Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016

Thứ Ba Tuần III Mùa Chay Mt 18,21-35.

Lời Chúa: Nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho anh em.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Đức Chúa phán: Ngay lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, bởi vì Ta từ bi nhân hậu.
Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết,
lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con.
Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài
và bảo ban dạy dỗ,

vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con.

Ngày 01/03 – Thánh David Wales, Giám mục (qua đời năm 589?)
Thánh David là bổn mạng xứ Wales và có thể là vị thánh nước Anh nổi tiếng nhất. Nhưng chúng ta có ít thông tin về ngài.
Chỉ biết ngài là linh mục, tham gia truyền giáo và lập nhiều dòng, kể cả tu viện chính của ngày ở Tây Nam Wales. Nhiều câu chuyện và truyền thuyết về ngài và các tu sĩ của ngài ở Wales. Cuộc sống khổ hạnh của họ đến cực độ, làm việc trong thinh lặng và hoàn toàn làm việc bằng chân tay. Lương thực chỉ là, bánh, rau và nước.
Khoảng năm 550, ngài tham dự một công nghị, tài hùng biện của ngài đã gây ấn tượng với các tu sĩ đến độ ngài được chọn làm giám mục. Tòa giám mục được chuyển về Mynyw, nơi ngài có một tu viện (ngày nay gọi là tu viện thánh David). Ngài điều hành giáo phận tới khi ngài già yếu. Lời cuối cùng ngài nói: “Hãy vui mừng, hỡi nam nữ tu sĩ. Hãy giữ vững đức tin và hãy làm những việc nhỏ mà anh chị em thấy và nghe từ tôi”.
Thánh David được vẽ đứng trên một mô đất với chim bồ câu trên vai. Tương truyền có lần ngài đang giảng thì con chim bồ câu đâu lên vai ngài và đất dâng lên đưa ngài lên cao hơn mọi người để ngài có thể nói cho mọi người nghe. Hơn 50 nhà thờ ở Nam Wales dâng kính ngài trong thời tiền Cải cách.

Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2016

Thứ Hai Tuần III Mùa Chay Lc 4,24-30.

Lời Chúa: Như ông Ê-li-a và ông Ê-li-sa, Đức Giê-su không chỉ được sai đến với người Do-thái.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời người; bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.
Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa,
tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con.
Con gảy đàn dâng câu cảm tạ,

lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ.

Chúa Nhật III Mùa Chay Năm C

Lời Chúa: Nếu các ông không chịu sám hối, thí các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.
       Lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giê-su đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy".

        Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?" Nhưng người làm vườn đáp: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.’”

SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
Bài Tin Mừng theo thánh Luca kể lại cho chúng ta lời bình luận của Chúa Giêsu về hai biến cố vừa xảy ra. Biến cố thứ nhất là cuộc nổi loạn của vài người Galilêa bị quan Philatô đàn áp giết chết, biến cố thứ hai là ngọn tháp Silôa sụp đổ làm cho 18 người thiệt mạng, hai biến cố bi thảm này xảy ra khác nhau. Và Chúa Giêsu luôn kêu gọi mọi người hãy sám hối. Tuy nhiên, có người tưởng rằng mình vô tội nên chẳng cần gì phải ăn năn sám hối, Chúa nói: ‘Tôi nói cho các ông biết, nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông cũng sẽ phải chết như vậy.’
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối, vì năm thánh Lòng Thương Xót Chúa giúp chúng ta nhận ra tình yêu vô biên của Chúa, để chúng ta nhận ra con người yếu đuối của mình cần được Chúa thứ tha. Con người càng nhận ra tình thương của Chúa, cần ý thức thân phận bọt bèo, mềm yếu của mình, cần được Chúa thứ tha nhờ đó chúng ta càng cần cảm thông với những yếu hèn của người khác. Tất cả chúng ta đều cần ơn tha thứ của Chúa. Do đó, sám hối là khởi đầu của việc nên thánh. Sám hối là sám hối trong cái nhìn về Thiên Chúa nhân từ, nên đồng thời cũng có cái nhìn thay đổi, đứng đắn, đầy cảm thông đối với người khác.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã nói rằng: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy, Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được”. Xin cho chúng con luôn kết hiệp chặt chẽ với Chúa trong mọi giây phút của đời mình để cuộc sống của chúng con được sinh nhiều hoa trái tốt lành để tôn vinh Thiên Chúa và mưu ích cho anh chị em.  Amen

