Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014

Thứ Tư Lễ Kính Thánh Têrêsa Hài Giê-su Trinh Nữ tiến sĩ Hội Thánh Bổn Mạng các xứ truyền giáo.



Lời Chúa: Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
“ Ha-lê-lui-a. Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mạc khải Nước Trời cho những người bé mọn. Ha-lê-lui-a.”
Hồn con , con vẫn trước sau
Giữ cho thinh lặng giữ sao thanh bình
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ
Trong con hồn lặng lẻ an vui

Cậy vào Chúa Ítraen, từ nay đến mãi muôn đời.


Ngày 01/10-Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, Trinh nữ Tiến sĩ (1873-1897)

“Tôi thích sự đơn điệu của sự hy sinh vô danh tới mức xuất thần. Nhặt một cây kim vì yêu mến cũng có thể hoán cải một linh hồn”. Đó là câu nói giản dị mà vĩ đại của thánh Têrêsa, nữ tu Dòng Kín có biệt danh “Bông hoa nhỏ”, chỉ sống trong bốn bức tường nhà dòng ở Lisieux, Pháp quốc, mà trở thành. Sống vô danh tiểu tốt nhưng tác động mạnh đến Giáo hội đến nỗi thánh nhân được tôn vinh là Tiến sĩ Giáo hội và là bổn mạng các nơi truyền giáo. Chị thích hy sinh thầm lặng để cứu các linh hồn. Chị để lại cho chúng ta cuốn “Một tâm hồn” (The Story of a Soul), đây là cuốn sách được rất nhiều người đọc và yêu quý. Chị tên thật là Thérèse Martin, vào Dòng Kín khi mới 15 tuổi (phải có phép chuẩn của Giáo hoàng) và qua đời năm 1897 khi mới 24 tuổi.
Cả đời chị chỉ làm những việc rất ư bình thường, nhưng chị sở hữu sự thấu suốt thánh thiện. Chị thấy được trong nỗi đau khổ thầm lặng có sự đau khổ cứu độ, chính đau khổ là việc tông đồ của chị. Chị nói rằng chị đi tu Dòng Kín “để cứu các linh hồn và cầu nguyện cho các linh mục”. Tinh thần truyền giáo của chị cao đến nỗi chị khao khát được làm linh mục, và muốn học cổ ngữ để hiểu rõ Kinh thánh qua bản văn cổ. Không lâu trước khi qua đời, chị viết: “Tôi muốn dùng Nước Trời của tôi để làm những điều tốt lành trên thế gian”.
Ngày 19-10-1997, chân phước GH Gioan Phaolô II tôn vinh chị là Tiến sĩ Giáo hội, phụ nữ thứ ba được nhận biết qua sự thánh thiện và ảnh hưởng của huấn giáo tâm linh trong Giáo hội.

Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014

Thứ Ba Lễ Nhớ Thánh Giêrônimô linh mục tiến sĩ Hội Thánh.



Lời Chúa: Cả cái mới lẫn cái cũ.
“ Ha-lê-lui-a. Lạy Chúa Giê-su, xin mở trí cho chúng con hiểu lời Kinh Thánh. Và khi Chúa phán dạy, xin đốt lòng chúng con cháy lửa nồng nàn. Ha-lê-lui-a.”
Lời Chúa hứa lòng con ấp ủ
Để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung
Lạy Chúa con dâng lời ca tụng

Thánh chỉ Ngài xin dạy cho con.


Ngày 30/09 -Thánh Giêrônimô, Linh mục Tiến sĩ (345-420)
Thánh Giêrônimô có tính rất xấu là viết gay gắt, nhưng ngài rất yêu mến Chúa.
Ngài còn hơn một học giả Kinh thánh, dịch hầu hết các sách Cựu ước từ tiếng Hê-brơ (cổ ngữ Do Thái). Ngài còn viết những bài phê bình được cảm hứng từ Kinh thánh mà chúng ta có ngày nay. Ngài tư vấn cho tu sĩ, giám mục và giáo hoàng. Thánh Augustinô nói về ngài: “Những gì thánh Giêrônimô không biết, không quan trọng”.
Thánh Giêrônimô rất quan trọng đối với bản dịch Kinh thánh Vulgata (bản phổ thông). Đó không là bản dịch chính thức, nhưng được Giáo hội chấp nhận. Công đồng Trentô mời gọi bản dịch mới và chỉnh sửa từ bản Vulgata, và tuyên bố là bản chính thức của Giáo hội.
Để làm được như vậy, thánh Giêrônimô đã chuẩn bị kỹ lưỡng. Ngài giỏi tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, tiếng Hê-brơ và tiếng Chaldaic. Ngài bắt đầu học từ sinh quán của ngài ở Stridon thuộc Dalmatia (trước là Yugoslavia). Sau đó ngài học ở Rôma, trung tâm học tập thời đó, và rồi tới Trier, Đức quốc, nơi có nhiều chứng cớ. Mỗi nơi ngài ở vài năm, luôn cố tìm thầy giỏi nhất.
Sau đó ngài tới Palestine. Ngài là nhà thần bí (mystic), sống ở sa mạc Chalcis 5 năm để cầu nguyện, đền tội và học nghiên cứu. Cuối cùng ngài tới Belem, nơi sinh sống của Chúa Giêsu. Ngày 30-9-420, ngài qua đời tại Belem. Hiện nay hài cốt ngài được đặt tại Nhà thờ Đức Bà Cả (Basilica of St. Mary Major) ở Rôma. Ngài là bổn mạng các dịch giả.

Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2014

Thứ Hai Lễ kính Các Tổng Lãnh Thiên Thần Michael - Gabriel - Raphael .



Lời Chúa: Các anh sẽ thấy các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.
“ Ha-lê-lui-a. Chúc tụng Chúa đi, toàn thể thiên binh hằng hầu cận và tuân hành thánh ý. Ha-lê-lui-a.”
Lạy Chúa, mọi đế vương dưới trần gian đều cảm tạ
Khi nghe những lời miệng Ngài phán ra
Họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa

Vinh quang Chúa vĩ đại dường bao!.


Ngày 29/09 –Các tổng lãnh thiên thần Michael, Gabriel and Raphael

Các Thiên Thần là những thiên sứ của Chúa xuất hiện nhiều trong Thánh Kinh, nhưng chỉ có thiên thần Micae, Gabriel và Raphael được nhắc đến tên mà thôi.
Thiên thần Micae xuất hiện trong thị kiến của tiên tri Danien như là "đại hoàng tử" để bảo vệ dân Israel khỏi những kẻ thù tấn công. Trong sách Khải Huyền, Thiên thần Micae dẫn đoàn quân của Chúa đến chiến thắng sau cùng trên quyền lực của ma quỷ. Lòng sùng kính thiên thần Micae đã có từ cổ xưa nhất, thịnh hành ở phương Ðông vào thế kỷ thứ 4. Giáo hội phương Tây bắt đầu lễ kính quan thầy thiên thần Micae và các thiên thần vào thế kỷ thứ 5.

Thiên thần Gabriel cũng xuất hiện trong thị kiến của tiên tri Danien, để công bố xứ mệnh của thiên thần Micae trong chương trình của Thiên Chúa. Sự xuất hiện nổi bật nhất của Thiên thần Gabriel là cuộc diện đàn với thiếu nữ Dothái tên là Maria (tức Ðức Mẹ Maria), Người vâng phục cưu mang Chúa Cứu Thế.
Những hoạt động của Thiên thần Raphael được thu gọn trong Cựu Ước của sách Tôbít. Thiên thần Raphael hiện ra để hướng dẫn con trai của Tôbít là Tôbia qua những đoạn trường mạo hiểm ly kỳ, đưa đến kết thúc ba niềm vui, đó là: Tobia thành hôn với Sara, Tobia được chữa khỏi bệnh mù, và phục hồi gia sản của gia đình.

