. Sự suy đồi có vẻ xuất hiện trong mọi chiều hướng: Mua bán chức quyền trong giáo hội, vi phạm luật độc thân giáo sĩ, người đời cai quản tài sản giáo hội, dửng dưng và làm ngơ tôn giáo. Sau khi làm giám mục 2 năm, ngài đã làm đầy đủ trách nhiệm. Ngài ẩn mình vào một tu viện, nhưng ĐGH gọi ngài trở lại tiếp tục công việc cải cách.
Ngài làm việc tương đối hiệu quả trong cương vị nhà cải cách – chắc hẳn nhờ lòng nhiệt thành với giáo hội, và cũng nhờ cá tính mạnh mẽ của ngài nữa. Trong những cuộc xung đột giữa giáo hội và nhà nước, ngài cương quyết bảo vệ giáo hội tới cùng và bảo vệ giáo hoàng. Ngài giảng đạo như nhà hùng biện. Ngài khôi phục nhà thờ chính tòa, cải thiện đô thị và và bị đi đày một thời gian ngắn.
Ngài được biết nhiều là thánh bổn mạng và nhà hảo tâm của thánh Bruno, vị sáng lập Dòng Carthusian (Carthusian Order). Ngài qua đời năm 1132, và được phong thánh chỉ 2 năm sau đó.

Thứ Năm Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh Lc 24,35-48.

Lời Chúa: Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.
Ha-lê-lui-a: Đây là ngày chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ. Halêluia
Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,

đặt muôn loài muôn sự dưới chân.

Ngày 31/03 – Thánh Stêphanô Mar Saba, Tu sĩ (qua đời năm 794)
Cách nói “xin đừng làm phiền” (do not disturb) đã giúp ngài tìm thấy sự thánh thiện và bình an.
Stêphanô ở Mar Saba, là cháu trai của thánh Gioan Damascene, người thân đưa ngài đi tu dòng từ lúc 10 tuổi. Lúc 24 tuổi, Stêphanô phục vụ cộng đoàn bằng nhiều cách, kể cả quản lý nhà khách (guest master). Sau một thời gian, ngài xin phép sống ẩn dật. Bề trên quyết định: Stêphanô có thể sống như ý muốn suốt tuần, nhưng cuối tuần ngài phải dùng khả năng mình làm tư vấn. Stêphanô ghi chú trên cửa phòng: “Xin các cha tha cho con, nhân danh Chúa, xin đừng làm phiền con trừ các ngày thứ Bảy và Chúa nhật”.
Dù có ơn gọi cầu nguyện và thinh lặng, Stêphanô vẫn tỏ ra kỹ năng kỳ lạ với mọi người và là người hướng dẫn tâm linh. Nhà viết tiểu sử và đệ tử của ngài viết: “Ngài giúp đỡ bất kỳ vấn đề gì về tâm linh và vật chất, được yêu cầu là ngài cho ngay. Ngài được kính trọng về lòng tử tế. Ngài không sở hữu gì và cũng chẳng thiếu gì. Hoàn toàn nghèo khó nhưng ngài sở hữu mọi thứ”. Ngài qua đời năm 794.

Thứ Ba, 29 tháng 3, 2016

Thứ Tư Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh Lc 24,13-35.

Lời Chúa: Họ đã nhận ra Chúa Khi Người bẻ bánh.
Ha-lê-lui-a: Đây là ngày chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ. Halêluia
Giao ước lập ra muôn đời Người nhớ mãi,
nhớ lời cam kết đến ngàn thế hệ !
Đó là điều đã giao ước cúng Áp-ra-ham,

đã đoan thệ cùng I-sa-ác.

Ngày 30/03 – Thánh Phêrô Rêgalađô, Linh mục (1390-1456)
Phêrô sống trong thời buổi rất hỗn độn. Cuộc ly giáo Tây phương (Great Western Schism, 1378-1417) được ổn định nhờ Công đồng Constance (1414-1418). Pháp và Anh chiến tranh hàng trăm năm. Năm 1453, hoàng đế Byzantine bị sụp đổ vì Constantinople mất vào tay người Thổ nhĩ kỳ. Lúc ngài qua đời, cộng nghệ ấn loát vừa bắt đầu ở Đức, và còn 40 năm nữa Kha Luân Bố (Columbus) mới tìm ra Tân Thế Giới.
Ngài sinh trong một gia đình giàu có và đạo hạnh ở Valladolid, Tây ban nha. Lúc 13 tuổi, ngài được vào Dòng Phanxicô (Conventual Franciscans). Ngay sau khi thụ phong linh mục, ngài được bầu làm bề trên dòng ở Aguilar. Ngài thuộc nhóm tu sĩ muốn sống nghèo khó và sám hối. Năm 1442, ngài được bổ nhiệm làm trưởng nhóm cải cách dòng Phanxicô ở Tây ban nha.
Ngài sống làm gương cho các tu sĩ. Ngài đặc biệt thương người nghèo và người bệnh. Những câu chuyện kỳ lạ về ngài được kể về lòng bác ái của ngài dành cho người nghèo. Chẳng hạn, bánh mì không bao giờ hết khi ngài cần giúp những người đói khổ. Hầu như cả đời ngài sống đói, ngài chỉ sống nhờ bánh và nước.
Ngài qua đời ngày 31/3/1456. Ngay sau đó, mộ ngài trở nên địa điểm hành hương. Ngài được phong thánh năm 1746.

Thứ Hai, 28 tháng 3, 2016

Thứ Ba Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh Ga 20,11-18.

Lời Chúa: Tôi đã thấy chúa, và Người đã nói với tôi.
Ha-lê-lui-a: Đây là ngày chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ. Halêluia
Tâm hồn chúng con đợi trông chúa,
bởi Người luôn che chở phù trì.
Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa,

như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.