Ngày 28/02 – Chân phước Daniel Brottier, Linh mục (1876-1936)
Daniel Brottier sinh ngày 07-09-1876 tại La Ferté-Saint-Cyr, giáo phận Blois, Pháp. Ngài thụ phong linh mục năm 1899 và bắt đầu dạy học tại trường Pontlevoy (Pháp). Ngài muốn loan báo Tin Mừng cả ngoài lớp học nên ngài gia nhập Hội Truyền giáo Chúa Thánh Thần (Congregation of the Holy Ghost) tại Orly (Pháp) năm 1902, đi truyền giáo tại Saint-Louis, Senegal, thuộc Tây Phi, năm 1903. Sau 8 năm, vì sức khỏe suy yếu, ngài trở lại Pháp năm 1911 và quyên góp tiền xây nhà thờ chính tòa mới tại Dakar, Senegal. Thánh đường này được thánh hiến ngày 02-02-1936, chỉ vài tuần trước khi ngài qua đời.
Bắt đầu Thế Chiến I, Daniel làm tuyên úy tình nguyện và ra biên giới 4 năm. Ngài không trốn tránh nhiệm vụ. Thật vậy, ngài đã xả thân giữa trận chiến và bị thương. Ngài được tuyên dương là can đảm 6 lần, được thưởng Huân chương Chiến công (Croix de Guerre) và Bắc đẩu Bội tinh (Legion of Honour). Ngài sống sót nhờ cầu nguyện với thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu nên ngài xây một nhà nguyện dâng kính thánh nữ tại Auteuil khi thánh nữ được phong thánh.
Sau chiến tranh, ngài được mời giúp thành lập một dự án cho trẻ mồ côi tại Auteuil, ngoại ô Paris. Ngài sống 13 năm ở đó. Ngài qua đời ngày 28-02-1936 tại Paris. Có khoảng 15.000 người dân Paris đến kính viếng ngài và ĐHY Verdier đã giảng trong thánh lễ an táng ngài. Ngài được ĐGH Gioan-Phaolô II phong bậc đáng kính ngày 13-01-1983 và phong chân phước ngày 25-11-1984.

Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2016

Thứ Bảy Tuần II Mùa Chay Lc 15,1-3.11-32.

Lời Chúa: Em con đây đã chết mà nay sống lại.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Tôi sẽ trỗi dậy, trở về với cha tôi và thưa với người rằng: “ Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha”.
Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,

tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.

Ngày 27/02 – Thánh Gabriel Đức Mẹ Sầu Bi, Tu sĩ (1838-1862 )
Sinh tại Ý trong một gia đình nhiều người và có tên thánh rửa tội là Phanxicô, ngài mồ côi mẹ khi mới 4 tuổi. Ngài được học với các tu sĩ dòng Tên, hai lần khỏi bệnh nặng, và tin Chúa gọi mình sống đời tu trì. Phanxicô muốn vào dòng Tên nhưng bị từ chối, có lẽ do tuổi tác, vì chưa đủ 17 tuổi. Sau khi người chị chết vì bệnh dịch tả, ý muốn đi tu của ngài càng mạnh hơn và ngài được dòng Chúa Chịu Nạn (Passionists) chấp nhận. Khi vào nhà tập, ngài có tên dòng là Gabriel Đức Mẹ Sầu Bi.
Gabriel mau chóng thành công trong nỗ lực sống đức tin trong từng việc nhỏ. Ngài có tinh thần cầu nguyện, yêu thương người nghèo, cân nhắc cảm xúc của người khác, tuân thủ luật dòng (Passionist Rule) và hành xác, luôn vâng lời ý khôn ngoan của bề trên. Những điều đó khiến mọi người có ấn tượng mạnh.
Bề trên muốn Gabriel làm linh mục, nhưng chỉ mới tu 4 năm, triệu chứng bệnh lao xuất hiện. Luôn vâng lời, ngài chịu đựng đau đớn, không đòi hỏi được quan tâm đặc biệt. Ngài qua đời ngày 27-02-1862, khi mới 24 tuổi, nêu gương sáng cho cả người trẻ lẫn người già. Ngài được phong thánh năm 1920.