 Lễ kính nhớ thiên thần Gabriel là ngày 24 tháng 3, thiên thần Raphael ngày 24 tháng 10 đã được ghi vào lịch Rôma vào năm 1921. Năm 1970, lịch được sửa đổi nhập chung hai ngày lễ kính này với ngày lễ kính thiên thần Micae.
 Lời Bàn
Mỗi tổng lãnh thiên thần có những sứ mệnh khác nhau trong Thánh Kinh: thiên thần Micae bảo vệ, thiên thần Gabriel loan báo, thiên thần Raphael hướng dẫn. Ngày xưa, người ta tin rằng những biến cố không thể giải thích được, là do các việc làm của thần linh để tỏ lối cho cái nhìn của thế giới khoa học về một cảm nhận của nguyên nhân và ảnh hưởng khác. Tuy thế, những người có niềm tin vẫn kinh nghiệm về sự bảo vệ, liên lạc và hướng dẫn của Thiên Chúa trong những cách không diễn tả được. Chúng ta không thể coi nhẹ các thiên thần.

Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2014

Lễ Khai Giảng Năm Học Giáo Lý Niên Khóa 2014-2015



       Khí trời tươi mát của buổi sáng sớm, tiếng chim kêu ríu rít trên mái hiên nhà thờ Giáo xứ Bình Minh, ở dưới mặt đất các bậc phụ huynh đưa đón các em vào nhà nguyện, nhìn sắc mặt các em hôm nay rạng rỡ và hồng hào hẳn lên sau ba tháng hè hạnh phúc với những kế hoạch vui chơi hay những chuyến du lịch dài hạn, vào giờ phút này đây, các em được tề tựu lại dưới ngôi Thánh đường nhỏ bé nhưng thân quen và ấm cúng để chuẩn bị cho một nghi lễ long trọng : Lễ Khai giảng năm học Giáo Lý mới.
       Sáng Chúa Nhật, 14/09/2014 – lúc 7g, các em Thiếu Nhi có mặt đông đủ để thưa kinh và tập hát trước Thánh lễ. Đúng 7g30, Thánh lễ chính thức bắt đầu. Vẫn như mọi khi, Thánh lễ hôm nay do Cha Chánh xứ Giuse Vũ Duy Bảo làm chủ tế, Cha cúi bái và bước lên bàn thờ trong khi ca đoàn và các em Thiếu Nhi cất bài ca nhập lễ thật thiêng liêng và du dương. Hôm nay cũng là lễ Suy Tôn Thánh Giá, nên bài giảng của Cha tập trung vào Chúa Giêsu và cuộc khổ nạn của Người, bắt đầu với câu chuyện về việc tìm được cây thập giá Chúa chịu chết khi xưa, các em chăm chú lắng nghe, lúc ấy các em mới thật đáng yêu và dễ thương làm sao. Sau bài giảng của Cha chủ tế và Kinh Tin Kính, Giáo xứ trở nên thinh lặng để chuẩn bị cho một nghi thức cũng không kém quan trọng của buổi lễ hôm nay, nghi thức Tuyên thệ của các thầy cô và anh chị Giáo Lý viên. Đây là nghi thức không chỉ làm cho riêng các thầy cô, anh chị Giáo Lý viên, nhưng còn để cho các em Thiếu Nhi thấy được tính quan trọng của việc học Giáo Lý, không phải ai cũng có thể đứng lớp dạy Giáo Lý, người dạy Giáo Lý phải qua tuyển chọn kỹ càng của Cha Chánh xứ, nên giờ phút này đây, họ mới đứng giữa nhà thờ để tuyên thệ : hứa phục vụ các em Thiếu Nhi bằng tấm lòng bác ái, hy sinh vô vị lợi, để các em cảm nhận được sự quan tâm không chỉ của cha mẹ ở nhà, mà còn có các thầy cô, anh chị Giáo Lý viên trong nhà thờ nữa. Sau đó là Lời nguyện tín hữu và nghi thức Phụng Vụ Thánh Thể.
        Trước khi Thánh lễ kết thúc, Giáo xứ Bình Minh lại tiếp tục với một nghi thức nữa, chỉ cử hành một năm một lần, đó là nghi thức Trao Khăn cho các em chuyển cấp. Đây là một nghi thức được đánh giá là hết sức quan trọng đối với các em Thiếu Nhi, nghi thức này đánh dấu sự trưởng thành của các em khi chuyển từ cấp nhỏ sang một cấp bậc lớn hơn, màu sắc của khăn sẽ chuyển đổi theo cấp độ trong đại Gia đình Thiếu Nhi Thánh Thể, để các em nhận ra mình đã lớn hơn so với năm trước và ý thức về trách nhiệm cũng như bổn phận của các em đối với Giáo Hội nói chung và với Gia đình Thiếu Nhi Thánh Thể Giáo xứ Bình Minh nói riêng.
        Thánh lễ kết thúc một cách trọn hảo. Để có buổi lễ tốt đẹp như ngày hôm nay, phải kể đến công lao của Cha Chánh xứ, quý sơ, quý thầy cô và anh chị Giáo Lý viên, đã có sự đầu tư, chuẩn bị từ trước để các em Thiếu Nhi nhận thấy rằng chúng luôn được quan tâm, để các em nhận ra rằng, Thánh lễ hôm nay thật long trọng và các em sẽ nhớ đến ngày đặc biệt của hôm nay.

         Sau Thánh lễ, Cha Chánh xứ mời từng khối lớp lên chụp hình cùng Cha và tấm cuối cùng sẽ chụp Đại Gia đình Thiếu Nhi Thánh Thể Giáo xứ Bình Minh. Kế đến, Cha đọc danh sách từng lớp và gửi các em cho từng Sơ, từng thầy cô, anh chị Giáo Lý viên cũng như phân công góc học tập suốt năm học. Quý sơ, quý thầy cô, và anh chị Giáo Lý viên sau khi nhận lớp thì sinh hoạt đôi chút với các em, làm quen với các em, kiểm tra lại danh sách lớp cũng như bầu chọn lớp trưởng/phó cho lớp, những em nào còn chưa có khăn quàng hay chưa mua sách thì quý sơ, quý thầy cô và các anh chị sẽ hướng dẫn tận tình.










Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm A.



Lời Chúa: Nó hối hận, nên lại đi. Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.

       Khi ấy, Đức Giê-su nói với các thượng tế và kỳ mục trong dân rằng : “Các ông nghĩ sao ? Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất : ‘Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.’ Nó đáp : ‘Con không muốn !’ Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp : ‘Thưa ngài, con đây !’ nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha ?” Họ trả lời : “Người thứ nhất.” Đức Giê-su nói với họ : “Tôi bảo thật các ông : những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy ; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”


SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN.
       Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu nói, Chúa Giê-su là, Đấng đã dạy các thượng tế và kỳ mục trong dân biết rằng, điều quan trọng nhất trong cuộc đời là thi hành thánh ý của Thiên Chúa. Những ai đã chót dại mà từ chối thi hành thánh ý của Thiên Chúa lúc ban đầu, ví dụ: như những người thu thuế và những cô gái điếm trong dụ ngôn, thì thay đổi suy nghĩ mà hoán cải cũng chưa muộn. Còn những ai chỉ biết nói vâng nói dạ bằng môi bằng miệng, mà không có lòng sám hối ăn năng, ví dụ: như các thượng tế và kỳ mục trong dân của dụ ngôn, thì hãy coi chừng.
       Trong lời Người giảng dạy còn cho chúng ta thấy rõ, điều quan trọng hơn chính là thi hành ý muốn của người cha, đó là đi làm vườn nho. Chúa nói: “Như ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy”. Sám hối đây chưa hẳn là đã sửa đổi được mình, cho dầu nỗ lực vươn tới là dấu chỉ cần thiết của chân thành sám hối, nhưng chính yếu ở việc đón nhận ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho. Sứ điệp của ông Gioan “Hãy sám hối!”, tức là hãy cải tà qui chính trở về với Thiên Chúa, đã được chính Đức Giê-su nói: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!” tức là tin vào Đức Ki-tô Giê-su mạc khải tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Sứ điệp này quả chất chứa một nội dung rất Tin Mừng! Trong số những người thu thuế và gái điếm tin vào ông Gioan không phải tất cả đều đã đổi đời hoàn lương, nhưng tất cả họ đều đã khám phá ra và đón nhận lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và tin vào Tin Mừng. Chính ở điểm này mà họ trở nên khác hẳn các thượng tế và kỳ mục, tức các đấng bậc được coi là vị vọng trong dân, và họ đã trở nên công chính theo Tin Mừng.
       Chúa nói: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Như thế rõ ràng là để vào được Nước Trời, điều kiện quan trọng hơn cả là, thông qua sám hối những lỗi lầm đã phạm, mỗi người chúng ta nhận ra tình yêu cứu độ Thiên Chúa đang tuôn đổ trên chúng ta, và chúng ta khiêm tốn mở lòng đón nhận. Các Pha-ri-sêu đã không thể đạt tới được sự công chính ấy: “Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.” Vâng, cuộc sống mỗi Ki-tô hữu chúng ta là vâng nghe lời Chúa và giữ đạo tử tế, làm các việc lành phúc đức, nỗ lực tu thân tích đức, sống bác ái, tông đồ phục vụ v.v… Nhưng đồng thời cũng có những yếu đuối lỗi lầm đã phạm thế nào đi nữa, thì lúc này đây, điều quan trọng hơn hết đối với mọi người chúng ta vẫn phải đi làm vườn nho, tức là khiêm tốn nghe lời kêu gọi sám hối của ông Gioan. Để thật lòng tin vào Tin Mừng cứu độ mà Đức Ki-tô Giê-su đã mang lại cho mọi người chúng ta.
       Lạy Chúa, Chúa thích những con người chân thật: dám hứa dám làm, dám chịu trách nhiệm điều mình đã nói. Và việc làm, mới nói lên tất cả, và đó mới là sự thật. Xin cho chúng con biết xa lánh những hạng người gĩa dối và lối sống điêu ngoa. Xin cho chúng con luôn biết hối hận về những lỗi lầm của mình và thực tâm trở về với Chúa, vì Chúa luôn yêu thương những tâm hồn khiêm nhường và hiền hậu.   Amen.


Ngày 28/09 -Thánh Venceslaô, Tử đạo (907?-929)
Thánh Venceslaô (Wenceslaus) ủng hộ các giá trị Kitô giáo ngay giữa các âm mưu chính trị tiêu biểu của Bohemia hồi thế kỷ X.
Ngài sinh gần Prague, con của công tước vùng Bohemia. Người mẹ của ngài là bà Ludmilla đã nuôi dạy ngài và tìm cách nâng ngài lên làm người lãnh đạo vùng Bohemia thay cho bà. Bà Ludmilla ủng hộ các phe chống Kitô giáo nhưng cuối cùng bị giết chết, nhưng lực lượng đấu tranh của Kitô giáo đã chiến thắng, và ngài có thể lãnh đạo chính phủ.
Cách cai trị của ngài nổi bật bằng các nỗ lực đoàn kết vớiBohemia, ủng hộ Giáo hội và thương thuyết hòa bình với Đức quốc. Chính sách của ngài khiến ngài gặp rắc rối với sự đối lập chống Kitô giáo. Em trai ngài là Boleslav đã tham gia âm mưu, và tháng 9 năm 929, Boleslav đã mời ngài tời Alt Bunglou mừng lễ thánh Cosmas và Đamianô. Trên đường đi dự lễ, ngài bị Boleslav tấn công, và ngài bị giết chết dưới tay những kẻ ủng hộ Boleslav.
Dù vậy, ngài vẫn được coi là tử đạo vì đức tin, mộ ngài là nơi được nhiều người hành hương kính viếng. Ngài được tôn vinh là thánh bổn mạng của nhân dân Bohemia và Tiệp Khắc (nay là Cộng hòa Séc và Slovakia).

Thứ Bảy Lễ Nhớ Thánh Vinh Sơn Phaolô Linh Mục.



Lời Chúa: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời. Các ông sợ không dám hỏi lại Người về lời ấy.
“ Ha-lê-lui-a. Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh. Ha-lê-lui-a.”
Ngài cuốn đi chúng chỉ là giấc mộng
Như cỏ đồng trổi mọc lúc ban mai
Nở hoa vươn mạnh sớm ngày

Chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.


Ngày 27/09 –Thánh Vinh Sơn Phaolô, Linh mục (1580?-1660)
Việc giải tội cho một người hấp hối đã giúp ngài thấy nhu cầu tâm linh cấp bách của dân quê nước Pháp. Đây có vẻ là khoảnh khắc quan trọng trong cuộc đời của một người xuất thân từ một nông trại nhỏ ở Gascony, Pháp quốc, và trở thành linh mục.
Chính nữ bá tước Gondi đã thuyết phục chồng tài trợ một nhóm các nhà truyền giáo nhiệt thành có thể hoạt động giữa những người nghèo, các thuộc hạ, tá điền và dân quê nói chung. Thánh Vinh Sơn mới đầu khiêm nhường không nhận chức lãnh đạo, nhưng sau một thời gian hoạt động ở Paris giữa những nô lệ bị tù, ngài trở thành người lãnh đạo của nhóm người mà nay là Dòng Truyền giáo (Congregation of the Mission), còn gọi là Dòng Vinh Sơn (Vincentians). Các linh mục này – với 4 lời khấn: Khó nghèo, Khiết tịnh, Vâng lời và Kiên định – hoàn toàn dấn thân phục vụ mọi người ở các nơi xa xôi hẻo lánh.
Sau đó ngài lập Hội Bác Ái (Confraternities of Charity) để xoa dịu nỗi đau tinh thần và thể lý của người nghèo và người bệnh. Với sự giúp đỡ của thánh nữ Louise de Marillac, có thêm Dòng Nữ tử Bác ái (Daughters of Charity), có các phòng bệnh nhân, nhà nguyện là nhà thờ giáo xứ, hành lang là đường phố. Ngài quy tụ các phụ nữ giàu có ở Paris để gây quỹ cho việc truyền giáo, mở các bệnh viện, gây quỹ cho các nạn nhân chiến tranh và chuộc hơn 1.200 nô lệ người Bắc Phi. Ngài nhiệt thành trong việc hướng dẫn tĩnh tâm cho các giáo sĩ nguội lạnh, lạm dụng và khinh suất. Ngài là người tiên phong trong việc đào tạo giáo sĩ và thành lập chủng viện.
Đáng nói là ngài là người rất nóng tính (very irascible person), bạn bè ngài cũng phải công nhận điều đó. Ngài nói rằng nếu không có ơn Chúa thì ngài gay gắt, lạnh lùng, thô lỗ và bực bội. Nhưng ngài đã thuần hóa thành dịu dàng và trìu mến, rất nhạy cảm với nhu cầu của người khác. ĐGH Leo XIII tôn ngài làm bổn mạng các hội từ thiện. Nổi bật trong số đó là Hội Vinh Sơn Phaolô (Society of St. Vincent de Paul), được chân phước Frederic Ozanam thành lập năm 1833.

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2014

Thứ Sáu Tuần XXV Thường Niên



Lời Chúa: Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu đau khổ nhiều.
“ Ha-lê-lui-a. Con Người đến để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người. Ha-lê-lui-a.”
Lạy Chúa con người có là chi, mà Chúa cần biết đên ?
Phàm nhân đáng là gì, mà Chúa phải lưu tâm ?
Ấy con người khác chi hơi thở
Vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu.


Ngày 26/09 -Các thánh Cosmas và Đamianô, Tử đạo (qua đời năm 303?)
Không ai biết gì nhiều về cuộc đời các ngài ngoài việc các ngài tử đạo tại Syria trong thời bách hại của Diocletianô.
Lòng sùng kính hai vị thánh này lan rộng nhanh chóng cả ở Đông phương và Tây phương. Một đền thờ được xây dựng dâng kính các ngài ở Constantinople. Tên các ngài được ghi trong Kinh nguyện Thánh Thể, có thể từ thế kỷ VI.
Tương truyền các ngài là anh em song sinh ở Ả Rập, đều là bác sĩ giỏi. Các ngài được sùng kính ở Đông phương với danh xưng la “những người không tiền” (moneyless ones), vì các ngài không lấy tiền ai khi chữa bệnh cho người ta. Những người nổi bật như vậy không thể không bị “lưu ý”, thế nên các ngài đã bị bắt và bị chém đầu.