Ngày 29/03 – Chân phước Luđôvicô Casoria, Linh mục (1814-1885)
Ngài sinh tại Casoria (gần Naples), Arcangelo Palmentieri là thợ làm đồ gỗ mỹ thuật (cabinet-maker) trước khi vào dòng Phanxicô năm 1832 và có tên dòng là Luđôvicô. Ngài thụ phong linh mục 5 năm sau, ngài dạy hóa học, vật lý và toán cho các tu sĩ trẻ trong tỉnh dòng vài năm.
Năm 1847, ngài có trải nghiệm thần bí mà sau đó ngài mô tả là “tẩy sạch”. Sau đó ngài dành cuộc đời mình cho người nghèo và người yếu đuối, mở pòng thuốc (dispensary) cho người nghèo, mở 2 trường học cho trẻ em Phi châu, mở một trường cho trẻ em quý tộc, mở viện mồ côi, mở trường cho người câm điếc, mở trường cho người mù, mở nhà người lớn tuổi và lữ khách. Ngoài một bệnh viện cho các tu sĩ trong tỉnh dòng, ngài còn mở các viện từ thiện ở Naples, Florence và Assisi. Có lần ngài nói: “Tình yêu Chúa Kitô đã chạm đến trái tim tôi” (Christ’s love has wounded my heart). Tình yêu đó đã thúc đẩy ngài làm những việc bác ái lớn lao.
Để tiếp tục công việc bác ái, ngài thành lập Dòng Huynh Đệ Xám (Gray Brothers) năm 1859, đó là cộng đoàn tu gồm những người trước đây thuộc Dòng Phanxicô Đời (Secular Franciscan Order). Sau 3 năm, ngài thành lập Dòng Tỷ Muội Xám Thánh Êlizabet (Gray Sisters of St. Elizabeth) với cùng mục đích như vậy.
Trong 9 năm bệnh cuối đời, ngài viết di chúc tâm linh mô tả đức tin là “ánh sáng trong bóng tối, giúp đỡ người bệnh hoạn, chúc lành cho người khổ tâm lao tứ, thiên đàng khi bị đóng đinh và sự sống giữa sự chết”. Việc mở án phong chân phước cho ngài bắt đầu sau khi ngài qua đời được 5 tháng. Ngài được ĐGH Gioan-Phaolô II phong chân phước năm 1993.

Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2016

Thứ Hai Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh Mt 28,8-15.

Lời Chúa: Hãy về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.
Ha-lê-lui-a: Đây là ngày chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ. Halêluia
Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống:
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,

ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi !

Ngày 28/03 – Thánh Hêsykiô Giêrusalem, Linh mục (khoảng 450)
Tên ngài không chỉ khó đọc mà còn khó đánh vần, đồng thời khó biết về một con người khiêm nhường và hiền như ngài. Ngài sống giữa thế kỳ IV và V, được biết nhiều trong giáo hội Chính thống Nga.
Không rõ ngày sinh của thánh Hêsykiô (Hesychius, tiếng Anh đọc là He-sơs), nhưng chúng ta biết ngài là tu sĩ linh mục viết lịch sử giáo hội, nhưng đã bị thất lạc. Ngài cũng viết về nhiều các vấn đề nóng trong thời ngài sống. Trong số đó có tà thuyết Nestorianism – cho rằng có hai con người riêng biệt trong Chúa Giêsu, một con người và một Thiên Chúa, và tà thuyết Arianism – từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Một số bài phê bình của ngài về Kinh thánh, cùng với những suy tư về các tiên tri và những bài giảng của ngài về Đức Mẹ vẫn còn lưu truyền.
Người ta tin rằng các bài giảng của ngài về lễ Phục sinh tại đại giáo đường ở Giêrusalem là nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh. Lời ngài giảng về Thánh Thể, được viết nhiều thế kỷ trước, nói với chúng ta ngày nay: “Hãy giữ mình sạch tội để mỗi ngày có thể thông phần bữa ăn mầu nhiệm (mystic meal); nhờ làm vậy mà thân thể chúng ta là nhiệm thể Chúa Chúa Kitô”. Ngài qua đời khoảng năm 450.

Chúa Nhật Phục Sinh Năm C

Lời Chúa: Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết.
     Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. Họ còn đang phân vân, thì kìa hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: "Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại".
     Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như vậy. Nhưng các ông cho là chuyện lẩn thẩn, nên chẳng tin.

     Dầu vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông chỉ thấy những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra.

SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
    Bài Tin Mừng hôm nay nói về cuộc Vượt Qua của Chúa và  Chúa Giêsu đã bật tung cửa mồ sống lại, đẩy lùi quyền lực sự chết đang bao trùm thế giới. Chúa biến ngôi mộ là điểm cuối của đời người trở thành cửa ngõ dẫn vào cõi trường sinh, Chúa khiến cho cửa mồ trở thành cổng đón tiếp nhân loại vào Thiên Quốc. Chúa biến sự chết thành niềm hoan lạc của ngày phục sinh, biến ngày cuối đời của kiếp sống trần gian trở thành ngày thứ nhất trong đời sống mới.
     Từ đó, ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa nhật, ngày của Chúa. Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến cố có tính cách lịch sử mà hơn thế nữa, còn là một biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy không ngừng được công bố và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Bởi vì một khi Đức Kitô là đầu đã sống lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng sẽ sống lại, nếu như chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với Chúa.
      Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con thêm mạnh mẽ trong niềm tin và cảm nghiệm thật sâu niềm vui ngày Chúa sống lại. Nhờ đó, chúng con biết sống và hăng say loan báo Tin Mừng Phục Sinh đến cho mọi người. Amen.