Thứ Năm, 25 tháng 2, 2016

Thứ Sáu Tuần II Mùa Chay Mt 21,33-43.45-46.

Lời Chúa: Đứa thừa tự đây rồi ! Nào ta giết quách nó đi.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời.
Nhà vua, vị thủ lãnh các dân thời đó,
truyền tháo cởi gông xiềng và phóng thích ông,
rồi đặt ông làm tể tướng triều đình,

làm chủ mọi tài sản hoàng gia.

Ngày 26/02 – Thánh Porphyry Gaza, Giám mục (353-421)
Chúng ta lật lại lịch sử để biết một chút về một thánh nhân không mấy quen với đa số những người ở Tây phương nhưng được các giáo hội Chính thống Nga và Hy lạp tôn kính. Ngài sinh ở gần Hy lạp hồi giữa thế kỷ thứ IV, Porphry nổi tiếng về lòng quảng đại với người nghèo và cuộc sống khổ hạnh. Các vùng hoang địa và hang động đã là nơi ở của ngài một thời gian. Lúc 40 tuổi, ngài ở Jerusalem và được thu phong linh mục.
Không biết những gì chúng ta biết được có đúng hay không: Ngài được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Gaza, ngài không muốn nhưng ngài bị bắt cóc (với sự hỗ trợ của vị giám mục khác) và bị bắt ép tấn phong giám mục. Không lâu sau, ngài bị dân địa phương kết tội gây nạn hạn hán. Không lâu sau đó có mưa, dân chúng tin ngài và dần dần bớt căng thẳng.
Tiếp 13 năm sau, Porphyry làm việc không biết mệt mỏi vì mọi người, hướng dẫn họ và làm họ trở lại đạo, dù vẫn có nhiều người ngoại giáo phản đối suốt đời ngài.

Thứ Tư, 24 tháng 2, 2016

Thứ Năm Tuần II Mùa Chay Lc 16,19-31.

Lời Chúa: Con đã nhận phần phước ủa con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Hạnh phúc thay người thành tâm thiện chí, hằng ấp ủ lời Chúa trong lòng, nhờ kiên nhẫn mà sinh hoa kết quả.
Ác nhân đâu được vậy:
chúng khác nào vỏ trấu thổi bay.
Vì Chúa hằng che chở nẻo đường người công chính,

còn đường lối ác nhân đưa tới chổ diệt vong.

Ngày 25/02 – Chân phước Sêbastianô Apariciô (1502-1600)
Những con đường và những cây cầu của chân phước Sêbastianô nối với nhiều vùng sâu vùng xa. Cây cầu cuối cùng của ngài là để giúp nam giới và nữ giới nhận biết phẩm giá và số mệnh của mình mà Thiên Chúa đã ban.
Cha mẹ của Sêbastianô là những nông dân người Tây ban nha. Lúc 31 tuổi, ngài đến Mexico làm nông nghiệp. Ngài làm nhiều con đường giúp cho việc thương mại được dễ dàng. Con đường dài 466 dặm từ thành phố Mexico tới Zacatecas mất 10 năm mới hoàn tất và phải thương lượng với nhiều người dọc hai bên đường.
Thời đó, Sêbastianô là một nông dân giàu có. Có thể sự thúc đẩy của người vợ là tài sản lớn của ngài. Khi người vợ đầu tiên qua đời, ngài bước vào cuộc hôn nhân trong trắng (virginal marriage) lúc ngài 60 tuổi. Người vợ thứ hai cũng chết sớm.
Lúc 72 tuổi, Sêbastianô phân phát của cải cho người nghèo rồi vào dòng Phanxicô. Ngài ở một tu viện tại Puebla de los Angeles, phía Nam thành phố Mexico, Sêbastianô đi khất thực suốt 25 năm. Ngài sống bác ái nên người ta đặt cho ngài biệt danh là “Thiên thần của Mexico”. Sêbastianô được phong chân phước năm 1787 và được coi là bổn mạng của những người đi du lịch.