Thứ Năm Tuần XXV Thường Niên



Lời Chúa: Ông Gioan, chính ta đã chém đầu rồi ! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế.
“ Ha-lê-lui-a. Chúa nói: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Ha-lê-lui-a.”
Xin cho đoàn con được no say tình Chúa
Để mai ngày được hớn hở vui ca
Xin cho chúng con được vui hưởng
Lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con

Việc tay chúng con làm xin Ngài củng cố.


Ngày 25/09 -Thánh Elzear (1286-1323) và Chân phước Delphina (1283-1358)
Ông Elzear sinh trưởng trong một gia đình quý tộc ở Nam Pháp. Sau khi ông kết hôn với bà Delphina, bà cho ông biết rằng bà đã khấn giữ đồng trinh trọn đời, và ngay đêm tân hôn ông cũng khấn hứa như vậy. Ông Elzear là Bá tước vùng Ariano, đã từng tư vấn cho Công tước Charles vùng Calabria ở Nam Ý. Bằng công lý, ông Elzear đã cai trị lãnh địa của mình ở vương quốc Naples và ở Nam Pháp.
Ông Elzear và bà Delphina cùng vào Dòng Ba Phanxicô và dấn thân làm việc từ thiện. Mỗi ngày có 12 người nghèo cùng ăn với họ. Bức tượng thánh Elzear cho thấy ngài đã chữa nhiều bệnh nhân phong.
Họ cùng điều hành một trại phong. Mọi người tham dự thánh lễ hàng ngày, xưng tội hàng tuần và sẵn sàng tha thức mọi xúc phạm lẫn nhau. Sau khi ông Elzear qua đời, bà Delphina tiếp tục công việc từ thiện hơn 35 năm. Đặc biệt bà quan tâm nâng mức độ luân lý ở triều đình của vua Sicily.
Thánh Elzear và chân phước Delphina được an táng tại Apt, Pháp quốc. Ông được phong phong thánh năm 1694, còn bà được phong chân phước năm 1936.

Thứ Tư, 24 tháng 9, 2014

Thứ Năm Tuần XXV Thường Niên



Lời Chúa: Ông Gioan, chính ta đã chém đầu rồi ! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế.
“ Ha-lê-lui-a. Chúa nói: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Ha-lê-lui-a.”
Xin cho đoàn con được no say tình Chúa
Để mai ngày được hớn hở vui ca
Xin cho chúng con được vui hưởng
Lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con

Việc tay chúng con làm xin Ngài củng cố.


Ngày 25/09 -Thánh Elzear (1286-1323) và Chân phước Delphina (1283-1358)
Ông Elzear sinh trưởng trong một gia đình quý tộc ở Nam Pháp. Sau khi ông kết hôn với bà Delphina, bà cho ông biết rằng bà đã khấn giữ đồng trinh trọn đời, và ngay đêm tân hôn ông cũng khấn hứa như vậy. Ông Elzear là Bá tước vùng Ariano, đã từng tư vấn cho Công tước Charles vùng Calabria ở Nam Ý. Bằng công lý, ông Elzear đã cai trị lãnh địa của mình ở vương quốc Naples và ở Nam Pháp.
Ông Elzear và bà Delphina cùng vào Dòng Ba Phanxicô và dấn thân làm việc từ thiện. Mỗi ngày có 12 người nghèo cùng ăn với họ. Bức tượng thánh Elzear cho thấy ngài đã chữa nhiều bệnh nhân phong.
Họ cùng điều hành một trại phong. Mọi người tham dự thánh lễ hàng ngày, xưng tội hàng tuần và sẵn sàng tha thức mọi xúc phạm lẫn nhau. Sau khi ông Elzear qua đời, bà Delphina tiếp tục công việc từ thiện hơn 35 năm. Đặc biệt bà quan tâm nâng mức độ luân lý ở triều đình của vua Sicily.
Thánh Elzear và chân phước Delphina được an táng tại Apt, Pháp quốc. Ông được phong thánh năm 1694, còn bà được phong chân phước năm 1936.

Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014

Thứ Tư Tuần XXV Thường Niên



Lời Chúa: Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chửa lành bệnh nhân.
“ Ha-lê-lui-a. Chúa nói: Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Ha-lê-lui-a.”
Con thành người sáng suốt nhờ huấn lệnh Ngài ban
Nên co ghét mọi đường nẻo gian tà
Điều giả dối con chê con ghét

Luật pháp Ngài những mến cùng yêu.


Ngày 24/09 -Thánh Pacifico San Severino, Linh mục (1653-1721)
Ngài sinh trong một gia đình khá giả ở San Severino, thuộc Ancona ở Trung Ý. Ngài vào Dòng Phanxicô và thụ phong linh mục. Ngài dạy triết học 2 năm rồi đi giảng đạo. Ngài sống khổ hạnh, ăn chay trường, chỉ ăn chút bánh mì, súp hoặc uống nước. “Áo lông” ngài mặc làm bằng những sợi sắt. Ngài nổi bật về đức khó nghèo và vâng lời.
Lúc 35 tuổi, ngài bị bệnh khiến ngài bị điếc, mù và đi khập khiễng. Ngài dâng mọi đau khổ của mình để cầu cho các tội nhân biết sám hối. Ngài chữa lành nhiều bệnh nhân đến với ngài. Ngài được bầu làm bề trên nhà dòng ở San Severino. Ngài được phong thánh năm 1839.

Thứ Hai, 22 tháng 9, 2014

Thứ Ba Tuần XXV Thường Niên



Lời Chúa: Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.
“ Ha-lê-lui-a. Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Ha-lê-lui-a.”
Xin cho con được trí thông minh
Để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ
Trên đường mệnh lệnh Chúa xin dẫn con đi
Vì con ưa thích đường lối Ngài
Luật pháp Ngài con nguyện hằng tuân giữ

Tới muôn thuở muôn đời.