Ngày 27/03 – Chân phước Phanxicô Fà Brunô, Linh mục (1825-1888)
Phanxicô sinh trưởng trong một gia đình quý tộc tại Bắc Ý, là con út trong 12 người con. Ngài sống trong thời gian rất hỗn loạn của lịch sử, khi những tình cảm chống Công giáo và chống giáo hoàng rất dữ dội. Sau khi được đào tạo làm sĩ quan quân đội, Phanxicô được Vua Victor Emmanuel II chú ý. Nhà vua ấn tượng với cá tính và sức học của chàng thanh niên này. Được nhà vua mời dạy kèm cho 2 hoàng tử, Phanxicô đồng ý và chuẩn bị học thêm. Như với vai trò của giáo hội trong việc gia đình là điểm khó đối với nhiều người, nhà vua phải rút lời đề nghị với Phanxicô và tìm gia sư khác thích hợp hơn với tình trạng thế tục.
Phanxicô sớm từ giã đời quân ngũ và theo học tiến sĩ ở Paris về toán học và thiên văn học; ngài cũng tỏ ra quan tâm nhiều về tôn giáo và lối sống khổ hạnh. Dù đã dành tâm huyết theo học chuyên ngành, Phanxicô vẫn dành nhiều tâm huyết cho các hoạt động bác ái. Ngài lập Hội thánh Zita cho các cô gái và gia nhân nữ, sau mở rộng cho cả các bà mẹ đơn thân. Ngài giúp mở nhà tế bần và viện dưỡng lão. Ngài còn giám sát việc xây dựng một nhà thờ ở Turin để tưởng nhớ các chiến sĩ trận vong Ý trong cuộc chiến thống nhất nước Ý.
Ước muốn dành tâm huyết cho người nghèo, Phanxicô học làm linh mục. Lúc đầu ngài được ĐGH Piô IX ủng hộ nhưng bị tổng giám mục giáo phận phản đối vì ngài đi tu trễ. Nhưng cuối cùng ngài vẫn được thụ phong linh mục lúc 51 tuổi.
Là linh mục, ngài tiếp tục làm việc tốt, chia sẻ của cải và sức lực. Ngài còn mở một nhà tập thể cho các chị em làm gái làng chơi (prostitutes). Ngài qua đời tại Turin ngày 27/3/1888, và 100 năm sau ngài được ĐGH Gioan-Phaolô II phong chân phước.

Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2016

Thứ Bảy Tuần Thánh.

Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa duy nhất trong vũ trụ này, sự kiện Ngài cho Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại một lần nữa chứng tỏ điều này. Nhìn lại lịch sử cứu độ, chúng ta thấy Ngài là Đấng dựng nên vũ trụ và điều khiển muôn loài. Ngài đã chọn Israel như dân riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời. Ngài trung thành trong những gì Ngài đã hứa với con người cho dù con người đã phản bội Ngài. Ngài luôn tìm cách để cứu độ con người qua biến cố Xuất Hành, qua việc giải phóng và cho dân hồi hương từ các nơi lưu đày. Nhưng sự kiện nổi bật nhất trong lịch sử cứu độ là gởi Đấng Thiên Sai tới mang lấy thân xác con người để chuộc tội cho mọi người. Đấng Thiên Sai đã trải qua cuộc khổ nạn và sống lại vinh quang là trọng tâm của Mầu Nhiệm Phục Sinh chúng ta cử hành đêm nay.

Ngày 26/03 – Chân phước Điđacô Cadiz, Linh mục (qua đời năm 1801)
Ngài sinh tại Cadiz, Tây ban nha, tên thánh rửa tội là Giuse Phanxicô. Ngài dành nhiều thời gian rảnh gaio tiếp với các tu sĩ dòng Phanxicô. Nhưng ước muốn nhập dòng Phanxicô của ngài bị trì hoãn vì gặp khó khăn trong việc học. Nhưng rồi ngài cũng được nhận vào nhà tập dòng Phanxicô ở Seville với tên Điđacô (Didacus). Rồi ngài thụ phong linh mục và được sai đi giảng đạo.
Ngài có tài giảng. Ngài đi khắp Andalusia (thuộc Tây ban nha), giảng trong các thành phố. Lời ngài giảng làm lay động cả người già và người trẻ, người giàu và người nghèo, kể cả các giáo sư và sinh viên dù ngài không được học nhiều.
Người ta gọi ngài là “Tông đồ của Chúa Ba Ngôi” vì ngài sùng kính Tam Vị Nhất Thể (Chúa Ba Ngôi) và thoải mái trong khi giảng về mầu nhiệm siêu nhiên này. Một hôm, một đứa bé la lớn: “Mẹ ơi, nhìn chim bồ câu đậu trên vai cha Điđacô kìa! Con cũng có thể giảng như vậy nếu chim bồ câu cho con biết những điều phải nói”.
Điđacô sống kết hiệp với Thiên Chúa, ban đêm ngài cầu nguyện và chuẩn bị bài giảng bằng việc sám hối. Ngài trả lời với những người phê bình ngài: “Tội lỗi của tôi và của mọi người buộc tôi phải làm vậy. Những người bị kết án làm cho người tội lỗi trở lại phải nhớ rằng Thiên Chúa đã đặt trên vai họ gánh nặng tội lỗi của người khác”.
Người ta nói đôi khi ngài giảng về tình yêu Chúa mà ngài được nâng lên cao khỏi bục giảng. Dân chúng trong làng mạc và thành phố thấm nhập lời ngài giảng và cố gắng bỏ thói cũ khi ngài đi qua. Ngài qua đời năm 1801, thọ 58 tuổi, được coi là người đáng kính và thánh thiện. Ngài được phong chân phước năm 1894.

Thứ Tư, 23 tháng 3, 2016

Thứ Sáu Tuần Thánh Lc 4,16-21

TUNG HÔ TIN MỪNG: Vì chúng ta, Đức Ki-tô đã tự hạ, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ
Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ.
Hỡi mọi người hãy cậy trông vào Chúa,

Mạnh bạo lên, can đảm lên nào !