Thứ Hai, 22 tháng 2, 2016

Thứ Tư Tuần II Mùa Chay Mt 20,17-28.

Lời Chúa: Họ sẽ kết án xử tử Đức Giêsu.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Chúa nói: Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.
Con tin tưởng nơi Ngài, lạy Chúa,
dám thưa rằng: Ngài là Thượng Đế của con.
Số phận con ở trong tay Ngài.
Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ,

khỏi người bách hại con.

Ngày 24/02 – Chân phước Luca Belludi (1200–khoảng năm 1285)
Năm 1220, thánh Antôny đang giảng đạo cho cư dân ở Padua thì chàng trai Luca Belludi đến gặp ngài và xin nhận y phục của những người theo thánh Phanxicô. Thánh Antôny thấy Luca có tài và có giáo dục nên giới thiệu với thánh Phanxicô. Luca được thánh Phanxicô nhận vào dòng Phanxicô (Franciscan Order).
Lúc 20 tuổi, Luca theo thánh Antôny đi giảng đạo và được bổ nhiệm làm vệ sĩ của các tu sĩ Dòng Anh em Hèn mọn (Friars Minor) ở thành phố Padua. Năm 1239, thành phố rơi vào tay kẻ thù. Giới quý tộc bị giết chết, thị trưởng và hội đồng thành phố bị giải tán, trường đại học Padua dần dần đóng cửa và nhà thờ dâng kính thánh Antôny bị bỏ dở. Luca cũng bị đi đày nhưng đã bí mật trở lại. Ban đêm, Luca và vệ sĩ mới có thể đến viếng mộ thánh Antôny để cầu nguyện và xin trợ giúp. Một đêm nọ, có tiếng nói vọng lên từ mộ xác định rằng thành phố sẽ mau chóng được giao lại từ tay bạo chúa.
Biết được sứ điệp tiên tri, người ta chọn Luca làm trưởng thành phố và xúc tiến việc hoàn tất đại giáo đường dâng kính thánh Antôny, thầy dạy của mình. Thánh Luca Belludi đã lập 5 tu viện và, như thánh Antôny, ngài cũng làm nhiều phép lạ. Ngài qua đời và được an táng tại đại giáo đường đó, ngài vẫn được tôn kính cho tới ngày nay.

Thứ Ba Tuần II Mùa Chay Mt 23,1-12.

Lời Chúa: Họ nói mà không làm.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Đức Chúa phán: Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới.
Ngươi làm thế, chẳng lẻ Ta thinh lặng,
ngươi tưởng rằng Ta cũng giống ngươi sao ?
Này đây Ta khiển trách,
những tội kia, Ta vạch rõ  ngươi xem.
‘Kẻ dâng lời tạ ơn làm hy lễ sẽ làm hiển danh Ta.

Ai sống đời hoàn hỏa, Ta cho hưởng ơn cứu độ Chúa Trời.’

Ngày 23/02 – Thánh Pôlycarp, Giám mục Tử đạo (qua đời năm 156)
Pôlycarp, giám mục giáo phận Smyrna (nay là Izmir, Thổ nhĩ kỳ), môn đệ của thánh Gioan tông đồ và người bạn là thánh Inhaxiô thành Antiôkia, là người được kính trọng trong nửa đầu của thế kỷ II.
Thánh Inhaxiô, trên đường tới Rôma chịu tử đạo, đã ghé thăm Pôlycarp tại Smyrna, và sau đó tại thành Troas, thánh Inhaxiô đã viết thư riêng cho Pôlycarp. Các giáo hội Tiểu Á nhận ra khả năng lãnh đạo của thánh Pôlycarp nên chọn ngài làm đại diện để thảo luận với ĐGH Anicêtô vào ngày lễ Phục sinh ở Rôma — một kiểu khá tranh luận trong thời Giáo hội sơ khai. Chỉ còn một trong nhiều lá thư của thánh Pôlycarp được lưu giữ, đó là thư ngài viết cho giáo đoàn Philippi, Maxêđônia.
Lúc 86 tuổi, thánh Pôlycarp bị thiêu sống tại Smyrna. Lửa không thiêu cháy ngài, cuối cùng ngài bị đâm chết. Viên sĩ quan chỉ huy ra lệnh thiêu xác thánh nhân. Các chứng tích về cuộc tử đạo của thánh Pôlycarp còn được lưu giữ, rất đáng tin cậy về cái chết của một nhân chứng Kitô hữu.