Ngày 23/09 -Thánh Padre Piô, Linh mục (1887-1968)
Ngày 16-06-2001, chân phước GH Gioan Phaolô II đã phong thánh cho LM Padre Piô, linh mục Dòng Phanxicô, người xứ Pietrelcina. Đây là lễ phong thánh thứ 45 trong triều đại giáo hoàng của ĐGH Gioan Phaolô II. Hơn 300.000 người quy tụ đầy Quảng trường Thánh Phêrô và những con đường gần đó. Ngài nói:“Đây là sự tổng hợp cụ thể nhất về giáo huấn của linh mục Padre Piô”. Ngài nhấn mạnh việc làm chứng của linh mục Padre Piô là chịu đau khổ.
Năm 1962, khi còn là tổng giám mục ở Ba Lan, ĐGH Gioan Phaolô II đã viết thư cho linh mục Padre Piô để xin cầu nguyện cho một phụ nữ Ba Lan bị ung thư họng. Trong vòng 2 tuần, phụ nữ này đã hết bệnh.
Ngài sinh ngày 25-5-1887, tên “cúng cơm” của ngài là Francesco Forgione, sống trong một gia đình nông dân ở Nam Ý. Cha ngài Grazio làm việc ở Jamaica, New York 2 lần (1898-1903 và 1910-1917) để kiếm tiền nuôi gia đình.
Lúc 15 tuổi, ngài vào Dòng Phanxicô và lấy tên dòng là Padre Piô. Ngài thụ phong linh mục ngày 10-8-1910, lúc 22 tuổi. Sau khi được phát hiện bị bệnh lao phổi, ngài đã thổ huyết. Năm 1917, ngài chuyển tới nhà dòng ở San Giovanni Rotondo, cách Bari 75 dặm.
Ngày 20-09-1918, sau khi rước lễ và cầu nguyện trước Thánh Giá, ngài được thị kiến Chúa Giêsu. Sau khi hết thị kiến, ngài được ghi 5 dấu trên 2 tay, 2 chân và cạnh sườn (thường gọi là Cha Piô 5 dấu). Năm 1956, ngài thành lập Nhà Khuây khỏa Đau khổ (House for the Relief of Suffering), bệnh viện này phục vụ 60.000 bệnh nhân mỗi năm.
Từ đó, cuộc sống ngài trở nên phức tạp hơn. Các bác sĩ, giáo quyền và những người tò mò đến để chứng kiến “hai năm rõ mười” về Cha Padre Piô. Năm 1924 và năm 1931, chuyện 5 dấu của ngài được chất vấn. Ngài không được phép làm lễ công khai hoặc giải tội. Ngài không than viền gì về chuyện này, nhưng không lâu sau ngài hết bị cấm. Tuy nhiên, ngài không viết lá thư nào từ sau năm 1924. Tài liệu viết khác duy nhất của ngài là một cuốn sách mỏng viết về cơn hấp hối của Chúa Giêsu, nhưng được viết trước năm 1924.
Ngài hiếm khi ra khỏi nhà dòng từ khi ngài được in 5 dấu, Nhưng nhiều người vẫn tìm đến. Mỗi buổi sáng từ 5 giờ, nhà thờ chật người dự lễ, rồi ngài giải tội cho tới trưa. Ngài nghỉ lúc nửa buổi sáng để chúc lành cho các bệnh nhân và những người đến gặp ngài. Trưa nào ngài cũng vẫn giải tội. Trung bình mỗi ngày ngài giải tội 10 giờ, người đến xưng tội phải lấy số trước.
Ngài thấy Chúa Giêsu trong các bệnh nhân và người đau khổ. Theo ngài thúc giục, một bệnh viện được xây ở gần Mount Gargano. Năm 1940 một ủy ban được thành lập để thu tiền. Năm 1946 bệnh viện hư hỏng, rồi được xây lại với tên “Nhà Xoa Dịu Đau Khổ” (House for the Alleviation of Suffering) với 350 giường.
Cũng như tổ phụ dòng là thánh Phanxicô, LM Padre Piô đôi khi cũng bị người ta xé áo làm kỷ niệm. Một trong những đau khổ của ngài là những người vô ý tứ đã truyền miệng những lời tiên tri cho là của ngài. Thật ra ngài không bao giờ nói tiên tri về các sự kiện thế giới và không hề có ý kiến về các vấn đề mà ngài cảm thấy thuộc giáo quyền. Ngài qua đời ngày 23-9-1968, lúc 81 tuổi, và được phong chân phước năm 1999.

Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2014

Thứ Hai Tuần XXV Thường Niên



Lời Chúa: Đèn được đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng.
“ Ha-lê-lui-a. Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em. Ha-lê-lui-a.”
 Kẻ nào sống vẹn toàn luôn làm điều ngay thẳng
Bụng nghĩ sao nói vậy miệng lưỡi chẳng vu oan
Không làm hại người nào chẳng làm ai nhục nhã
Coi khinh phường gian ác trọng ai kính Chúa Trời.


Ngày 22/09 -Thánh Lawrence Ruiz và các bạn Tử đạo (1600?-1637)
Lawrence (Lorenzo) sinh tại Manila, cha là người Trung quốc và mẹ là người Philippine. Ngài học tiếng Trung quốc và tiếng Tagalog từ cha mẹ, học tiếng Tây Ban Nha từ các tu sĩ Dòng Đa Minh, giúp lễ và lo việc phòng thánh cho các linh mục Dòng Đa Minh. Ngài viết chữ đẹp, chép các tài liệu theo nghệ thuật thư pháp, là thành viên của Hội Mân Côi. Ngài kết hôn, có 2 con trai và 1 con gái.
Cuộc đời ngã rẽ sang bước ngoặt khi ngài bị kết tội sát nhân. Không biết gì thêm về ngài ngoài câu nói của 2 tu sĩ Đa Minh: “Ngài bị chính quyền tìm bắt vì tội sát nhân”. Lúc đó, 3 linh mục Dòng Đa Minh là Antonio Gonzalez, Guillermo Courtet và Miguel de Aozaraza sắp đi Nhật mặc dù ở Nhật đang bị bách hại dữ dội. Họ lên đường cùng LM Vicente Shiwozuka de la Cruz, người Nhật, và Lazaro, một giáo dân bị phong cùi. Thánh Lawrence đang ẩn náu và được phép đi với họ. Nhưng khi tàu đã nhổ neo thì ngài mới biết họ đi Nhật.
Tàu cặp bến Okinawa. Thánh Lawrence tời Formosa, ngài nói: “Tôi quyết định ở với các cha, vì nếu không thì người Tây Ban Nha sẽ treo cổ tôi ở đó”. Tại Nhật, họ sớm bị phát hiện, bị bắt và bị đưa tới Nagasaki. Đây là nơi đẫm máu khi bom nguyên tử đã tạo nên thảm họa trước đó. Khoảng 50.000 Công giáo đã từng sống ở đó đã bị bách hại hoặc tản mác.
Họ chịu đủ loại nhục hình: Sau khi bị đổ nước đầy bụng, họ bị bắt nằm xuống, rồi người ta lấy tấm ván dài đặt lên bụng, bọn lính cùng nhau đứng lên tấm ván để đạp cho nước phụt ra từ miệng, mũi và tai các tử tù. LM Antonio qua đời sau vài ngày. Linh mục người Nhật và Lazaro bị đâm các ngón tay bằng tre nhọn, nhưng ai cũng can đảm chịu đựng. Khi mọi người đều chết, thấy 3 linh mục Đa Minh vẫn sống nên bị họ chém đầu.
Chân phước GH Gioan Phaolô II phong thánh cho 6 vị này và 10 vị khác là người Á châu và Âu châu, cả nam và nữ, những người đã rao giảng đức tin ở Philippines, Formosa và Nhật. Lawrence Ruiz là vị tử đạo đầu tiên của Philippines được phong thánh.


Thứ Bảy, 20 tháng 9, 2014

Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm



Lời Chúa: Phải chăng vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?

        Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Nước Trời giống như chuyện chủ nhà kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.” Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?” Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi.” Ông bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!” Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.” Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”.


SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN.
        Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết Thiên Chúa là Ðấng từ bi nhân hậu. Người thương yêu và đối xử với chúng ta theo lòng quảng đại vô biên của Người. Trời cao hơn đất bao nhiêu thì lòng từ bi của Chúa cũng cao hơn lòng nhân hậu của chúng ta bấy nhiêu.
       Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém, ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình, 1 quan tiền ông phát cho người làm giờ thứ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng, gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau, thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp Nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, và ngày hôm nay là công dân Nước Trời.
        Một quan tiền là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được mời gọi vào Giáo Hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa trả công không làm thiệt hại ai, và luôn công bằng.
        Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa để ăn năn trở về với Chúa. Ước gì chúng ta cũng nhận ra tình thương của Chúa vẫn dành cho chúng ta, dù rằng chúng ta không xứng đáng để nhờ đó mà sống tâm tình tạ ơn Chúa, ước gì chúng ta cũng biết vui với người vui, khóc với người khóc trong tinh thần tương thân tương ái thay cho tính ghen tương, ích kỷ, nhỏ nhoen thường tình. Amen


Ngày 21/09 –Thánh Matthêu, Tông đồ Thánh sử
Thánh Matthêu là người Do Thái, làm việc cho quân đội La Mã với nhiệm vụ thu thuế từ những người Do Thái. Dù người Do Thái không cho phép lấy thuế quá nặng, nhưng mối quan tâm của họ là hầu bao riêng. Họ không để ý những nông dân thu thuế đã lấy gì cho họ. Do đó dân thu thuế bị người Do Thái ghét như những kẻ phản bội. Người Pharisêu (Biệt phái) bị gán vào phường tội lỗi. Nên họ thấy “sốc” khi Chúa Giêsu gọi một người như thế làm môn đệ.
Chính nhân viên thu thuế Matthêu đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc tại nhà mình. Phúc âm cho chúng ta thấy rằng nhiều người thu thuế cũng đến dự tiệc. Người Pharisêu cũng cảm thấy “sốc”: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?”. Chúa Giêsu trả lời: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:12-13). Chúa Giêsu không có ý coi thường nghi lễ và việc thờ phượng mà Ngài muốn nhấn mạnh việc yêu thương người khác là điều quan trọng hơn.


