Thứ Năm, 30 tháng 4, 2015

Thứ Bảy Tuần IV Phục Sinh Ga 14,7-14.



Lời Chúa: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
Ha-lê-lui-a. Chúa nói: “ Nếu anh em ở lại trong lời Thầy, thì anh em thật là môn đệ Thầy, và anh em sẽ biết sự thật” Ha-lê-lui-a.
Toàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,

mừng vui lên, reo hò đàn hát.


Ngày 02/05 – Thánh Athanasiô, Giám mục Tiến sĩ (295?-373)
Athanasiô sống cuộc đời huyên náo nhưng tận hiến phục vụ Giáo hội. Ngài là nhà vô địch về đức tin chống lại tà thuyết Arian. Sức mạnh của các bài viết của ngài khiến ngài được giáo hội tôn phong là Tiến sĩ Giáo hội.
Ngài sinh trong một gia đình Kitô giáo ở Alexandria, Ai Cập, được giáo dục theo lối cổ điển, đi tu làm linh mục, rồi làm thư ký cho ĐGM Alexander, giáo phận Alexandria. Rồi chính ngài cũng được bổ nhiệm giám mục. Vị tiền nhiệm của ngài là ĐGM Alexander đã phê bình thẳng thắn phong trào phát triển ở Đông phương – tức là tà thuyết Arian.
Khi ĐGM Athanasiô quản nhiệm giáo phận Alexandria, ngài tiếp tục chống tà thuyết này. Mới đầu có vẻ không khó lắm khi kết án tà thuyết Arian. Tuy nhiên, chuyện không đơn giản. Công đồng Tyre được triệu tập với vài lý do vẫn chưa rõ, hoàng đế Constantine bắt ĐGM Athanasiô đi đày ở Bắc Gaul. Đây là lần đầu tiên trong các cuộc đi đày gợi nhớ đến cuộc đời thánh Phaolô.
Sau khi Constantine băng hà, con trai ông phục hồi cương vị giám mục cho Athanasiô. Tuy nhiên, cương vị giám mục chỉ kéo dài 1 năm, rồi ngài lại bị truất phế vì sự cấu kết của các giám mục theo tà thuyết Arian. Ngài đi Rôma, và ĐGH Juliô I triệu tập hội đồng giám mục để xem xét trường hợp của ngài và các vấn đề liên quan.
Ngài bị đi đày 5 lần vì bảo vệ tín lý về thiên tính của Chúa Kitô. Thời gian đầu, ngài sống tương đối an bình trong 10 năm – đọc sách, viết lách và thúc đẩy đời sống Kitô giáo cùng với lý tưởng tu trì mà ngài rất tận tụy. Những bài viết về giáo lý và lịch sử của ngài hầu như là bút chiến (polemic), trực tiếp chống lại mọi phương diện của tà thuyết Arian.
Trong số những bài viết về đời tu khổ hạnh của ngài, cuốn Life of St. Anthony (Cuộc đời Thánh Antôn) được chú ý nhiều và góp công vào việc thành lập đời sống dòng tu ở khắp Tây phương.

Ngày 02/05/1790-1854 Giuse Nguyễn Văn Lựu Trùm Họ


Giuse Nguyễn Văn Lựu Trùm Họ

Giuse Nguyễn Văn Lựu, Sinh năm 1790 tại Cái Nhum, Vĩnh Long,Trùm họ, chết rũ tù ngày 02/05/1854 tại Vĩnh Long dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X đã suy tôn ông Trùm Giuse Nguyễn Văn Lựu lên bậc chân phước Ngày 02-05-1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 02/05.
* Một cuộc đời tốt đẹp.
Sáu mươi tư tuổi đời, bao nhiêu là kỷ niệm, bao nhiêu là niềm vui, bao nhiêu là tình thương. 64 tuổi đời với những trách vụ và công việc xen lẫn với những khó khăn gian khổ, đói khát và bệnh tật của một người dân bình thường. Ông trùm Giuse Lựu tạ ơn Chúa vì 64 năm đó, và rồi ông chỉ còn chờ giây phút sau cùng để "Trả lại những quãng đời trần gian Chúa đã ban cho mình". Giây phút đó đã đến sớm hơn lòng ông mong chờ. Sau cuộc tra tấn trong ngục tối im lặng âm thầm ông cảm thấy rõ giây phút đó từ từ đến. 64 tuổi đời sống làm con Chúa, còn lại chút hơi thở cuối cùng, ông cũng muốn thành kính dâng lên trọn vẹn cho Ngài. Ông bám vào bờ tường, cố gắng đứng dậy ngước mắt lên trời kêu tên cực trọng Chúa Giêsu và Đức Maria ba lần, và từ từ ngã xuống nền nhà ngục, hoàn tất 64 năm dương thế một cách tốt đẹp.
* Sống để phục vụ.
Chào đời năm 1790 tại họ Cái Nhum, tỉnh Vĩnh Long. Ngay từ thời niên thiếu, cậu Giuse Nguyễn Văn Lựu đã được hấp thụ một nền giáo dục gia đình Công Giáo đạo đức. Nhờ vậy sau này khi kết hôn, Giuse Lựu đã đem lại cho gia đình một nề nếp cao quý, môt bầu khí đầm ấm, yêu thương thấm nhuần tinh thần đạo hạnh Kitô giáo.
Được đề cử làm trùm họ, ông tỏ ra xứng đáng với lòng tín nhiệm. Quý mến của mọi người. Đặc biệt ông có tài hòa giải những cuộc xích mích. Nhờ uy tín cá nhân, ông phân tích rõ ràng ai phải, ai trái, rồi dẫn lời Chúa dạy trong Phúc Âm, ông mời gọi mọi người hãy tha thứ và làm hoà với nhau. Thế là mọi người nghe theo các lời chí tình, chí thiết của ông. Hơn nữa trong trách vụ này, ông còn thể hiện một tâm hồn nhiệt thành với việc tông đồ, một Kitô hữu đầy lòng bác ái. Cộng tác với các linh mục trong việc điều hành họ đạo, coi sóc các em thiếu nhi, giúp đỡ người nghèo. Ông đã hiến tất cả vườn ruộng để xây dựng một nữ tu viện. Hằng ngày ông vẫn rộng tay làm phúc cho những người nghèo khó. Cuộc đời của ông thật giống những người tôi tớ trung tín luôn luôn làm sinh lời những nén bạc Chúa ban.
Những nguy hiểm gây ra do sắc chỉ cấm đạo không làm cho ông Trùm họ Mặc Bắc sợ hãi. Trước biết bao hiểm nguy khó khăn, ông vẫn lo liệu để các linh mục có nơi ẩn náu, hầu có thể cử hành và trao ban các bí tích cho giáo hữu.
* Ý chí sắt đá.
Ngày 26-03-1853, quan quân vây làng Mặc Bắc để tìm bắt cha Lựu (thực ra bấy giờ cha Minh đã thay thế cha Lựu mà quan quân không biết), nhưng ngay lúc đó ông trùm Lựu can đảm trả lời
"Thưa các quan không có đạo trưởng Lựu ở đây. Lựu chính là tên tôi làm trùm họ này". Quan quân nhìn ông chỉ thấy dáng dấp một nông dân nhà quê không có vẻ gì là đạo trưởng. Họ bèn lục soát kỷ hơn. Biết không thể trốn được cha Minh liền ra trình diện, mà họ nghĩ là cha Lựu và 6 giáo hữu bị giải về tỉnh Vĩnh Long.
Những hình khổ trong tù đã làm bốn người thối chí, họ muốn sống dễ dãi hơn. Những người yếu lòng ấy không chỉ phản bội Thiên Chúa họ còn đổ tội cho ông trùm Mặc Bắc là người tiếp đón và cho đạo trưởng chú ẩn. Họ nguyền rủa ông như là người gây ra mọi tang tóc, mọi khổ cực của họ. Riêng ông trùm Lựu, trước sau vẫn một mực trung kiên với Thiên Chúa, ông đón nhận những lời sĩ nhục và mọi đau khổ một cách khiêm tốn để đền bù những tội lỗi mình. Ông sẵn sàng đón nhận tất cả vì ông tin tưởng vào Thiên Chúa. Tín thác hoàn toàn nơi Ngài, lời tâm sự cùng linh mục cùng bị giam cho thấy ông có một niềm tin vững mạnh và tấm lòng hy sinh cao cả : "Thưa cha, xin cha cầu nguyện cùng Chúa để Chúa ban cho con sức mạnh và can đảm cần thiết. Con sắp phải đi đày, con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con, con bằng lòng dâng cho Ngài hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình vợ con, chính Chúa sẽ săn sóc vợ con của con."
Còn gì cao quý và giá trị cho bằng một tình yêu trong Thiên Chúa. Đấng chính là Tình Yêu…