Thứ Bảy, 20 tháng 2, 2016

Thứ Hai Lập Tông Tòa Thánh Phêrô Lễ kính Mt 16,13-19.

Lời Chúa: Anh là Phêrô, Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người

những ngày tháng, những năm dài triền miên.

Ngày 22/02 – Lập Tông tòa Thánh Phêrô
Lễ này kỷ niệm việc Chúa Giêsu chọn thánh Phêrô làm đầu Giáo hội.
Thiên thần nói với Madalêna: “Ngài đã sống lại! Hãy đi nói với các tông đồ và Phêrô”. Thánh sử Gioan kể lại rằng khi ngài và thánh Phêrô tới mộ, người trẻ đến trước người già nên đứng đợi. Phêrô vào mộ, thấy khăn liệm trên đất, khăn trùm cuộn lại gọn gàng. Gioan thấy và tin. Nhưng thánh Gioan nói thêm: “...Hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20:9). Họ trở về. Tin mừng lan truyền, điều không thể trở nên có thể. Chúa Giêsu hiện ra với họ khi họ đang sợ hãi chờ đợi trong căn phòng được khóa chặt. “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em” (Ga 20:21b), và họ vui mừng.
Lễ Hiện xuống hoàn tất kinh nghiệm của thánh Phêrô về Đức Kitô phục sinh: “Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2:4a).
Chỉ khi đó thánh Phêrô mới hoàn tất trọng trách Chúa Giêsu đã trao: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22:32). Ngay lúc đó ngài trở thành phát ngôn viên cho Nhóm Mười Hai về kinh nghiệm Thánh Thần – trước mặt chính quyền đời, những người muốn cấm các tông đồ rao giảng, trước công hội Jerusalem, đối với cộng đoàn Ananias và Sapphira đang gặp rắc rối. Ngài là người đầu tiên rao giảng Phúc Âm cho dân dân ngoại. Khả năng chữa bệnh của Chúa Giêsu nơi ngài được minh chứng: làm cho Tabitha sống lại, chữa lành người ăn xin bị què. Người ta đem các bệnh nhân ra đường khi thánh Phêrô đi ngang qua với hy vọng bóng ngài sẽ lướt trên các bệnh nhân và được khỏi.
Ngay cả một thánh nhân cũng trải qua khó khăn trong đời sống Kitô giáo. Khi thánh Phêrô không ăn uống với các tân tòng vì ngài không muốn làm tổn thương các Kitô hữu người Do thái, thánh Phaolô nói: “Tôi đã cự lại ông ngay trước mặt, vì ông đã làm điều đáng trách. Nhưng khi tôi thấy các ông ấy không đi đúng theo chân lý của Tin Mừng, thì tôi đã nói với ông Kê-pha trước mặt mọi người: "Nếu ông là người Do-thái mà còn sống như người dân ngoại, chứ không như người Do thái, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại phải xử sự như người Do-thái?” (Gl 2:11b, 14a).
Cuối Phúc Âm theo thánh Gioan, Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô: “Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” (Ga 21:18). Lời Chúa Giêsu nói cho thấy cách chết của thánh Phêrô. Trên Đồi Vatican ở Rôma, thời Nero, thánh Phêrô đã làm vinh danh Chúa bằng cái chết: bị đóng đinh ngược.

Chúa Nhật II Mùa Chay Năm C

Lời Chúa: Đang lúc Đức Giêsu cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác.

        Hôm ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện, đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem. Còn ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giê-su, ông Phê-rô thưa với Người rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho ông Mô-sê, và một cái cho ông Ê-li-a". Ông không biết mình đang nói gì. Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!" Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.

SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
       Bài Tin Mừng hôm nay nói Đức Giêsu loan báo lần thứ nhất về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người, Chúa Giêsu đã đưa ba tông đồ thân tín là ông Phêrô, Gioan và Giacôbê lên núi. Người Biến Hình trước mặt các tông đồ để củng cố niềm tin cho các ông, biến cố Chúa Biến Hình trên núi để chuẩn bị cho các tông đồ đi vào mầu nhiệm vượt qua của cuộc Tử nạn và Phục sinh, để cho các tông đồ xác tín rằng theo Chúa Giêsu không chỉ có Thập Giá mà còn có cả vinh quang nữa, đó là ý nghĩa chính của cuộc Biến Hình này.
       Việc Biến Hình của Đức Giêsu không phải chỉ là một biến cố thú vị trong cuộc đời Ngài, biến cố ấy được diễn tả trong Tin Mừng như là một khoảng khắc rạng ngời và là một vẻ đẹp thực tại thần linh đươc thể hiện và làm phá vỡ mọi tội lỗi trên mặt đất này. Vẻ đẹp thực tại thần linh này là một phần của cuộc đời chúng ta, dù chúng ta chưa được thấy một cảnh quang rực rỡ giống như biến cố Biến Hình. Nhưng chúng ta cũng biến đổi như Chúa Giêsu đã biến đổi, hãy để Ngài đốt cháy chúng ta bằng Sự Sáng của Ngài. Sự Sáng có thể chiếu tỏa qua tình yêu, qua nụ cười, qua sự tha thứ, qua lòng cảm thông của chúng ta dành cho tha nhân. Và, là sự thay hình đổi dạng này phải làm cho chúng ta trở thành một con người hoàn thiện hơn, dễ thương hơn và chúng ta phải làm cho được trong cuộc sống của chúng ta.
      Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể. Chúa là tình yêu, là chân lý và là sự sống, con đường chúng con đến với Chúa không thể bằng hận thù, gian ngoa và kiêu ngạo. Trái lại, phải là con đường khiêm hạ, yêu thương, con đường công bình và tôn trọng sự thật. Xin giúp chúng con biết góp phần tôn trọng những vẻ đẹp của con đường nầy, để Chúa đến với chúng con, đến với anh chị em chúng con.   Amen

Ngày 21/02 – Thánh Phêrô Đamianô, Giám mục Tiến sĩ (1007-1072)
Có thể vì ngài mồ côi và bị anh em đối xử tồi tệ mà Phêrô Đamianô rất tốt với người nghèo. Chỉ là “chuyện nhỏ” khi ngài thường có một vài người nghèo đồng bàn ăn và ngài thích đích thân hảo tâm với những người nghèo.
Phêrô Đamianô thoát nghèo và thờ ơ với người anh khi người anh này, là linh mục hạt trưởng giáo hạt Ravenna, muốn “che chở” cho ngài, dù người anh này đã gởi ngài đi học và trở thành giáo sư.
Ngài luôn nghiêm khắc với chính mình, mặc áo nhặm (hair shirt), ăn chay và cầu nguyện nhiều. Ngài quyết định bỏ dạy học và dành thời gian cầu nguyện với các tu sĩ dòng Benêđíctô (Benedictines) cải cách của thánh Rômualđô tại Fonte Avellana. Ngài cầu nguyện nhiều và ngủ ít đến nỗi ngài bị chứng mất ngủ (insomnia), rồi ngài thấy phải cẩn thận và quan tâm sức khỏe. Khi ngài không cầu nguyện, ngài nghiên cứu Kinh thánh.
Tu viện trưởng truyền rằng khi bề trên qua đời thì Phêrô Đamianô phải kế vị. Và rồi tu viện trưởng Phêrô Đamianô đã thành lập thêm 5 đan viện khác. Ngài khuyến khích các đan sĩ sống cầu nguyện và cô tịch, ngài không muốn gì khác cho mình. Tòa Thánh kêu gọi ngài làm người hòa giải giữa hai đan viện có mâu thuẫn hoặc chính phủ bất đồng ý kiến với Rôma.
Cuối cùng, ĐGH Stephanô IX phong ngài làm Hồng y Giám mục giáo phận Ostia. Ngài làm việc cật lực để loại bỏ việc buôn chức bán quyền trong giáo hội (simony), ngài khuyến khích các linh mục tuân thủ luật độc thân và thúc đẩy các linh mục giáo phận sống đoàn kết và duy trì việc cầu nguyện. Ngài muốn duy trì quy luật ban đầu trong giới linh mục triều và linh mục dòng, tránh những chuyến đi không cần thiết, sống thoải mái và vi phạm đức khó nghèo. Ngài đã viết thư cho giám mục giáo phận Besancon để than phiền rằng giáo luật đã bị áp dụng sai khi hát thánh vịnh trong kinh nhật tụng (Divine Office). Ngài viết nhiều thư, hiện còn khoảng 170 thư. Ngoài ra còn có 53 bài giảng của ngài và 7 bản tiểu sử mà ngài đã viết. Ngài thích những tấm gương và truyện thật hơn lý thuyết. Nghi thức Phụng vụ bằng tiếng Latin mà ngài viết là chứng cớ về tài năng của ngài.
Ngài thường xuyên xin nghỉ hưu, cuối cùng được ĐGH Alexander II chấp thuận. Ngài vui mừng vì lại được làm đan sĩ, nhưng ngài vẫn được kêu gọi làm khâm sứ tại Ravenna. Sau khi mãn nhiệm trở về nhà dòng, ngài bị sốt cao. Ngày 22-2-1072, khi các tu sĩ đang vây quanh ngài để đọc kinh nhật tụng thì ngài qua đời.  Năm 1828 ngài được tôn phong là Tiến sĩ Giáo hội.