Ngày 25/03 – Lễ Truyền tin
Lễ Truyền tin có từ thế kỷ IV hoặc V. Trung tâm điểm của lễ này là mầu nhiệm Nhập thể: Thiên Chúa làm người. Từ đời đ,ờThiên Chúa đã chọn Ngôi Hai xuống thế làm người. Theo Lc 1:26-38, giao ước này đã hiện thực. Con Người ôm cả nhân loại, không phân biệt ai, để đem về cho Thiên Chúa qua hành động yêu thương tuyệt đối. Vì nhân loại khước từ Thiên Chúa, Chúa Giêsu chấp nhận đau khổ và chịu chết: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13).
Mẹ Maria giữ vai trò quan trọng trong kế hoạch của Thiên Chúa. Từ đời đời, Thiên Chúa đã tiền định Đức Maria làm Mẹ của Chúa Giêsu và liên quan mật thiết với Ngài trong việc sáng tạo và cứu độ thế giới. Chúng ta có thể nói rằng công cuộc sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa được liên kết trong mầu nhiệm Nhập thể. Vì Mẹ Maria là khí cụ của Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nhập thể, Đức Mẹ giữ vai trò đồng công sáng tạo và cứu độ. Đó là vai trò được Thiên Chúa trao ban, là hồng ân Thiên Chúa từ khởi sự cho đến hoàn thành. Mẹ Maria trở thành nhân vật nổi trội chỉ có thể nhờ hồng ân Thiên Chúa. Mẹ là nơi mà Thiên Chúa khả dĩ hành động. Mẹ là mọi sự thuộc về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mẹ là trinh nữ hoàn thành lời tiên tri Isaia 7:14 theo cách mà Isaia không thể tưởng tượng ra. Mẹ kết hợp với Chúa Con trong việc thi hành Tôn Ý Thiên Chúa (x. Tv 40:8-9; Dt 10:7-9; Lc 1:38).
Cùng với Chúa Giêsu, Mẹ đầy ân sủng và đạc quyền là sự nối kết giữa Trời với Đất. Sau Chúa Giêsu, Mẹ là con người tốt nhất, làm ví dụ về tính khả dĩ của sự hiện hữu nhân loại. Mẹ đón nhận sự thánh thiện và tình yêu vô hạn của Thiên Chúa. Mẹ cho thấy cách nhân loại có thể phản ánh Thiên Chúa trong những trường hợp bình thường của cuộc sống. Mẹ nêu gương về những gì giáo hội và mỗi tín hữu đều có ý nghĩa. Mẹ là kết quả cuối cùng của sự sáng tạo và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ biểu hiện ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể hoàn tất vì tất cả chúng ta.

Thứ Năm Tuần Thánh Lc 4,16-21

Lời Chúa: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Ta sẽ yêu thương Người và giữ lòng trung tín,
nhờ danh Ta, Người được thêm uy vũ.
Người sẽ thưa với Ta: “ Ngài chính là Thân Phụ,

là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ !”

Ngày 24/03 – Thánh Catarina Gênôa (1447-1510)
Một lần đi xưng tội và đó là bước ngoặt cuộc đời thánh Catarina Gênôa. Khi Catherine sinh ra, nhiều nhà quý tộc người Ý ủng hộ các họa sĩ và văn sĩ thời Phục hưng (Renaissance). Nhu cầu của người nghèo và người bệnh thường bị làm lu mờ vì mê sống xa hoa và bê tha.
Cha mẹ ngài là giới quý tộc ở Genoa. Lúc 13 tuổi, ngài muốn đi tu nhưng chưa đủ tuổi. Lúc 16 tuổi, ngài kết hôn với Julian, một nhà quý tộc ích kỷ và không có tín ngưỡng. Ngài kiềm chế nỗi thất vọng và cố vui sống với chính mình.
Một lần đi xưng tội, ngài nhận biết tội mình và yêu mến Chúa nhiều. Ngài thay đổi cách sống và làm gương cho Julian, không lâu sau Julian bớt ích kỷ. Tuy nhiên, sự ăn xài hoang phí của Julian đã khiến gia đình khánh kiệt. Julian và Catarina quyết định đến bệnh viện Pammatone, một bệnh viện lớn ở Genoa, và họ dấn thân làm việc bác ái ở đó. Năm 1497, Julian qua đời. Sau đó, Catarina đảm nhiệm việc quản lý bệnh viện. Ngài viết sách về luyện ngục và khuyên các linh hồn mở lòng ra với Thiên Chúa. Ngài nói rằng cuộc sống với Chúa trên trời và tiếp tục sống trọn vẹn với Thiên Chúa phải bắt đầu ngay khi còn ở thế gian. Kiệt sức vì cuộc đời hy sinh, ngài qua đời ngày 15/9/1510, và được phong thánh năm 1737.

Thứ Ba, 22 tháng 3, 2016

Thứ Tư Tuần Thánh Mt 26,14-25.

Lời Chúa: Con người phải ra đi như Kinh Thánh đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Muôn lạy Vua Ki-tô, vì vâng lời Thánh Phụ, Ngài đã chịu dẫn đi đóng đinh vào thập giá, như con chiên hiền lành bị dẫn đi làm thịt.
Tôi sẽ hát bài ca chúc mừng Danh Thánh,
sẽ dâng lời cảm tạ tán dương Người.
Những ai nghèo hèn, xem đấy mà vui lên,
người tìm Thiên Chúa, hãy nức lòng phấn khởi.
Vì Chúa nhận lời kẻ nghèo khó,

chẳng coi khinh thân hữu bị gian cầm.