* An nghỉ trong Chúa.
Những hình khổ lao tù cuối cùng chỉ thắng được thân xác. Vì tuổi già sức yếu phải mang gông mang xiềng, nên đêm mùng một rạng mùng 02-05-1854. ông Trùm Giuse Lựu đã trút hơi thở cuối cùng. Vị chứng nhân trung thành đã xứng đánh lãnh nhận cành lá vạn tuế tử đạo, dù không bị trảm quyết.
Đám tang ông trùm Giuse Nguyễn Văn Lựu là trường hợp họa hiếm trong thời cấm đạo. Bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy đến, bốn linh mục và gần 2000 tín hữu đã tiễn đưa linh cửu đến an táng trong khu thánh đường họ Mặc Bắc.
Đức Piô X đã suy tôn ông Trùm Giuse Nguyễn Văn Lựu lên bậc chân phước Ngày 02-05-1909. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Thứ Tư, 29 tháng 4, 2015

Thứ Sáu Lễ Thánh Giuse thợ Mt 13,54-58.



Lời Chúa: Ông này không phải là con bác thợ mộc sao ?
Ha-lê-lui-a. Ngày lại ngày, xin chúc tụng Chúa, Thiên Chúa cứu độ ta, Người đỡ nâng ta. Ha-lê-lui-a.
Từ buồi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa,
để ngày ngày được hớn hở vui ca.
Ước gì chúng con là tôi tớ Chúa
được thấy công trình Ngài thực hiện,

và con cháu chúng con được thấy vinh hiển Ngài.


Ngày 01/05 – Đức Thánh Giuse Lao động
Rõ ràng là ngày 01/05 là ngày Quốc tế Lao động dành cho giới công nhân được cộng sản ủng hộ, ĐGH Piô XII thành lập lễ Đức Thánh Giuse Lao động năm 1955. Nhưng mối quan hệ giữa Đức Thánh Giuse và giới công nhân có một lịch sử dài.
Với nỗ lực cố gắng giữ Chúa Giêsu không bị tách khỏi đời sống con người bình thường, tứ đầu Giáo hội đã nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu là thợ mộc (carpenter), được Đức Thánh Giuse đào tạo cả về nhiệm vụ lẫn sự vất vả của nghề nghiệp. Con người giống Thiên Chúa không chỉ về suy nghĩ và yêu thương mà còn về cách sáng tạo. Dù chúng ta đóng một cái bàn hay làm một thánh đường, chúng ta vẫn được mời gọi sinh lợi từ đôi tay và khối óc của mình, đặc biệt là xây dựng Nhiệm thể Đức Kitô.

Ngày 01/05/1822-1851 Kính Nhớ Thánh Augustinô Schoeffer (Cha cố Đông) Tử đạo.