Ngày 21/09-1799-1838 Thánh Phanxicô Jaccard Phan (Ninh) Linh Mục Thừa Sai Paris Tử Đạo
* Một cuộc sống bi hùng.
Nếu so sánh những cuộc tử đạo như những vở bi hùng kịch thì cuộc tử đạo của thánh Phanxucô Jaccard Phan là một trong những bi hùng kịch hùng tráng nhất : Mười năm tù khi rộng khi ngặt, với hai mươi tháng tù đày gian khổ và ba án tử hình. Giữa những khổ ải đó, nổi bật lên chân dung một người hùng quả cảm. Ngài đã chiến thắng được đói khát và sốt rét, đã trung thành tuyệt đối với chân lý của Tin Mừng là tha thứ và phục vụ kẻ làm hại mình. Gan lì trước nghịch cảnh, từ chối mọi tiện nghi, như nhân xét của Đức cha Cuénot Thể : "con người không còn gì để mất đó, đã luôn tiến về phía trước để chinh phục tha nhân".
* Chí khí chàng nông dân
Chào đời ngày 06.09.1799 tại Onion thuộc miền Savoie nước Pháp, trong một gia đình nông dân nghèo, nhưng đạo đức, cậu Phanxicô Jaccard thủơ nhỏ ham chơi hơn là học. Còn gì lý thú bằng chạy nhảy giữa cánh đồng xanh tươi bát ngát. Khi được cha mẹ gởi vào chủng viện Mélan, cậu Jaccard luôn là học sinh "đội sổ" nên đâm ra chán nản và trốn về gia đình. Nhưng sau, nhờ bạn bè và thân nhân khích lệ, đàng khác vì ước muốn làm linh mục, cậu xin trở lại chủng viện, cậu hứa với mọi người sẽ cố gắng tới cùng.
Quả thực Jaccard đã giữ lời hứa. Với sự chuyên cần và nỗ lực, anh hoàn thành chương trình chủng viện Mélan, rồi được lên đại chủng viện giáo phận Chambery năm 1819. Hai năm sau, thày Jaccard xin gia nhập hội Thừa Sai Paris, và thụ phong linh mục ngày 15.03.1823. Liền đó, cha Jaccard được đề cử vào chức vụ giám đốc đại chủng viện. Nhưng cha thẳng thắn trình bày với các Bề Trên : "Con tình nguyện vào đây để truyền giáo phương xa, chớ không phải ở thành phố Paris này".
Thế là ngày 10.07.1823, cha xuống tàu tại cảng Bordeaux giã từ quê hương yêu dấu. Ngày 25.11.1824, tàu của cha cập bến Macao, nhưng mãi tháng 2.1826, vị thừa sai mới đến được giáo phận Đàng Trong. Sau một thời gian học tiếng Việt ở chủng viện An Ninh, cha lấy tên là Phan, hoạt động tại Nhu Lý, Phủ Cam, rồi làm giám đốc chủng viện An Ninh (Quảng Trị).