Ngày 23/03 – Thánh Turibiô Mogrovejo, Giám mục (1538-1606)
Cùng với thánh Rôsa Lima, thánh Turibiô là một trong những vị thánh được biết đến trong Tân Thế Giới, ngài phụng sự Thiên Chúa ở Peru, Nam Mỹ, suốt 26 năm.
Ngài sinh ở Tây ban nha và học luật. Ngài là một học giả uyên bác đến nỗi ngài được chọn làm giáo sư luật khoa tại ĐH Salamanca và làm thẩm phán Tòa án Dị giáo (Inquisition, còn gọi là Holy Office) tại Granada. Ngài cũng thành công, nhưng ngài không đủ sắc sảo để làm một luật sư để ngăn chặn một chuỗi sự kiện gây ngạc nhiên.
Khi ngài được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Lima, thuộc địa Peru của Tây ban nha bị trống ngôi, Turibiô là người được chọn để thay thế: Ngài là người có cá tính mạnh và thánh thiện có thể “chữa lành” các vụ bê bối trong vùng.
Ngài đọc các khoản giáo luật cấm trao quyền giáo sĩ cho giáo dân, nhưng ngài bị bác bỏ. Ngài được thụ phong linh mục rồi được tấn phong giám mục và được bổ nhiệm về Peru, tại đây ngài thấy chủ nghĩa thực dân là tồi tệ nhất. Những người Tây ban nha xâm lăng phạm tội đàn áp dân bản xứ. Rất nhiều giáo sĩ lạm quyền, ngài là người đầu tiên gắn bó với vùng đất này.
Ngài bắt đầu đi kinh lý cả tổng giáo phận rộng lớn, học ngôn ngữ, ở lại mỗi nơi vài ngày, và ngài thường nhịn đói hoặc ngủ không có giường. Mỗi sáng ngài xưng tội với linh mục tuyên úy và sốt sáng dâng thánh lễ. Trong số những người ngài ban Bí tích Thêm sức có thánh Rôsa Lima, có thể cả thánh Martin de Porres. Sau năm 1590, ngài giúp một nhà truyền giáo vĩ đại là thánh Phanxicô Sôlanô. Dù rất nghèo nhưng các đệ tử của ngài luôn nhạy bén, ngại khi người khác bác ái với mình. Thánh Turibiô Mogrovejo giải quyết vấn đề bằng cách bí mật giúp đỡ họ.

Thứ Hai, 21 tháng 3, 2016

Thứ Ba Tuần Thánh Ga 13,21-33.36-38.

Lời Chúa: Một người trong anh em sẽ nộp Thầy… gà chưa gáy, anh đã chối Thấy ba lần.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Muôn lạy Vua Ki-tô, vì vâng lời Thánh Phụ, Ngài đã chịu dẫn đi đóng đinh vào thập giá, như con chiên hiền lành bị dẫn đi làm thịt.
Vì lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con trông đợi,
lạy Thiên Chúa, chính Ngài là Đấng con tin tưởng
ngay từ độ thanh xuân.
Từ thuở sơ sinh, con nương tựa vào Ngài,
Ngài đã kéo con ra khỏi lòng mẹ,

con ca tụng Ngài chẳng khi ngơi.

Ngày 22/03 – Thánh Nicôlas Owen, Tu sĩ Tử đạo (qua đời năm 1606)
Nicôlas, quen gọi là “Gioan Nhỏ”, vì ngài có vóc dáng nhỏ con nhưng lớn về sự đánh giá cao của các tu sĩ dòng Tên. Sinh tại Oxford, người thợ thủ công khiêm nhường này đã cứu sống nhiều linh mục và giáo dân ở Anh quốc trong thời kỳ bách đạo (1559-1829), lúc đó có nhiều đạo luật trừng phạt người Công giáo. Qua khoảng 20 năm, ngài dùng kỹ năng của mình để xây dựng những nơi bí mật khắp nước co các linh mục trú ẩn. Ngài vừa là kiến trúc sư vừa là thợ xây dựng nên các công trình của ngài giúp các linh mục không bị phát hiện. Ngài là một thiên tài trong việc tìm kiếm và tạo những nơi trú ẩn an toàn: những đường hầm, những chỗ nhỏ giữa các bức tường, những nơi hẻo lánh không thể bị thâm nhập. Ngài còn khéo léo cứu 2 tu sĩ dòng Tên thoát khỏi Tháp London (Tower of London). Bất kỳ khi nào ngài tạo những nơi trú ẩn, ngài đều rước Thánh Thể, và ngài thường cầu nguyện với Chúa lâu vì công việc xây dựng luôn có thể gặp nguy hiểm. Sau nhiều năm làm những việc “khác người”, ngài nhập dòng Tên và làm tu sĩ lao động (lay brother), nhưng ngài vẫn bí mật liên lạc với các tu sĩ dòng Tên.
Sau nhiều lần trốn thoát, ngài bị bắt năm 1594. Mặc dù bị hành hạ lâu ngày, ngài vẫn nhất quyết không khai danh tánh những người Công giáo khác. Sau khi được tha, ngài lại làm những việc như trước. Năm 1606, ngài lại bị bắt. Lần này ngài bị hành hạ dã man, và chết thảm thương. Các cai tù cố gắng nói ngài đã thú tội và tự tử, nhưng sự chịu khổ và cái chết anh dũng của ngài ai cũng biết. Ngài được phong thánh năm 1970, và là một trong 40 vị thánh tử đạo của Anh quốc và xứ Wales.

Chủ Nhật, 20 tháng 3, 2016

Thứ Hai Tuần Thánh Ga 12, 1-11.

Lời Chúa: Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho mai táng Thầy.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Muôn lạy Vua Ki-tô, chỉ có Ngài thương đến thần dân tội lỗi.
Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.
Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào !

Hãy trông cậy vào Chúa.