Thánh Augustinô Schoeffer Cha cố Đông

*Bị bắt sau khi giảng tuần làm phúc tại Nỗ Lực. Một phần hài cốt được lưu giữ tại nhà thờ Nỗ Lực và Cao Mại
* Ơn gọi loan báo tin mừng!
Augustinô Đông sinh ngày 22-11-1822 tại Mittelbronn tỉnh Lorraine, nước Pháp. Từ bé, cậu đã tỏ ra là một người đạo đức, chăm học, siêng năng cầu nguyện và có ý hướng đi tu. Cha xứ nhận đỡ đầu và đưa vào chủng viện giáo phận Nancy. Trong chủng viện cậu tuân giữ đúng đắn kỷ luật, vâng lời bề trên, hoà thuận với bạn bè và học hành xuất sắc, nên được mọi người yêu mến. Sau khi học triết học và năm thứ nhất thần học, thầy Augustinô Đông cảm thấy Chúa kêu gọi mình đi truyền giáo nên xin phép ba mẹ chuyển qua hội Thừa Sai Paris.
Thời gian đó, những tin tức về công cuộc truyền giáo ở Đông Nam Á gởi về không được sáng sủa. Đi truyền giáo như đi vào cỏi chết. Do đó song thân thầy cố sức ngăn cản. Ông bà nói nhiều lời nặng nề khiển trách con không vâng lời. Augustinô Đông đắn đo nhiều nhưng căn cứ vào lời Chúa: “Ai yêu cha mẹ hơn thầy thì không đáng làm môn đệ thầy.” (Mt.10,37). Augustinô Đông quyết định gia nhập hội Thừa Sai Paris dù cha mẹ không đồng ý. Khi đó thầy viết thư cho một người bạn: “Than ôi, để theo chân Chúa Giêsu vất vả quá, vướng đường nọ mắc đường kia”. Người bạn đó nhắn nhủ: “Việc giảng đạo là việc quan trọng, nếu tự ý làm mà không được Chúa gọi thì nguy cơ mất linh hồn đó”. Thầy trả lời: “Xin đừng quên lời Kinh Thánh: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta.”
* Không để ai liên luỵ.
Gia nhập hội Thừa Sai ngày 09-10-1846 thì ngày 29-05-1847, thầy Augustinô Đông được thụ phong linh mục. Sau đó được gởi đến giáo phận Tây Đàng Ngoài. Đức Cha Retordd Liêu, vui mừng đón tiếp giữ cha lại trụ sở học tiếng và phong tục Việt Nam, rồi cho cha tháp tùng trong các cuộc kinh lý để hiểu rõ tình hình hơn. Sau đó cử cha lên coi xứ Đoài. Trong nhiệm sở mới cha Đông tích cực làm việc mục vụ và truyền giáo, số người trở lại ngày càng nhiều. Khi vua Tự Đức ra chiếu chỉ cấm đạo năm 1848, cha nói: “Kỳ này trong chúng tôi thế nào cũng có kẻ bị chém, chớ gì người đó là tôi.” Thế nhưng cha vẫn an toàn làm việc trong ba năm.
Ngày 01-03-1851, sau khi đến giảng phòng mùa chay cho xứ Bầu Nọ, cha Đông đi đường rừng qua bản Vĩnh Mộ thì bị quân lính bắt. Thời đó cuộc nổi loạn của Hoàng Bảo (Trưởng tử của vua Thiệu Trị) mới thất bại, lính tuần dinh đang truy lùng các thành viên còn xót lại. Tín hữu Bầu Nọ cũng biết chuyện, nhưng chủ quan cho rằng lính chỉ đi lùng vào ban đêm, nên đưa cha Đông đổi chỗ giữa ban ngày, không ngờ có một tín hữu ham tiền đã đi báo cho quan. Họ bố ráp và bắt cha đang len lỏi trong rừng rậm. Một linh mục Việt và hai chú giúp lễ cũng bị bắt với Ngài.
Quan tuần phủ địa phương tuyên bố mình không có ý giải nộp vị Thừa Sai, và ra giá chuộc là một nén vàng với 100 nén bạc. Chợt hiểu ra rằng những người này dù đòi được tiền rồi, cũng nộp mình cho quan lớn như thường, nên cha nói: “Vì quý ông nhất thiết đòi tiền chuộc, hãy thả những người này về, chỉ có họ mới biết chỗ tôi để tiền”. Quan tuần tưởng thật trả tự do cho cha Việt Nam và hai chú giúp lễ. Phần cha Đông khi thấy họ đã đi xa, mới nói rõ ý muốn chỉ một mình bị bắt thôi.
Tức giận, viên quan cho giải cha lên tỉnh Sơn Tây. Dọc đường gặp một người tín hữu, cha nói: “Hãy về nói với anh chị em đừng lo sợ gì hết, dù thế nào tôi cũng không khai một ai cả”. Khi đến tỉnh các quan điều tra về quê quán, tên tuổi, đến An Nam bao lâu, cư trú những nơi nào, có biết vua cấm đạo không. Cha đáp:
“Tôi tên là Augustinô Đông, quê ở nước Pháp, năm nay 29 tuổi, tôi đến đây để giảng đạo Đức Chúa Trời. Tôi đã biết An Nam cấm đạo ngặt, nhưng tôi không sợ xử tử. Còn việc ở đâu tôi sẽ không nói, đừng hỏi nữa làm gì.”
Ngày 05-03, lại bị điệu ra tòa, cha Đông vẫn khai như cũ và cương quyết từ chối bước qua Thánh Giá, nên ngày hôm đó các quan gởi án về kinh đô: “Tên Ao-du-tinh là người Tây dám coi thường việc nước, đến đây giảng đạo dân chúng. Chiếu theo sắc chỉ Đức Vua, y phải chịu trảm quyết, bỏ đầu trôi sông. Về những kẻ chứa chấp, thần đã tra hỏi nhưng y không chịu nói. Lý trưởng và những kẻ có công, xin theo lời truyền, thưởng 30 lạng bạc. Riêng viên tuần phủ, xin thưởng thêm một số nữa”.
Tuy nhiên mãi đến tháng 04-1851, nhà vua mới châu phê bản án.
Suốt một tháng tù, cha Đông bị quản thúc rất chặt chẽ. Một thầy giả làm lính canh đến gần ngục mà vẫn không nói gì. Khi thấy cha thầy thổn thức muốn khóc nên phải vội trở ra ngoài ngay, sợ bị lộ. Một tín hữu quan hệ riêng với quan cai ngục để vào tiếp tế ít nải chuối, vô tình quan tỉnh đi ngang qua nhìn thấy, liền ra lệnh sa thải viên cai ngục đó. Tuy nhiên dù nghiêm ngặt như thế, cha Phượng cũng vào giải tội cho Ngài được một lần, nhờ giả dạng làm người bán hàng rong.
Ngày 11/04 bản án của vua ra đến Sơn Tây: “Trẫm đã cứu xét hồ sơ tây dương đạo trưởng ở Sơn Tây. Luật nước đã cấm đạo Gia-tô. Thế mà tên Ao-du-tinh vẫn cả gan vào nước ta giảng đạo lừa dối dân. Trẫm truyền trảm quyết, đầu y thì bỏ trôi sông để răn dạy kẻ khác”. Bản án xác định ngày xử là 01-05 Dương lịch, đúng ngày đầu tháng hoa dâng kính Đức Mẹ. Cha Đông nghe tin đó thì thì vui mừng quỳ xuống đất, tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã xếp đặt cho mình được tử đạo vào ngày đầu tháng Đức Mẹ.

* Ngày khải hoàn.
Ngày xử diễn ra như một ngày hội, cha Đông đi chính giữa, hai bên là 8 binh sĩ tay cầm gươm sáng loáng, phía trước là hai hàng lính, mỗi hàng 50 người, một hàng cầm súng hàng kia cầm giáo. Khi có hiệu lệnh, lính ở hai hàng bắt chéo súng và nhau làm thành một cổng chào. Phía sau có hai thớt voi trận chở hai quan giám sát. Vị chứng nhân đi giữa hàng rước, cười tươi tỉnh như ngày khải hoàn. Cổ mang gông, đầu ngẩng cao, hai tay ôm xích sắt để khỏi vướng, cha thỉnh thoảng nhắm mắt lại để cầu nguyện. Đức cha Retord Liêu sau này đã phải kêu lên: “Đẹp biết bao cái chết của vị tử đạo !”. Hầu hết mọi người hiện diện hôm đó bao quanh cha đều sửng sốt và thán phục.
Khi đến nơi xử, pháp trường năm Mẫu, cha Đông quỳ xuống cầu nguyện một lát, rồi cầm thánh giá đeo trên cổ một cách cung kính hôn ba lần, đoạn cởi áo đưa đầu cho lý hình và nói: “Anh làm nhiệm vụ nhanh lên”. Quan giám sát nghe thấy cản lại: “Không được phải chờ đến hồi chiêng thứ ba mới được chém”. Hôm đó người lý hình run sợ quá, nên chém ba nhát mà vẫn chưa đứt. Phải lấy gươm cắt phần thịt còn lại. Đầu vị tử đạo bị bỏ trôi sông mất tích. Thi thể ngài được chôn cất tại chỗ, sau hai đêm tín hữu cải lên đem về an táng ở họ Bách Lộc.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII suy tôn cha Augustinô Đông lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh ngày 19-06-1988.

Ngày 01/05/1824-1852 Kính Nhớ Thánh Gioan Louis Bonnard (Cha cố Luy Hương) Tử đạo.