* Tinh thần phục vụ hết mình
Tháng 6.1827, vua Minh Mạng tập trung về Huế ba vị thừa sai : Tabert Từ, Gagelin Kính và Odorico Phương, viện cớ cần người thông ngôn và dịch sách. Ba tháng đầu, cha được đối xử tử tế, có thể làm việc mục vụ cho giáo hữu Huế, nhưng các ngài như bị giam lỏng tãi Cung Quán, lúc nào cũng có lính gác, đi dâu thì có ba lính đi kèm. Đến cuối năm nhờ có Tả quân Lê Văn Duyệt can thiệp với vua, ba vị thừa sai được thả về. Còn riêng cha Phan, tháng 7.1828, quân lính mang trát son, cáng điều đến triệu cha về kinh đô. Ngài ở Cung Quán dịch các tài liệu tiếng Pháp ra tiếng Việt. thấy ở Cung Quán như bị "bó tay buộc chân" không làm việc tông đồ được, cha Phan liền xin vua đến ở họ Dương Sơn cách kinh thành 15 cây số, để vừa giúp các tín hữu vừa dịch sách cho hoàng cung. Giai đọan này cha đã dịch các sách về Napoléon, về việc chinh phục của Anh ở Ấn Độ, về lịch sử Âu, Mỹ, và dạy tiếng Pháp cho nhiều người vua gởi tới. Vua muốn ban chức lộc triều đình, nhưng cha từ chối không nhận.
Được tin vua Minh Mạng sắp mừng lễ Tứ tuần, cha xin phép đứng ra tổ chức tám ngày liên tiếp, cầu nguyện cho Hoàng Đế bằng những nghi thức long trọng. Ngoài các tín hữu, số lương dân đến tham dự đông đảo như ngày hội. Nhiều người nhờ dịp này thêm quý mến đạo, trong đó có một số quan đại thần và bà chị các Đức Vua.
* Người "lính" của vua Minh Mạng
Tháng 9.1831, làng Dương Sơn do cha Phan phụ trách bị dân làng Cổ Lão gây chuyện và tố cáo về tội chiếm đất. Đến sau vì không có bằng cớ, họ đổi qua tố cáo về tội theo đạo. Lập tức 73 người bị giam tù, mỗi người lãnh 100 roi đòn, viên phó lý bị lưu đầy, Lý trưởng và cha Phan bị án tử hình. Riêng với cha Phan, vua Minh Mạng tỏ vẻ nhân đạo hơn, đổi từ án xung quân, bắt nhập ngũ trong quân đội hoàng gia, và được điệu về giam lỏng ở Cung Quán để tiếp tục dịch sách vở, thơ từ …
Giai đoạn này cha Phan nhiều lần tiếp xúc với vua Minh Mạng. Chính Vua nhờ cắt nghĩa các tranh ảnh Cựu ước và Tân ước… Vị tông đồ của Chúa liền tranh thủ giải thích cho vua hiểu về giáo lý trong đạo, về Thiên Chúa sáng tạo, linh hồn bất tử và thưởng phạt đời sau. Một lần cha Phan đánh bạo gởi cho vua cuốn giáo lý dành cho người xin học đạo. Đối lại nhà vua sai quan Thượng thư bộ lễ đến bắt cha phải đốt hết các sách tôn giáo đó, nhưng cha cương quyết từ chối. Quan nói: "Tôi tha cho ông, nhưng khi ra trước hội đồng các quan, ông phải nói đã gởi sách và đồ lễ về Tây rồi, và hứa không giảng đạo nữa". Cha đáp: "Thưa quan, quan biết là đạo cấm nói dối, còn việc ngừng giảng đạo, tôi không thể vâng được". Viên quan tiếp: "Vậy ông sẽ bị án xử tử". Cha trả lời: "Tôi đã bị lên án một lần, có lên án lần nữa cũng chẳng sao". Vua Minh Mạng biết chuyện nhưng lờ đi vì thấy chưa đến lúc, chỉ ra lệnh cho người canh gác cha nghiêm ngặt hơn trước.
* Người tù lưu đày bất khuất
Tháng giêng năm 1833, sau sắc lệnh cấm đạo toàn quốc, cha Phan có thêm người bạn đồng hàng, cha Odorico Phương dòng Phanxicô mới bị bắt ở Cái Nhum. Mỗi đêm, hai cha âm thầm dâng lễ với nhau ở Cung Quán, đồ lễ giấu ở sàn nhà. Từ đây hai vị sống bên nhau trong một năm rưỡi, cùng chia sẻ ngọt bùi đắng cay, cùng đón nhận người bạn tù đặc biệt, cha Gagelin Kính và hiệp thông với hy lễ tử đạo của ngài. Nhiều tuần lễ liền, mỗi buổi sáng khi thức dậy, hai vị lại giúp nhau chuẩn bị dọn mình lãnh phúc tử đạo, nhưng giờ Chúa chưa đến.
Thời gian này miền Nam có cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi. Vua Minh Mạng nghe đồn các tín hữu tham gia rất đông, nên lo sợ và thảo một lá thư dụ hàng, đưa cho thừa sai ký. Hai cha thức suốt một đêm để viết một lá thư khác kêu gọi các anh em tín hữu. Theo lá thư, việc chống lại triều đình có hại cho đạo, và Tin Mừng không bao giờ chấp nhận việc huynh đệ tương tàn. Thế nhưng số tín hữu theo Lê Văn Khôi thực tế không đông, nên lá thư này không mang lại hiệu quả bao nhiêu.
"Giận cá chém thớt", vua Ming Mạng nổi cơn thịnh nộ, truyền xử tử hai vị giáo sĩ. May có sự can thiệp của Hoàng Thái Hậu Thuận Thiên. Bà không muốc con làm điều thất nhân ác đức, và nhắc con coi chừng nước Pháp trả thù. Thế là bản án được đổi thành lưu đày chung thân tại Lao Bảo (ở biên giới Lào), nơi rừng sâu nước độc. Sau mười ngày trèo non lội suối, ngày 12.12.1833, hai cha đến đất lưu đầy, phải sống trong trại tù có rào chắn và chông nhọn xung quanh. Niềm an ủi lớn lao của hai cha là vẫn được nhiều tín hữu viếng thăm tiếp tế lương thực.
Nhưng chưa được một tháng, Vua thay viên cai ngục khó tính hơn, và nhắn lời dụ dỗ hai vị xuất giáo. Việc dụ dỗ thất bại, viên cai ngục liền chuyển hai cha sang trại cấm cố, cho giam riêng trong một túp lều trật hẹp, bớt phần cơm và cấm tiếp tế. Thêm vào đó, ông còn cho tịch thu toàn bộ sách kinh, giấy viết. Cha Odorico Phương hay nói đùa : "Chúa thấy tôi làm thừa sai vụng về nên cho đổi qua nghề làm bếp. Tôi là đầu bếp, cha Jaccard rửa chén. Nhưng vấn đề là không có gì bỏ vào nồi để nấu thôi".
Ngoài nắm cơm mỗi ngày mỗi nhỏ bớt, hai cha phải đi hái hoa cỏ dại, chuối xanh về luộc với một ít muối để đủ sống qua ngày. Đời sống kham khổ, đói khát và cơn bệnh sốt rét ác tính đã cướp đi sinh mạng của người bạn của cha Phan. Cha Odorico Phương đã từ trần ngày 25.5.1834 sau một tuần liệt giường. Còn lại một mình cha Phan đã sống sót cách tài tình cho tròn hai mươi tháng lưu đầy. Cũng sốt rét, cũng kiết lỵ, nhưng ngài đã khuất phục được chúng. Không những thế, cha tiếp tục làm việc tông đồ trong trại, học tiếng lào để nếu có cơ hội sẽ qua đó truyền giáo. Cha cũng soạn được một cuốn ngữ vựng tiếng Chàm, nhờ sự hỗ trợ của các bạn tù người Chàm.
* Vắt chanh bỏ vỏ
Đến tháng 9 năm 1835, vì cần người, vua Minh Mạng đưa cha về giam ở Cam Lộ (Quảng trị) để làm giáo sư. Vua gửi đến sáu thanh niên học tiếng Pháp nhưng cấm không được nói chuyện về đạo. Vua nhờ cha hướng dẫn về địa lý và lịch sử Au Mỹ, giải thích các phong tục, tập quán và luật lệ của họ. Đặc biệt cha giúp Vua tìm hiểu về Châu Au, nhất là luật pháp nước Nhật. Dầu bận rộn vất vả, nhưng cha rất tận tụy với Vua, vì như cha nói: "Tôi muốn chứng tỏ phải dùng điều thiện để thắng điều ác".
Ba năm trời ở Cam Lộ, niềm vui lớn nhất của cha Phan là được dâng lễ trong ngục. Một tấm ván bắc qua hai chiếc ghế làm bàn thờ, cha dâng lễ vào giữa đêm khuya, rồi thu xếp dọn dẹp ngay sau đó. Vì được quan quân kính nể, cha có thể chốn thoát dễ dàng. Chính Đức cha Thể cũng gợi ý điều đó, nhưng cha không thực hiện, vì cha biết quan quân sẽ truy lùng gắt gao. Việc truy lùng đó sẽ làm hại các tín hữu và lỡ ra nhiều người sẽ bị bắt vì mình.
Đầu năm 1838, một biến cố lớn làm thay đổi hoàn cảnh cha Phan. Số là khi triệt hạ chủng viện An Ninh gần Di Loan, cha gíam đốc Candalk Kim chạy thoát nên vùng núi, vua liền trút cơn thịnh nộ lên cha Phan "Kẻ thông đồng với tội nhân qua thư từ". Ngày 07.3 cha bị bắt trói, hỏi cung rồi bị mang gông xiềng áp giải về Quảng Trị.
* Đường lên núi sọ
Tại Quảng Trị, quan cho căng nọc vị thừa sai và cho đánh từ 9 giờ đến trưa, nát nhiều chiếc roi, để bắt cha phải bỏ đạo. Cha trả lời : "Đạo của tôi không do Đức Vua, nên tôi không buộc phải bỏ đạo theo ý Vua được". Lần khác, cha bị tra tấn bằng kìm nung đỏ kẹp vào đùi, thịt cháy khét, đau đớn vô cùng, nhưng cha vẫn cương quyết không chối đạo.
Từ 18.7.1838, cha được giam chung với chủng sinh Tôma Thiện. Hai cha con tạ ơn Chúa, và cùng nhau nguyện cầu xin Ngài trợ giúp. Bản án từ Quảng Trị gởi vào kinh đô xin xử trảm, nhưng vua Minh Mạng đổi thành xử giảo và ký ngày 17.9. Sáng ngày 21.9.1838, quan quân dẫn hai cha con ra khỏi trại giam, đến một ngọn đồi ở làng Nhan Biều (Quảng Trị). Tới nơi xử, hai cha con từ chối bữa ăn ân huệ, và quỳ đối diện quay vào nhau cùng cầu nguyện.
Theo ý cha Phan, muốn thấy tận mắt sự trung thành của người môn sinh trẻ tuổi, nên quân lính hành xử chủng sinh Tôma Thiện trước. Sau đó, vòng dây qua cổ vị giáo sĩ rồi kéo mạnh hai đầu, đưa linh hồn ngài về Thiên Quốc.
Bà mẹ của cha Phan khi hay biết, đã reo lên "Thật là tin vui, gia đình ta có một vị tử đạo". Bà nói : "Xin chúc tụng Chúa. tôi vẫn sợ sẽ buồn khổ biết bao, nếu con tôi bị khuất phục trước gian khổ, trước cực hình’.
Thi hài vị tử đạo được chôn cất ngay tại pháp trường, đến năm 1847 được cải táng về chủng viện Thừa Sai Paris. Đức Lêo XIII suy tôn linh mục Phanxicô Jaccard Phan lên hàng Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Ngày 21/09-1820-1838 Thánh Tôma Trần Văn Thiện Chủng Sinh Tử Đạo
* Tuổi trẻ hào hùng
Trong một phiên tòa năm 1836, viên quan án xúc động trước người tù trẻ tuổi với dáng dấp thư sinh nho nhã, khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, hứa hẹn một tương lai sán lạn, ông nói với anh thật dịu dàng : "Nếu con bỏ đạo, ta sẽ gả con gái cho, và sẽ lo liệu cho con làm quan".
Chàng thanh niên trẻ tuổi ấy, anh Tôma Trần Văn Thiện đã thẳng thắn trả lời : "Tôi chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng chi danh vọng trần thế".
Tuy mới 18 xuân xanh, lứa tuổi yêu đời ham sống, chưa nếm mùi khổ đau cuộc đời, cũng chưa được học tập thâm sâu về giáo lý, anh Tôma Thiện mới vừa tới ngưỡng cửa chủng viện, đã ứng phó khéo léo trước bạo lực, đâu thua kém gì bất cứ chiến sĩ đức tin nào khác trên hoàn cầu. Quả thực, anh đã anh đã thấu hiểu lời Đức Kitô : "Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì" (Mt.16,26).
* Con muốn "ở chú" với cha không ?
"Chú Thiện" như người đương thời quen gọi các chủng sinh, sinh năm 1820 trong một gia đình đạo hạnh làng Trung Quán, tỉnh Quảng Bình.
Nữ tu Madalena Yến, một nhân chứng sống cùng thời thuật lại rằng : "Chú Thiện có một người dì, gọi là dì Nghị, làm bà nhất nhà phước Trung Quán. Chú thường lui tới thăm dì và tỏ ra rất ngoan ngoãn, nhu mì, lễ phép. Khi linh mục đến dâng lễ ở họ nhà, chú quỳ dự lễ cách nghiêm trang. Lên tám, chín tuổi, chú bắt đầu học chữ Nho, tỏ ra thông minh bền chí và tiến bộ rất nhanh.
"Có lần chú theo dì Nghị đi lễ ở họ Mỹ Lương, sau lễ vào chào các linh mục. Các cha thấy cậu bé khôi ngô, hiền lành đều hỏi : Con có muốn ở chú (đi tu) với cha không ? Cậu Tôma Thiện không thưa gì. Nhưng, chỉ ít lâu sau, người ta thấy chú thường xuyên ở nhà cha Chính, họ Kẻ Sen. Vị linh mục này đã dạy tiếng Latinh cho chú nhiều năm…"
* Hãy nhìn xem máu tôi chảy ra kìa
Nhờ tính tình tốt lành và trí thông minh, năm 18 tuổi (1838), chú Thiện được cha giám đốc Candalh Kim gọi về chủng viện Di Loan, Quảng Trị. Nhận được tin, chú Thiện cùng với người chị tên Sao hăng hái lên đường. Dọc đường hai chị em gặp nữ tu Yến từ Di Loan về cho biết cha bề trên Candalh Kim đã phải trốn và quân lính đang lùng bắt, rồi khuyên hai chị em đừng đi nữa, nhưng chú Thiện tỏ ra cương quyết : "Dầu không gặp cha Bề Trên, con cũng phải đến tận nơi để biết rõ sự thể. Cha đã gọi, không lẽ chưa đến nơi đã bỏ về".
Tới chủng viện, hai chị em trình diện với cha Tự. Ngài nói : "Chúng tôi lo trốn chưa xong mà chị còn dẫn em đến, chỉ làm khó khăn thêm cho chúng tôi thôi". Chị Sao đáp: "Thưa cha, em con nhờ con dẫn đi, vì có giấy cha Bề trên gọi. Chúng con không biết cuộc bắt đạo lại xảy ra bất ngờ như thế".
Hai ngày sau, quân lính bao vây làng Di Loan, lục soát từng nhà. Không tìm thấy cha Kim, nên truyền tra hỏi cặn kẽ để biết cha Bề trên trốn ở đâu. Quan khuyên chú chối đạo, nếu không sẽ bị chết. Chú Thiện thành thật trả lời: "Tôi quê ở Trung Quán, Quảng Bình, đến tìm thày học đạo. Đạo dạy tôi tờ Thiên Chúa là đạo thật, tôi sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đạo".
Quan tỏ ra khoan nhượng khuyên dụ chú Thiện nhiều lần : nào là tuổi còn nhỏ, tương lai còn nhiều triển vọng, nào là sẽ thăng quan tiến chức nếu bỏ đạo. Hơn thế nũa, quan còn muốn nhận chú làm con rể mình, và sẽ đứng ra lo liệu cưới xin. Nhưng chú Thiện đã từ chối: "Tôi chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng đến quyền chức trần thế.
Lời khẳng khái ấy không phải ai cũng thốt ra được. Trong số những người bị bắt, nhiều người tỏ vẻ luyến tiếc cho chú đã bỏ lỡ một "cơ hội ngàn vàng". Chàng trai có dáng vóc thư sinh nhưng chí khí thật kiên cường, khiến quan phải ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên đến tức giận, vì dám xúc phạm đến sự "bao dung" và lòng "ưu ái" của mình, thế là ông truyền đánh đòn chàng. 40 roi đòn quất trên thân thể gầy yếu, máu chảy thấm qua y phục, nhưng vị chứng nhân không lay chuyển, vẫn gan dạ mỉm cười nói : "Hãy nhìn xem máu tôi chảy ra kìa".
Thấy chú cam đảm hơn người, quan truyền đóng gông xiềng giam chú Thiện vào ngục.
Trong ngục thất, Tôma Thiện không có bà con thân thích nào đến chăm nom tiếp tế. Các giáo hữu Di Loan cũng bị bắt, lúc đầu con chia sẻ cho chú đôi chút lương thực, nhưng sau họ không cho gì nữa. Họ đã nghe quan dụ dỗ để mong trở về với gia đình. Tuy thế quan vẫn chưa thả họ ngay. Vì muốn chú Thiện cũng phải khuất phục, quan dùng những kẻ nhẹ này gây áp lực, nhưng Tôma Thiện trước sau vẫn một mực trung thành với đức tin.
Chú Thiện tiếp tục bị thẩm vấn và bị đánh đòn hai lần nữa, nhưng chú vẫn vui vẻ lãnh nhận. Mỗi lần roi quất xuống, chú lại cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin thêm sức cho con chịu đau khổ vì Chúa". Ngoài ra chú còn bị phơi nắng và bị kìm kẹp, nhưng vị anh hùng trẻ tuổi vẫn không sờn lòng, chứng tỏ một nghị lực phi thường và một đức tin hiếm có.