Ngày 21/03 – Chân phước Gioan Parma, Linh mục (1209-1289)
Thánh Gioan Parma là Bề trên Tổng quyền thứ bảy của dong Phanxicô, ngài nổi tiếng về việc cố gắng khôi phục tinh thần dòng lúc đầu sau khi thánh Phanxicô Assisi qua đời. Ngài sinh năm 1209, tại Parma, Ý. Khi đó, ngài là giáo sư trẻ dạy triết học, có tiếng thương người và nhận biết Chúa gọi mình từ giã thế gian để vào dòng Phanxicô. Sau khi khấn dòng, ngài được gởi tới Paris để học thần học. Sau khi thụ phong linh mục, ngài dạy thần học tại Bologna, rồi dạy tại Naples và tại Rôma.
Năm 1245, ĐGH Innocent IV triệu tập công đồng tại Lyons, Pháp. Bề trên tổng quyền dòng Phanxicô lúc đó là Crescentiô bị bệnh nên không thể đi dự công đồng, LM Gioan được sai đi thay và ngài đã gây ấn tượng nhiều đối với các vị lãnh đạo giáo hội tại công đồng. Hai năm sau, khi chủ tọa buổi bầu cử bề trên tổng quyền dòng Phanxicô, ĐGH Innocent IV nhớ đến LM Gioan và đã đề cao các đức tính của ngài.
Năm 1247, Gioan Parma được bầu làm bề trên tổng quyền. Cả dòng đều hân hoan vì cuộc bầu chọn này, hy vọng tinh thần khó nghèo và khiêm nhường ban đầu của dòng sẽ được khôi phục. Nhưng rồi mọi người thất vọng khi bề trên tổng quyền Gioan với vài người đi bộ tới các nhà dòng. Đôi khi ngài đến mà không ai biết, ở lại đó vài ngày để tìm hiểu sự thật về tinh thần của các tu sĩ.
ĐGH mời ngài làm Khâm sứ Tòa thánh tại Constantinople, tại đây ngài thành công nhất trong việc thu phục được những người Hy Lạp ly khai. Khi trở về, ngài yêu cầu người khác đảm trách việc cai quản dòng. Theo ý ngài, Bonaventura được chọn làm người kế vị. Từ đó, LM Gioan Parma sống đời cầu nguyện âm thầm tại Greccio.
Nhiều năm sau, ngài biết người Hy Lạp đã ly khai dù đã hòa giải với giáo hội một thời gian. Dù đã 80 tuổi, ngài vẫn được phép của ĐGH Nicholas IV cho trở lại Đông phương để cố gắng cứu vãn sự hiệp thông. Nhưng trên đường đ, ngài ngã bệnh và qua đời. Ngài được phong chân phước năm 1781.

Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2016

Thứ Bảy Thánh Giuse Bạn Trăm Năm Đức Maria Lễ trọng.

Lời Chúa:Ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Lạy Chúa, phúc thay người ở trong thánh điện họ luôn luôn được hát mừng Ngài.
Người sẽ thưa với Ta: “Ngài chính là Thân Phụ,
là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ!”
Ta sẽ yêu thương Người đến muôn thuở

và thành tíngiữ giao ước với Người.

Ngày 19/03 – Thánh Giuse, Đức Phu Quân Đức Maria
Kinh thánh tặng cho thánh Giuse danh hiệu cao quý nhất: Đấng Công Chính. Phẩm chất đó có ý nghĩa hơn lòng trung tín trong việc thanh toán nợ nần.
Khi Kinh thánh nói về Thiên Chúa là Đấng “bào chữa”, nghĩa là Thiên Chúa là Đấng chí thánh và “công chính”, cũng biến đổi một người đã chia sẻ cách nào đó về sự thánh thiện của Thiên Chúa, và người đó thực sự “công chính” vì được Thiên Chúa yêu thương. Nói cách khác, Thiên Chúa không đùa giỡn, Thiên Chúa hành động như thể chúng ta đáng yêu ngay khi chúng ta không đáng yêu.
Nói thánh Giuse công chính, Kinh thánh có ý rằng ngài là người mở rộng lòng với tất cả mọi điều mà Thiên Chúa  muốn thực hiện nơi ngài. Ngài nên thánh nhờ mở rộng lòng mình ra với Thiên Chúa. Phần còn lại chúng ta có thể dễ suy đoán. Hãy nghĩ về dạng tình yêu mà ngài đã “tán tỉnh” và được lòng Đức Mẹ, độ sâu của tình yêu mà hai người chia sẻ trong đời sống hôn nhân.
Không có mâu thuẫn trong sự thánh thiện của thánh Giuse mà ngài muốn “ly dị” Đức Mẹ khi ngài thấy “người yêu” có thai bất tử. Những từ quan trọng trong Kinh thánh là ngài “định tâm lìa bỏ” vì ngài là “người công chính”, không muốn để vị hôn thê phải xấu hổ” (x. Mt 1:19). Người công chính này sống giản dị, vui vẻ, một lòng một dạ và toàn tâm toàn ý tuân phục Thiên Chúa – cưới Maria, đặt tên Con Trẻ là Giêsu, đưa mẹ con sang Ai cập, đưa mẹ con về Nadarét, nhiều năm sống âm thầm bằng đức tin và lòng can trường.