Thánh Gioan Louis Bonnard Cha cố Luy Hương

Gioan Lu-i Bô-na Hương, linh mục thừa sai Paris; sinh 1824 tại Saint-Christo-em-Jarez, Pháp; chết 01/05/1852 tại Nam Ðịnh. Ngài trực thuộc vào Hội Thứa Sai Ba Lê trong khi hoạt động tại Trung Phần, bị xử trảm ngày 01/05/1852 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức. Ngày 27-05-1900, Đức Lêô thứ VIII suy tôn cha Gioan Louis Bonnard Hương lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính ngày 01 tháng 05
* Quê hương và trầm hương.
Cuộc đời thánh Louis Hương, và nhất là cuộc tử đạo của Ngài gắn liền với tên gọi đã được Đức Cha Retordd Liêu đặt cho khi mới tới Việt Nam. Chúng ta có thể thấy rõ ý của vị giám mục qua lá thư gởi cho thánh nhân ở trong tù.
"… Tôi đã chúc lành cho cha khi đặt cho cha danh xưng đẹp đẽ CỐ HƯƠNG, nghĩa là người cha của quê hương là hương trầm và là hương thơm. Chính lúc này đây quê hương yêu dấu đó đang xuất hiện cho cha trong ánh huy hoàng, vì cha sắp là một trong những công dân hạnh phúc. Chính lúc này đây hương trầm chuẩn bị đốt lên trên bàn thờ tử đạo và bay đến tận ngai Đấng Vĩnh Cửu, chính lúc này đây hương thơm đáng ca ngợi sẽ làm hài lòng Đức Giêsu như bình hương của cô Malađêna, sẽ làm cho Thiên Thần và loài người, trời và đất hân hoan vì hương vị ngọt ngào của nó."
Vậy đó, suốt đời thánh nhân đã rao giảng về quê hương trên trời, đã chịu đốt cháy trong lao khổ và tỏa hương thơm ngào ngạt cho ngàn muôn thế hệ.
Gioan Louis Bonnard sinh ngày 01-03-1824 tại St. Chisrtoten-Jarret, giáo phận Lyon, nước Pháp. Năm 12 tuổi, cha mẹ lo liệu cho cậu vào chủng viện Alixe. Tuy học hành không xuất sắc, cậu được mọi người mến thương vì tính hiền lành và đời sống đạo đức. Trong thời gian này, cậu được nghe nhiều tin tức và mẫu gương truyền giáo ở vùng Viễn Đông, nên cũng ước ao sang Việt Nam giảng đạo. Ngày 04-11-1846, Bonnard xin vào hội Thừa Sai Paris hoàn tất chương trình thần học và thụ phong linh mục ngày 14-12-1848. Đầu năm 1849, cha Bonnard lên đường sang Việt Nam.
Khi vừa đến Phố Mới (Singapour), các bề trên định cử cha sang Ai Lao. Nhưng vì đường bộ không thể đi được, cha phải vòng về Hương Cảng tìm đường khác. Cuối cùng các bề trên quyết định bổ nhiệm cha vào Giáo phận Tây Đàng Ngoài. Đức Cha Liêu đón tiếp cha ân cần, đặt tên mới là Hương và tạo điều kiện học ngôn ngữ và phong tục ngôn ngữ Việt Nam.
* Trái chín của trời cao.
Sau đó Đức Cha đặt cha Hương coi hai xứ Kẻ Trình và Kẻ Báng. Mùa chay 1852, cha mời 5 linh mục Việt Nam đến giảng phòng cho xứ Kẻ Báng, nhiều tín hữu ở chung quanh cũng đến dự. Cuối tuần tĩnh tâm, một số tín hữu ở họ Bối Xuyên mời cha Hương về giúp cho xứ của mình. Khi đó vua Tự Đức đã ra chiếu chỉ cấm đạo gay gắt, nên cha lưỡng lự mãi nhận lời. Ngày 21-03-1852 tại Bối Xuyên, sau khi dâng lễ cha ban bí tích rửa tội và làm nghi lễ bù cho một số trẻ em thì thấy quân lính đến bao vây làng. Một viên quan bị cách chức muốn lập công, đã báo tin cho quan huyện biết. Cha Hương vội cởi áo lễ, chạy băng qua đồng lúa, nhưng vì nước ngập đến thắt lưng nên không thoát kịp và bị bắt. Trên đường áp giải cha về huyện, quân lính đi nhanh quá cha nói với họ rằng : "Anh nào gấp cứ đi trước, còn tôi lúc nào đến cũng được, chẳng có gì phải vội" lính mới đi chậm lại.
Đức cha Liêu nghe tin cha bị bắt liền cho người đem tiền đến chuộc, nhưng quan huyện không tiếp. Đức cha gởi thư cho cha Hương như sau :
"Theo tính tự nhiên, việc cha bị bắt làm tôi buồn phiền quá đỗi. Tôi rất đau lòng khi bị mất cha, đang lúc cha có thể đảm trách những nhiệm vụ lớn lao cho miền truyền giáo. Có thể thấy rõ rằng cha được hạnh phúc là người con rất yêu dấu của Đức Kito khổ nạn, nếu không nghĩ như thế, tôi muốn khiển trách cha. Tại sao đang ở một nơi có thể phục vụ đắc lực hơn nữa, cha bỏ Kẻ Báng để chui đầu ngõ cụt Bối Xuyên?"
"Tại Kẻ Báng, cha đã gặt hái biết bao nhiêu thành quả. Những bó lúa chín vàng ở đây thật nhiều, thật nặng với những hạt lúa chắc nịch. Tại đây cha đã ép cho Chúa Cha tràn lan thứ rượu nho là các nhân đức… Thôi, tôi sẵn sàng tha thứ cho cha, vì chính Thiên Chúa đã muốn thế. Dưới mắt Ngài cha là trái cây chín mọng giữa trời cao, trái cây sắp được Ngài hái về…."
* Ngọt ngào biết bao đau khổ vì Đức Kitô
Quan huyện chỉ giam giữ cha một đêm, sáng sớm hôm sau cho áp giải Ngài đến Nam Định. Hơn một tháng tù cha bị đưa ra tra khảo bốn lần. Cũng như các vị thừa sai khác, quan Tổng Đốc hỏi cha về tên tuổi, quê quán, lý do đến và những gì làm tại Việt Nam . nhiều lần các quan đã hỏi những nơi cha đã đi qua hay đã trú ngụ, và dọa đánh đòn nếu không khai. Cha đáp : "Các ngài muốn đánh thì cứ đánh, chư đừng mong tìm được một lời có hại đến tín hữu. Tôi đến đây để phục vụ cho đến chết. Các ngài sẽ lầm to nếu tôi tiết lộ điều gì dù rất nhỏ". Khi các quan nói cha đạp lên Thánh Giá và dọa kết án tử hình, cha trả lời : "Tôi đã nói tôi không sợ đòn đánh hoặc cái chết, tôi sẵn sàng chịu tất cả…. Tôi không đến đây để chối đạo, hay làm gương xấu cho các Kitô hữu.."