* Đồng khổ, đồng vinh
Sau khi bất lực trước ý trí sắt đá của Tôma Thiện, quan truyền giam chú chung với cha Jaccard Phan. Hai cha con gặp nhau vui mừng hết sức. Chú Thiện được cha an ủi, khích lệ và ban bí tích hòa giải. Riêng cha Phan thì sung sướng hãnh diện có một người con tinh thần dũng cảm trong đức tin. Hai cha con cùng nhau cầu nguyện, nâng đỡ trợ gíup lẫn nhau và quyết chí trung thành với đạo đến cùng.
Trước tinh thần bất khuất của hai chứng nhân Chúa Kitô, quan quyết định lên án xử trảm cả hai. Bản án chú Thiện như sau : "Tên Thiện bị mê hoặc theo Gia Tô, dầu bị tra tấn cũng không bỏ đạo, nên nó phải chết giống như đạo trưởng của nó".
Bản án gởi về kinh đô. Gần một tháng sau vua Minh Mạng mới châu phê và đổi thành án xử giảo. Có lúc nóng lòng trờ đợi, chú Thiện thưa với cha Phan : "Thưa cha, người ta cứ để cha con ta sống lâu mãi, sao không sớm cho cha con ta được tử đạo, để được kết hiệp cùng Chúa muôn đời". Chú cũng viết thư về gia đình vĩnh biệt cha mẹ, họ hàng, và khuyên mọi người trung thành giữ vững đức tin.
Sáng ngày 21.09.1838, hai cha con chứng nhân Chúa Kitô cùng được dẫn ra pháp trường ở làng Nhan Biều gần Quảng trị. Khi đi qua một quán ăn, viên đội chỉ huy cho hai vị dừng chân, ăn uống theo thói quen dành cho tử tội. Cha Phan không dùng gì cả, chú Thiện thưa với cha: "Con cũng không ăn, để về dự tiệc Thiên Đường vĩnh phúc, phải không cha?" Tới nơi xử, chú Tôma Thiện quỳ xuống trước mặt cha, lính tháo gông, tròng dây vào cổ. Lệnh xử ban hành, họ kéo hai dầu dây thật mạnh, dầu vị tử đạo 18 xuân xanh gục xuống. Sau đó, đến lượt cha Phan cũng bị xử như vậy.
Khác với các tử đạo trước, cuộc hành quyết này không có giáo hữu đi theo để xin an táng. Những người ngoại đã chôn cất hai vị ngay ở pháp trường. Năm 1847 thi hài vị tử đạo được cải táng về tôn vinh tại chủng viện Hội Thừa Sai Paris.
Ngày 27.05.1900 Đức Lêo XIII đã suy tôn chủng sinh Tôma Trần Văn Thiện lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.