Chúa Nhật Lễ Lá Năm C

Tin Mừng: Lc 22,14 – 23,56
Khi giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn, và các Tông Đồ cùng vào với Người. Người nói với các ông: "Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa". Rồi Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: "Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau. Bởi vì, Thầy bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến".
Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy". Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: "Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.
"Nhưng này bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy. Đã hẳn Con Người ra đi như đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người". Các Tông Đồ bắt đầu bàn tán với nhau xem ai trong Nhóm lại là kẻ toan làm chuyện ấy.
Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giê-su bảo các ông: "Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Anh em thì không như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.
"Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en".
Rồi Chúa nói: "Si-mon, Si-mon ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh". Ông Phê-rô thưa với Người: "Lạy Chúa, với Chúa, con sẵn sàng vào tù, và có chết cũng cam". Đức Giê-su lại nói: "Này anh Phê-rô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy".
Rồi Người nói với các ông: "Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?" Các ông đáp: "Thưa Thầy, không". Người bảo các ông: "Nhưng bây giờ, ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai có bao bị cũng vậy; còn ai chưa có gươm thì bán áo đi mà mua. Vì Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất". Các ông nói: "Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây". Người bảo họ: "Đủ rồi!"
Rồi Người đi ra núi Ô-liu như đã quen. Các môn đệ cũng theo Người. Đến nơi, Người bảo các ông: "Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ". Rồi Người đi cách các ông một quãng, chừng bằng ném một hòn đá, và quỳ gối cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha". Bấy giờ có thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người. Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng lên, đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ vì buồn phiền, Người liền nói với các ông: "Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ".
Người còn đang nói, thì kìa một đám đông xuất hiện, và kẻ dẫn đầu tên là Giu-đa, một người trong Nhóm Mười Hai. Hắn lại gần Đức Giê-su để hôn Người. Đức Giê-su bảo hắn: "Giu-đa ơi! Anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?" Thấy việc sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: "Lạy Chúa,
chúng con tuốt gươm chém được không?" Thế rồi một người trong nhóm chém tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai bên phải. Nhưng Đức Giê-su lên tiếng: "Thôi, ngừng lại". Và Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành. Rồi Đức Giê-su nói với các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục đến bắt Người: "Các ông đem gươm giáo gậy gộc đến như thể bắt một tên cướp sao? Ngày ngày, tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ, mà các ông không tra tay bắt. Nhưng đây là giờ của các ông và quyền lực của tối tăm".
Họ bắt Đức Giê-su, điệu Người đến nhà vị thượng tế. Còn ông Phê-rô thì theo xa xa. Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì ông Phê-rô đến ngồi giữa họ. Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc và nói: "Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy!" Ông liền chối: "Tôi có biết ông ấy đâu, chị!" Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói: "Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng!" Nhưng ông Phê-rô đáp lại: "Này anh, không phải đâu!" Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết: "Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Ga-li-lê". Nhưng ông Phê-rô trả lời: "Này anh, tôi không biết anh nói gì!" Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: "Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần". Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.
Những kẻ canh giữ Đức Giê-su nhạo báng đánh đập Người. Chúng bịt mắt Người lại, rồi hỏi rằng: "Nói tiên tri xem: ai đánh ông đó?" Chúng còn thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Người.
Khi trời sáng, đoàn kỳ mục trong dân, các thượng tế và kinh sư nhóm họp. Họ điệu Người ra trước Thượng Hội Đồng và hỏi: "Ông có phải là Đấng Mê-si-a thì nói cho chúng tôi biết!" Người đáp: "Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời. Nhưng từ nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng". Mọi người liền nói: "Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?" Người đáp: "Đúng như các ông nói, chính tôi đây". Họ liền nói: "Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!" Toàn thể cử toạ đứng lên, điệu Đức Giê-su đến ông Phi-la-tô.
Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: "Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là Vua nữa". Ông Phi-la-tô hỏi Người: "Ông là Vua dân Do-thái sao?" Người trả lời: "Chính ngài nói đó". Ông Phi-la-tô nói với các thượng tế và đám đông: "Ta xét thấy người này không có tội gì". Nhưng họ cứ khăng khăng nói: "Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây". Nghe nói thế, ông Phi-la-tô liền hỏi xem đương sự có phải là người Ga-li-lê không. Và khi biết Người thuộc thẩm quyền vua Hê-rô-đê, ông liền cho gửi Người lên vua Hê-rô-đê, lúc ấy đang có mặt tại Giê-ru-sa-lem.
Vua Hê-rô-đê thấy Đức Giê-su thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi đã từng nghe nói về Người. Vả lại, vua cũng mong được xem Người làm một hai phép lạ. Nhà vua hỏi Người nhiều điều, nhưng Người không trả lời gì cả. Các thượng tế và kinh sư đứng đó, tố cáo Người dữ dội. Vua Hê-rô-đê cùng với bọn lính tỏ ra khinh dể Người, khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu, rồi cho giải Người lại cho ông Phi-la-tô. Ngày hôm ấy, vua Hê-rô-đê và tổng trấn Phi-la-tô bắt đầu thân thiện với nhau, chứ trước kia hai bên vẫn hiềm thù.
Bấy giờ ông Phi-la-tô triệu tập các thượng tế, thủ lãnh và dân chúng lại mà nói: "Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi tố cáo. Cả vua Hê- rô-đê cũng vậy, bởi lẽ nhà vua đã cho giải ông ấy lại cho chúng ta. Và các ngươi thấy đó, ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra". Vào mỗi dịp lễ lớn, ông Phi-la-tô phải phóng thích cho họ một người tù. Nhưng tất cả mọi người đều la ó: "Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi!" Tên này đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người. Ông Phi-la-tô muốn thả Đức Giê-su, nên lại lên tiếng một lần nữa. Nhưng họ cứ một mực la lớn: "Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá!" Lần thứ ba, ông Phi-la-tô nói với họ: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra". Nhưng họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la càng thêm dữ dội. Và ông Phi-la-tô phán quyết chấp thuận điều họ yêu cầu. Ông phóng thích người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và giết người. Còn Đức Giê-su thì ông trao nộp theo ý họ muốn.
Khi điệu Đức Giê-su đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su. Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. Đức Giê-su quay lại phía các bà mà nói: "Hỡi chị em thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu của chị em. Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói: "Phúc thay những đàn bà hiếm hoi, những lòng dạ không sinh không đẻ, những kẻ không cho bú mớm!" Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi!, và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi! Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?" Có hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người.
Khi đến nơi gọi là "Đồi Sọ", họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm". Rồi họ bắt thăm mà chia nhau áo của Người.
Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo n: "Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô, của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!" Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi!" Phía trên đầu Người, có bản án viết: "Đây là vua người Do-thái".
Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!" Nhưng tên kia mắng nó: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!" Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: "Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!" Và Người nói với anh ta: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng".
Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. Mặt trời tối đi. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa. Đức Giê-su kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở.
(quỳ gối, thinh lặng trong giây lát)
Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: "Người này quả thật là công chính!". Và khi thấy những việc xảy ra như thế, tất cả những đám người đã tụ tập đông đảo để xem cảnh tượng ấy đều đấm ngực trở về nhà. Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng kiến những việc ấy.