* Trong một lá thư cha Hương tâm sự rằng :
"Nói chung trong mọi cuộc khảo cung, tôi có kinh nghiệm cụ thể hiệu lực lời Đức kitô : ‘Các con đừng sợ phải trả lời những gì các quan trần thế, Chúa Thánh Linh sẽ nói thay các con’. (Mt.10,20). Thực vậy tôi không thấy bối rối chút nào, không thấy sợ gì và chưa bao giờ tôi nói tiếng Việt Nam dễ dàng và lưu loát như thế".
Thứ sáu tuần thánh năm đó, Đức Cha Liêu tìm gởi cha Lê Bảo Tịnh vào ngục giải tội và đưa mình thánh. Cha Hương tâm sự : "Đã lâu chưa bao giờ tôi vui đến thế, khi mang trong mình vua các Thiên Thần. Quả thật phải vô tù mang gông xiềng để hiểu được việc chịu đau khổ vì Đức Kitô Đấng chúng ta hằng yêu mến, thật ngọt ngào biết bao. Các bạn tưởng gông cùm của tôi nặng lắm sao ? Ồ, không ngược lại tôi thấy vui mừng vì có thể nói như thánh Phaolô : "Người tù của Đức Kitô’.
Cha Hương cũng viết tư an ủi song thân rằng : "Cha mẹ đừng buồn khi hay tin con bị bắt giam và đổ máu vì Đức Kitô. Cha mẹ có yêu con thì hãy vui mừng vì được phúc trọng ấy… sẽ có ngày cha mẹ và con đoàn tụ trên Thiên Đàng, khi đó chẳng còn lo phải xa cách nhau nữa."
Về phần các quan, thấy không làm được cha xuất giáo thì viết án gởi về kinh đô rằng : "Chúng thần đã tra khảo nhiều lần nhưng y không chịu khai gì cả. Không cần kéo dài vụ án nữa, đây là tên mọi Tây một loại trọng phạm, hiển nhiên là đáng bị tử hình…"
Nhận được tin về bản án, Đức Cha Liêu viết vào tù :
"Xin cha cứ bình an… Tôi sẽ săn sóc đặc biệt những bạn tù và những tín hữu của cha. Tôi sẽ là một người cha nhân từ của họ… Cha xin tôi ban phép lành, nhưng tôi đã chúc lành cho cha từ ngày cha mới đến, ơn lành đó vẫn ở với cha đến muôn đời, phải tôi đã chúc lành cho cha khi đặt tên cha là "CỐ HƯƠNG’… Nguyện xin sức mạnh của Chúa cha nâng đỡ cha trên đấu trường cha sắp bước vào. Nguyện xin công nghiệp Chúa Con an ủi cha trên đồi Canvê cha sắp bước lên. Và nguyện xin tình yêu Chúa Thánh Thần sưởi ấm cha trong ngục tù, nơi cha sẽ khởi hành đi đón nhận nghành vạn tuế tử đạo"
* Trong tay ngài, lạy chúa !
Và đây là bản di chúc của vị chứng nhân : "Giờ long trọng đã điểm. Vĩnh biệt, xin chào tất cả mọi người đã thương mến và nhớ đến tôi. Xin hẹn gặp nhau trên trời… trông cậy vào lòng nhân từ của Đức Kitô, tôi tin Ngài tha thứ muôn vàn tội lỗi cho tôi, tôi tự nguyện hiến dâng mạng sống và máu vì yêu thương Người và vì những linh hồn yêu dấu mà tôi muốn phục vụ hết mình. Ngày mai thứ 7, ngày 01-05, lễ thánh Philiphê và Giacôbê Tông Đồ, giáp năm ngày sinh nhật trên trời của cha Đông, tôi nghĩ sẽ là ngày hiến tế của tôi. Xin cho ý Chúa được thể hiện. Tôi vui lòng chịu chết. Xin chúc tụng Chúa. Xin chào tất cả trong Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Trong tay Ngài lạy Chúa xin phó thác linh hồn con ngừơi tù của Đức Kitô".
Sáng ngày 01-05-1852, cha Hương rước lễ lần cuối, vui vẻ theo quân lính ra pháp trường Bảy Mẫu, cách đó một dặm rưỡi về phía Nam. Đến nơi cha quỳ trên chiếu cầu nguyện. Cha phải chờ mộr giờ đồng hồ, vì quân lính quên mang dụng cụ tháo gông, phải chạy vền nhà kiếm. Sau đó họ trói vị chứng nhân vào cọc. Theo hiệu chiêng trống, lính chém đầu cha rơi trên cát. Dân chúng ùa vào thấm máu làm kỷ niệm, nhưng lính dùng roi đuổi tất cả ra xa, sau đó họ lấy áo ngoài, áo lót và hai ống quần cắt ra làm nhiều mảnh bán cho dân. Thân mình và đầu tử đạo được đưa lên thuyền bỏ trôi sông. Đức cha Liêu đã cho người đi một chiếc thuyền lảng vảng gần đó kịp thời vớt đưa về Vĩnh Trị. Đêm đó Đức Cha và vài linh mục âm thầm dâng lễ và an táng vị tử đạo trong chủng viện.
Ngày 27-05-1900, Đức Lêô thứ VIII suy tôn cha Gioan Louis Bonnard Hương lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Thứ Ba, 28 tháng 4, 2015

Thứ Năm Tuần IV Phục Sinh Ga 13,16-20.



Lời Chúa:Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy.
Ha-lê-lui-a. Lạy Chúa  Giê-su Ki-tô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết trổi dậy, Chúa đã yêu mến chúng con, và đã lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng con. Ha-lê-lui-a.
Ta sẽ yêu thương Người và giữ lòng thành tín
nhờ danh Ta, Người được thêm uy vũ
Người sẽ thưa với Ta: “ Ngài chính là Thân Phụ,
là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ !”

Lạy Chúa, tình thương Chúa, đời đời con ca tụng.


Ngày 30/04 – Thánh Piô V, Giáo hoàng (1504-1572)
Đây là vị giáo hoàng có công về Công đồng TrentôCông đồngVatican II có những khó khăn thì thánh Piô V cũng gặp nhiều rắc rối về Công đồng Trentô vậy.
Trong triều đại Giáo hoàng (1566-1572), ĐGH Piô V đối mặt với khó khăn là quy tụ giáo hội tản mác khắp nơi về một mốiGia đình của Chúa bị hoành hành vì tham nhũngcải cáchliên tục bị người Thổ Nhĩ Kỳ xâm lăng và các nước chiến tranh đẫm máuNăm 1545, vị giáo hoàng tiền nhiệm đã triệu tập Công đồng Trentô với nỗ lực là xử lý các vấn đề nổi cộm trong giáo hội.Suốt 18 nămcác giáo phụ đã thảo luậnkết tộixác định và quyết định cách hành độngCông đồng kết thúc năm 1563.
ĐGH Piô V được bầu chọn năm 1566 và chịu trách nhiệm bổ sung việc cải cách mà Công đồng kêu gọiNgài cho thành lập các chủng viện để đào tạo linh mục đúng quy cách, cho xuất bản sách lễ mới, sách kinh nhật tụng mớisách giáo lý mới và thành lập Hội Ái hữu Học thuyết Kitô giáo (Confraternity of Christian Doctrine – CCD) cho giới trẻNgài ban hành pháp chế chống lạm dụng trong giáo hội. Ngài kiên trì phục vụ người bệnh và người nghèo bằng cách cho xây các bệnh việncung cấp lương thực cho người đói khát, số tiền thường được dùng để đãi tiệc của giáo hội thì ngài trao cho các tân tòng nghèo khổQuyết định của ngài trở thành thói quen của dòng Đa Minh là mặc áo dòng trắng.
Vừa nỗ lực cải cách giáo hội vừa cải cách đất nướcngài bị chống đối mãnh liệt từ phía nữ hoàng Elizabeth của Anh và hoàng đế Maximilian II của RômaCác vấn đề ở Pháp và Hà Lan cũng cản trở hy vọng của ngài là liên kết Âu châu để chống lại người Thổ Nhĩ KỳCuối cùng ngài giành được Vịnh Lepanto khỏi tay Hy Lạp vào ngày 7/10/1571.
Ngài không ngừng đòi hỏi canh tân giáo hội, là nền tảng sống của ngài với tư cách là một tu sĩ dòng Đa MinhNgài dành nhiều thời gian cầu nguyện với Chúaăn chaytừ chối những xa xỉ dành cho giáo hoàng và nghiêm túc theo tu luật và tinh thần Đa Minh.

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2015

Thứ Tư Tuần IV Phục Sinh Ga 12,44-50.



Lời Chúa: Tôi là ánh sáng, tôi đã đến thế gian.
Ha-lê-lui-a. Chúa nói: “ Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” Ha-lê-lui-a.
Chúa ghi vào sổ bộ các dân:
Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài.
Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta !

Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người.


Ngày 29/04 – Thánh Catarina Siêna (1347-1380)
Thánh nữ Catarina sống không lâu nhưng hoàn toàn dành cho Đức Kitô. Điều ấn tượng nhất ở bà là “đầu hàng” Thiên Chúa.
Bà là con thứ 23 của ông Jacopo và bà Lapa Benincasa. Bà thông minh, vui vẻ và đạo đức. Bà làm người mẹ thất vọng khi bà cắt tóc để làm xấu mình mà không thanh niên nào muốn cưới bà. Người cha muốn mọi người để cho con gái được yên, dành riêng một phòng để con gái cầu nguyện và suy niệm.
Lúc 18 tuổi, bà vào Dòng Ba Đa Minh, dành 3 năm sống cô tịch, cầu nguyện và khổ hạnh. Dần dần nhiều người theo bước bà – đàn ông, đàn bà, và cả các linh mục. Đời sống tông đồ của bà lớn mạnh nhờ sống chiêm niệm. Đa số các thư viết của bà về hướng dẫn tâm linh và khuyến khích những người theo bà, càng ngày càng được chú ý. Nhiều người chống đối và vu oan cho bà vì bà bộc trực (candor) và hoàn toàn vì Chúa Kitô. Nhưng rồi bà được giải oan tại Tổng hội dòng Đa Minh (Dominican General Chapter) năm 1374.
Ảnh hưởng của bà lên đến đỉnh cao nhờ sự thánh thiện của bà, và bà đã gây ấn tượng sâu sắc đối với Đức Giáo Hoàng. Bà hoạt động không ngơi nghỉ để chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ, giải hòa giữa Florence và ĐGH.
Năm 1378 xảy ra vụ Đại ly giáo (Great Schism), chia cách các nước theo Kitô giáo, chia hai rồi chia ba, có các giáo hoàng và thậm chí đặt các thánh vào thế đối nghịch. Thánh Catarina dành 2 năm cuối đời ở Rôma, cầu nguyện, bào chữa giáo hội nhân danh ĐGH Urbanô VI và sự hiệp nhất giáo hội. Khi qua đời, các “con cái” vây quanh bà.
Thánh Catarina uy tín trong các nhà thần bí (mystics) và những người viết về tâm linh của giáo hội. Năm 1970, ĐGH Phaolô VI tôn vinh thánh Catarina và thánh Têrêsa Avila là Tiến sĩ Giáo hội. Những năm gần đây, người ta đề nghị nên chọn thánh Catarina làm bổn mạng Internet. Chúc thư tâm linh (spiritual testament) của bà có trong cuốn The Dialogue (Đối thoại).

Ngày 29/04/1811-1861 Thánh Giuse Tuân Linh mục Tử đạo.




Giuse Tuân chào đời khoảng năm 1811 tại họ Trần Xa, xứ Cao Xá, tỉnh Hưng Yên. Tuy là gia đình nông dân nghèo, nhưng cha mẹ cậu là người đạo đức và tận tâm giáo dục con cái. Tứ cái nôi ấm cúng đó, Giuse Tuân đã lớn lên trong chân lý đức tin và trong tình thương của Thiên Chúa, của cha mẹ và của mọi người.
* Chứng nhân tình thương.
“Thiên Chúa vẫn luôn luôn tác tạo những mùa xuân tươi đẹp. Ngài ban cho mùa màng tiếp tục sinh hoa kết trái. Cũng thế, do bàn tay uy quyền và rộng rãi của Ngài, Thiên Chúa sẽ gieo vãi trên mỗi thế hệ đang lên đầy đủ những đức tính dịu hiền nhân ái, để nâng đỡ những người buồn thảm, hỗ trợ những kẻ lâm nguy. Tương lai sẽ do tình thương, vì không sớm thì muộn, tình thương sẽ thắng sự oán thù. (Fx Ronsin)
Linh mục Giuse Tuân đã sống và chết hiên ngang để làm chứng cho Thiên Chúa,  Đấng sáng tạo muôn loài, mà con người là thụ tạo được Ngài yêu thương hơn cả, đễn nỗi ban chính Con Một Ngài là Đức Giêsu Kitô, để cho thế gian được ơn tái sinh và sự sống viên mãn cùng Ngài (Ga 10,10)
Giuse Tuân chào đời khoảng năm 1811 tại họ Trần Xa, xứ Cao Xá, tỉnh Hưng Yên (nay là Hải Hưng). Tuy là gia đình nông dân nghèo, nhưng cha mẹ cậu là người đạo đức và tận tâm giáo dục con cái. Tứ cái nôi ấm cúng đó, Giuse Tuân đã lớn lên trong chân lý đức tin và trong tình thương của Thiên Chúa, của cha mẹ và của mọi người.

Từ thiếu niên, cậu Tuân đã được nhận vào nhà Đức Chúa Trời học tập và sống tinh thần Phúc Âm. Sau đó cậu được chọn và học chủng viện, rồi thụ phong Linh mục, trở thành người phục vụ Tin Mừng trong thời bách hại tàn khốc nhất dưới triều đại vua Tự Đức, với những cuộc bắt bớ nhằm tiêu diệt các giáo sĩ và giáo dân trên đất Việt. Để có cơ hội cộng tác chặt chẽ hơn với các thừa sai Đaminh trong công cuộc truyền giáo, năm 1857 cha Giuse Tuân xin vào dòng anh em Thuyết giáo (trong dòng tên gọi cha là Hoan). Năm 1858, cha được tuyên khấn trong dòng và trở thành một tu sĩ gương mẫu đạo đức.