Và này có một người tên là Giô-xép, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương thiện, công chính. Ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng. Ông là người thành A-ri-ma-thê, một thành của người Do-thái, và cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa. Ông đến gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ. Hôm ấy là áp lễ, và ngày sa-bát đã ló rạng. Cùng đi với ông Giô-xép, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào. Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền.

SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
      Bài Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, chúng ta nhớ lại kỷ niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem được dân chúng đón rước long trọng. Biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem như một vị vua, gắn liền với những gì xảy đến cho Chúa vào những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa. Sau ba mươi năm sống âm thầm làm nghề mộc khiêm tốn ở Nararét, rồi Chúa đã công khai rao giảng Tin Mừng suốt ba năm khắp đất nước Dothái với những thành công và thất bại. Hôm nay cuộc khổ nạn cũng là lúc diễn tả rõ rệt nhất các nét đặc thù trong gương mặt của Chúa Giêsu. Theo thánh sử Luca, trước hết là tinh thần cầu nguyện. Chúa Giêsu đã gia tăng lời cầu nguyện trong những ngày này và những giây phút cuối đời của Ngài, lời cầu nguyện thống thiết trong vườn Cây Dầu trước khi Chúa Giêsu bị bắt là chứng tích rõ ràng nhất. Càng phải đương đầu với thử thách bắt bớ và khổ đau, Chúa Giêsu càng tín thác tha thiết kết hợp với Chúa Cha, cho dù Ngài có cảm tưởng Chúa Cha làm thinh và nhưng bỏ rơi Ngài. Tiếp đến là lòng nhân từ thương xót của Chúa Giêsu Kitô đối với những người tội lỗi, Chúa Giêsu thương chữa tên đầy tớ thầy thượng phẩm bị chém đứt tai. Nhân từ thương xót với thánh Phêrô đã chối Ngài ba lần, Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô nhân từ, thương xót. Đối với những người đã đóng đinh Ngài: "Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm". Nhân từ thương xót với người ăn trộm bị xử cùng lúc với Ngài: "Hôm nay ngươi sẽ ở cùng Ta trên Thiên Đàng".
     Bốn mươi ngày tập luyện đã qua đi nhưng chặng đường trước mắt chúng ta vẫn còn dài, hết 40 ngày Mùa Chay không có nghĩa là chúng ta được quyền nghỉ ngơi để bù lại những ngày gian khổ hy sinh. Cuộc chiến đấu để vượt thắng bản thân và sự dữ vẫn kéo dài đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta. Tuần Thánh mà chúng ta sắp bước vào nói lên những quyết liệt của cuộc chiến này, chúng ta hãy bước vào Tuần Thánh với những gì chúng ta đã tập tành được trong 40 ngày Mùa Chay. Hãy theo Chúa Giêsu để Người tiếp tục dạy ta cách sống thế nào cho phù hợp với thánh ý Chúa Cha, hãy theo Chúa Giêsu để Ngài dạy chúng ta cách từ bỏ bản thân, chết đi trong tinh thần vâng phục và sống lại nhờ tín thác hoàn toàn vào niềm tin của Chúa Kitô Phục sinh mà giờ đây chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng đức tin của mình qua kinh Tin Kính.
      Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin giúp cho mỗi người chúng con biết rà xét lại lối sống của mình để ăn năn thống hối về lời nói việc làm của chúng con, dù là vô tình hay hữu ý đã và đang gây đau khổ cho người khác. Nguyện xin Chúa Giêsu, Đấng đã chết vì tội lỗi chúng con và xin ban ơn tha thứ và giúp chúng con chỉnh sửa lại lối sống của mình. Amen.

Ngày 20/03 – Thánh Salvator Horta (1520-1567)
Nổi tiếng về sự thánh thiện đôi khi cũng có một số bất lợi. Việc công chúng nhận biết đôi khi có thể là sự rầy rà – như bạn bè của Salvator nhận thấy.
Salvator sinh trong thời hoàng kim của Tây ban nha. Nghệ thuật, chính trị và của cải đều hưng thịnh. Tôn giáo cũng vậy. Thánh Inhaxiô Loyola đã lập dòng Tên năm 1540.
Cha mẹ của Salvator nghèo. Lúc 21 tuổi, ngài nhập dòng Phanxicô và nổi tiếng sống khắc khổ, khiêm nhường và giản dị.
Ngài nấu ăn, khuân vác và đi hành khất ở Tortosa. Ngài còn nổi tiếng về đức bác ái. Ngài dùng Dấu Thánh Giá để chữa lành bệnh nhân. Khi thấy nhiều bệnh nhân đến tu viện xin gặp tu sĩ Salvator, các tu sĩ đã chuyển ngài tới Horta. Các bệnh nhân vẫn kéo đến để xin ngài chữa bệnh. Số bệnh nhân tới gặp ngài lên đến 2.000 người mỗi tuần. Ngài khuyên họ xét mình, xưng tội và rước lễ hằng tháng. Ngài từ chối cầu nguyện cho những người không đón nhận các bí tích này.
Ngài không rảnh vì người ta biết đến ngài quá nhiều. Đôi khi các bệnh nhân còn xé mảnh áo ngài làm di vật. Hai năm trước khi qua đời, ngài lại phải thuyên chuyển đến Cagliari trên đảo Sardinia. Ngài qua đời tại Cagliari khi ngài cầu nguyện bằng lời thánh vịnh: “Trong tay Ngài, lạy Chúa, con phó thác linh hồn con”. Ngài được phong thánh năm 1938.