Thánh Giuse Tuân Linh mụ

* Truyền bá tình thương.
Trước cơn bách hại tàn bạo của vua Tự Đức, vì lo lắng cho đoàn chiên bơ vơ, cha Tuân phải lẫn trốn để có thể âm thầm phục vụ cho con cái trong hoàn cảnh khó khăn này.
Đầu năm 1861, khi cha đang giúp ở xứ Ngọc Đồng, một bà già bị bệnh nặng sai con trai đi mời cha Tuân về ban bí tích sau cùng cho bà. Không ngờ người con ngỗ nghịch này vì ham lợi lộc đã trở thành kẻ phản bội. Hắn đi tố giác với quan huyện để lấy tiền thưởng. Quan liền bắt cha giải lên tỉnh Hưng Yên nộp cho quan Tổng đốc.
Tại công đường, dù cha Tuân bị hành hạ, tra tấn, gông cùm… vẫn hiên ngang trung thành với Thầy chí thánh. Cha một mực làm chứng cho niềm tin của mình vào Đức Giêsu, dù phải hy sinh cả mạng sống. Hân hoan với diễm phúc tử đạo sắp được lãnh nhận, bất chấp những đau đớn và khổ hình trong tù, cha vẫn tiếp tục rao giảng tình thương vô biên của Thiên Chúa. Cha khích lệ, nâng đỡ tinh thần những anh em giáo hữu đang bị giam cầm, an ủi những anh em giáo hữu âm thầm đến thăm cha và ban bí tích cho họ.
* Trong tình yêu Thiên Chúa.
Cuối cùng người chiến sĩ anh dũng đã chạy tới đích. Sau nhiều cực hình trong mấy tháng trời, án trảm quyết cha Tuân được vua Tự Đức châu phê.
Ngày 29.04.1861, cha bị đem ra pháp trường Hưng Yên xử. Tại pháp trường, một giáo hữu chứng kiến vụ hành quyết cha, bà Anna Bình, đã làm chứng trong hồ sơ phong thánh như sau:
“Tôi đã thấy người tôi tá Chúa (cha Tuân) đi lãnh án tử với thái độ trang nghiêm, dũng cảm và hân hoan. Cha phải bước đi khó khăn, chậm chạp vì hai chân bị xiềng xích nặng nề. Khi tới nơi xử, cha quỳ gối xuống, kêu tên Cực Thánh Giêsu, biểu lộ lòng tin yêu và phó thác, rồi bình thản đón chờ cái chết. Có nhiều người đã chứng kiến cái chết oai hùng của cha. Tôi đến gần và lấy vải thấm máu cha vừa đổ xuống”.
Đúng 90 năm sau ngày vị anh hùng đức tin về Thiên Quốc. Ngày 29.04.1951, Đức Thánh cha Pio XII suy tôn linh mục Giuse Tuân lên bậc chân phước cùng với 24 vị tử đạo khác trên đất Việt. Ngày 19.06.1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nâng ngài lên bậc Hiển thánh.

Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2015

Ngày 28/04 Kính Nhớ Ba Vị Thánh Tử Đạo Việt Nam


Thánh Phaolô Phạm Khắc Khoan Linh mục 1771-1840
Thánh Phêrô Nguyễn Văn Hiếu Thầy giảng 1777-1840

Thánh Gioan Baotixita Đinh Văn Thành Thầy giảng 1796-1840

Thánh Phaolô Phạm Khắc Khoan Linh mục

 Phaolô Phạm Khắc Khoan, Sinh năm 1771 tại Duyên Mậu, Ninh Bình, Linh mục, bị xử trảm ngày 28/04/1840 tại Ninh Bình dưới đời vua Minh Mạng cùng với Thánh Gioan Baotixita. Đinh Văn Thành và Thánh Phêrô Hiếu trực thuộc Hội Thừa Sai Balê. Đức Lêo thứ XIII suy tôn Phaolô Phạm Khắc Khoan lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 28/04 hằng năm.

Thánh Phêrô Nguyễn Văn Hiếu Thầy giảng 
* Lời ca cảm tạ.
Tâu thượng đế,
Này thần dân xin hát mừng trước bệ
Tuyên xưng Ngài là Chúa Tể càn khôn…
Suy tôn Chúa bậc tông đồ hợp xướng,
Tán tụng Ngài bao thế hệ tiên tri.
Đoàn tử đạo quang huy hùng dũng,
Máu đào đổ ra minh chứng về Ngài…
Đó là lời kinh TE DEUM lời kinh tạ ơn mà cha khoan và hai thầy Hiếu, thầy Thành đã hát vang lên trong ngục, cũng như trên đường ra pháp trường. Đó là lời kinh đem lại phấn khởi cho những ai nghe được. Đó là tiếng hát của Giáo Hội sơ khai, khi cuộc bách hại 300 năm chấm dứt, nay lại vang lên trên môi miệng các vị tử đạo Việt Nam, vượt thấu chín tầng mây, chấp cánh cho các ngài bay về hợp đoàn với muôn thần thánh trên Thiên Quốc.
* Định mệnh nối kết ba con người.
Phaolô Phạm Khắc Khoan sinh năm 1771 tại làng Bồng Hải, tỉnh Ninh Bình, thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài. Sau khi thụ phong linh mục, cha phụ trách xứ Kẻ Vịnh, rồi xứ Phúc Nhạc, nơi đông dân cư nhất trong tỉnh. Cha Khoan rất hăng say hoạt động tông đồ, ngoài xứ chính ra cha còn phụ trách thêm hai họ Đông Biên và Tôn Đạo. Mỗi tháng Ngài đều đến các họ lẻ dâng lễ, giải tội và khích lệ giáo hữu sống đạo đức gương mẫu hơn. Mỗi lần đi như vậy cha thường dẫn theo một vài thầy giảng để giúp dạy giáo lý và tiếp xúc sâu xát hơn với quần chúng. Năm 1837, có hai thầy cùng đi với cha về giúp họ Đông Biên là thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu 60 tuổi, người làng Đồng Chuối,và thầy Gioan Baotixita Đinh Văn Thành, 41 tuổi, gốc Luốn khê (Phát Diệm). Trên đường trở về, cả ba cha con bị bắt và bị giải về Ninh Bình. Khi đó cha Khoan đã 66 tuổi.

Thánh Gioan Baotixita Đinh Văn Thành Thầy giảng 
* Trước lời đường mật.
Vì kính trọng cha tuổi cao lại có tướng người phúc hậu, một hôm quan Tổng trấn mời ngài đến và nói: "Ta muốn kết thân với ông. Ta chỉ muốn tìm cách cứu mạng ông thôi. Xin ông chịu khó chấp nhận bước qua Thập Giá". Cha trả lời : "Mấy tháng qua ở trong tù, tôi đã suy tính kỹ lắm rồi, nhưng càng nghĩ tôi càng xác tín hơn, càng cương quyết giữ vững đức tin cho đến chết". Rồi cha kể lại chuyện xảy ra năm 1802:
"Khi đó, Thế Tổ Gia Long, phụ thân của Hoàng đế ra Hà Nội, chúng tôi có đến ra mắt. Người hứa cho chúng tôi được tự do giảng đạo, xây nhà thờ và các nhà bác ái. Người yêu cầu chúng tôi cổ động dân chúng sống hòa thuận và chăm chỉ làm ăn. Từ đó đến nay, tôi vẫn lệnh vua, nhắc nhở bà con làm điều tốt, tránh điều xấu. Tôi thờ Vua trên trời và thuần phục vua dưới đất, tôi vẫn xin Vua trên trời ban ơn cho các quan, để thời các ngài được thái bình thịnh trị. Sao hôm nay quan lại bảo tôi bỏ lệnh Tiên Đế mà tôi đã tuân hành biết bao năm nay ?
- Thế ông không muốn sống à ?
- Thưa quan, mọi sinh vật đều muốn sống, huống chi là con người có suy nghĩ. Ai biết giá trị cuộc sống mà chẳng ham sống. Thế nhưng với người Kitô hữu, chết là cách sống đời đời trên Thiên Đàng.
- Ai bảo ông là có Thiên Đàng.
- Đó là chuyện đương nhiên. Như nhà vua vẫn ban thưởng cho những trung thần, thì Chúa trời đất chẳng lẽ không ban thưởng cho những tôi trung phục vụ Người đến chết sao ? Nơi tưởng thưởng đó, chúng tôi gọi là Thiên Đàng.
- Vậy ai dạy cho ông biết là có Chúa trời đất ?
- Thưa Tổng trấn, không cần phải ai dạy cả, chính trời đất vũ trụ là cuốn sách mở ra dạy ta bài học đó. Nhìn ngắm những công trình kỳ diệu của thiên nhiên tức khắc phải nhận ra có Đấng Tạo Hóa đó là Chúa Trời và tôn thờ Người".
Vì hy vọng thời gian sẽ làm các anh hùng đức tin nản chí, quan tìm cách trì hoãn vụ án thật lâu. Thấm thoát ba vị đã ở tù được gần ba năm. Thỉnh thoảng quan lại gọi ra tòa đề nghị bước qua Thập Giá. Mới đầu thì khuyên dụ ngọt ngào, sau dùng cực hình để cưỡng bách, nhưng không cách nào có thể làm các vị thay lòng đổi dạ.
Thái độ hai thầy giảng cũng làm cho mọi người bỡ ngỡ thán phục. Dù bị hành hạ dã man đến đâu, hai thầy cũng vẫn thản nhiên nhẫn nại, không bao giờ trách mắng chửi rủa, chỉ lập đi lập lại một điều : "Dù sống dù chết, chúng tôi không bao giờ bỏ đức tin". Niềm an ủi lớn nhất của hai thầy là được ở gần cha Khoan, sớm hôm tâm sự và thỉnh thoảng lãnh bí tích giải tội. Các thầy coi những ngày ở tù như thời gian thanh luyện để lập công đền bù những lỗi lầm từ thơ ấu. Đôi khi có người khéo léo đưa được Mình Thánh Chúa vào tù, đó là những ngày sung sướng và hạnh phúc nhất của ba vị.
Một lần cha Khoan nói thẳng với quan án rằng: "Quan bảo tôi chà đạp Thập Giá là điều chẳng hợp lý chút nào?". Quan hỏi : "Sao lại không hợp lý, ta chỉ cho ông con đường sống mà không hợp lý à ?". Cha nói : "Thưa quan, nếu nước nhà có biến, mà quan sợ chết đào ngũ thì quan là kẻ hèn nhát. Cũng vậy, tôi nhờ ơn Vua cả trên trời, tôi đâu có quyền sợ chết mà bỏ Người được".
* Lời chứng cuối cùng …và bài ca phục sinh.
Khi thấy hoàn toàn thất vọng trước sự kiên tâm quyết chí của ba người "lính" Chúa Kitô, quan đành quyết định ký án tử gởi về triều đình Huế xin phép. Trong những ngày chờ đợi cuối cùng đó, trại giam Ninh Bình vang vọng những tiếng hát hân hoan. Đó là tiếng hát cha Khoan và hai thầy giảng hát lên lời kinh Tạ Ơn. Cha một câu, hai thầy một câu, nhịp nhàng rộn rã. Trên đường ra pháp trường, ba vị vẫn không ngừng cất tiếng ca những lời tri ân đó.
Tại pháp trường ngày 28.04.1840, cha Khoan xin phép nói với dân chúng đôi lời, ngài nói : "Thưa đồng bào và các bạn hữu, chúng tôi không phạm tội ác, không chống lại vua, không lỗi luật nước. Chúng tôi chết chỉ vì là Kitô hữu và vì không chịu bỏ đạo Kitô, là đạo duy nhất chân thật".
Lính đẩy ba vị vào khu vực riêng xa tầm mắt dân chúng. Ba vị giơ tay lên trời, hai thầy hiệp ý cầu nguyện với linh mục : "Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa trời đất. Chúng con hiến dâng mạng sống cho Ngài, xin Chúa chúc phúc cho nhà vua được cai trị lâu dài trong an bình. Xin biến đổi trái tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy nhất có thể đem lại cho con người hạnh phúc đích thực".
Tiếp theo ba vị cầu nguyện bằng thánh ca. như trong đêm Phục Sinh, cha Khoan hát lên ba lần Allêluia, Allêluia, Allêluia mỗi lần nói cung giọng cao hơn. Xen kẽ vào đó hai thầy giảng cũng hát thay cho cộng đoàn theo cao độ của vị chủ sự : "Allêluia, Allêluia, Allêluia".
Sau đó lý hình thi hành phận sự. Ba cái đầu cùng rơi xuống đưa ba vị thánh về hợp xướng với ca đoàn thiên thần trên Thiên Quốc với khúc hát Phục Sinh Allêluia bất diệt. Năm đó cha Khoan 69 tuổi, thầy Hiếu 63 tuổi, thầy Thành 44 tuổi. Thầy giảng Huấn chứng kiến từ đầu vụ hành quyết, đã lãnh thi thể ba vị về Phúc Nhạc an táng theo nghi lễ công giáo.
Đức Lêo thứ XIII suy tôn cha Phaolô Phạm Khắc Khoan, hai thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu và thầy Gioan Baotixita Đinh Văn Thành lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.


* Tâm tình Đức Cha Retord Liêu trong thơ gởi cha Khoan.
"Sách có câu : Chết vinh hơn sống nhục. Hãy coi những kẻ bội giáo, cuộc đời họ đáng tủi hổ biết bao. Ngược lại khắp bốn phương thiên hạ đều vang lời khen ngợi những ai chết cho đức tin. Các vị tử đạo như tiếng kèn Thiên Quốc, với âm điệu vang lừng muôn người lắng nghe. Những kẻ chối đạo, ở lại trần gian chỉ để chờ lưỡi rìu chặt đem về tiếp lửa cho hỏa ngục.
Máu các vị tử đạo như giọt sương đêm tưới mát vườn hoa Giáo Hội làm nó thêm phong nhiêu (phong phú và phù nhiêu)…
Tôi viết cho cha những lời vắn tắt vội vã này. Ước mong nó thành ngọn gió đưa cha lướt êm đến bến bờ quê hương. Ước mong nó thành đóa hoa rực rỡ với làn hương thơm tỏa ngát niềm vui tô thắm tâm hồn cha trong cuộc chiến cuối cùng. Xin kính cẩn tạm biệt cha. Xin kính cẩn hôn lên gông cùm xiềng xích của cha. Trong lúc cầu nguyện xin đừng quên tôi nhé !"