Thứ Sáu, 19 tháng 2, 2016

Thứ Bảy Tuần I Mùa Chay Mt 5,43-48.

Lời Chúa: Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ.
Con thành tâm dâng lời cảm tạ
vì được biết những quyết định công minh.
Thánh chỉ Ngài, con xin tuân giữ,

xin Ngài đừng nỡ bỏ rơi con.

Ngày 20/02 – Các Chân phước Giaxinta và Phanxicô Martô (1910-1920; 1908-1919)
Trong thời gian từ 13-5 đến 13-10-1917, ba trẻ chăn chiên ở Aljustrel, Bồ đào nha, đã thấy Đức Mẹ hiện ra tại Cova da Iria, gần Fatima, một thành phố cách Lisbon 110 dặm về phía Bắc. Ba trẻ chăn chiên đó là Giaxinta, Phanxicô Martô và Luxia. Lúc đó, Âu châu đang chiến tranh khốc liệt. Bồ đào nha ở trong tình trạng hỗn loạn chính trị, chế độ quân chủ (monarchy) bị lật đổ năm 1910. Chính phủ giải tán các tổ chức tôn giáo ngay sau đó.
Trong lần hiện ra đầu tiên, Đức Mẹ yêu cầu các em trở lại chỗ đó vào ngày 13 trong 6 tháng kế tiếp. Đức Mẹ còn yêu cầu các em lần chuỗi Mân Côi để “cầu cho hòa bình cho thế giới và chấm dứt chiến tranh”. Các em phải cầu cho những người tội lỗi và cho nước Nga trở lại. Mới đây Czar Nicholas II đã bị lật đổ và không lâu sau là chế độ cộng sản. Có đến 90.000 người đã tụ họp trong lần Đức Mẹ hiện ra lần cuối cùng vào ngày 13-10-1917.
Chưa đầy 2 năm sau, Phanxicô qua đời vì bệnh cúm (influenza). Phanxicô được an táng tại nghĩa trang giáo xứ và rồi được cải táng về Thánh đường Fatima năm 1952. Giaxinta cũng qua đời vì bệnh cúm tại Lisbon. Giaxinta dâng mọi đau khổ của mình để cầu cho các tội nhân biết ăn năn trở lại, cho hòa bình thế giới và Đức Thánh Cha. Giaxinta được cải táng về Thánh đường Fatima năm 1951. Chị họ của Giaxinta và Phanxicô là Luxia (Lucia dos Santos) trở thành nữ tu dòng kín Camêlô (Carmelite). Luxia vẫn sống khi Phanxicô và Giaxinta được ĐGH Gioan-Phaolô II phong chân phước năm 2000. Nữ tu Luxia qua đời hồi tháng 2-2005, thọ 97 tuổi. Hằng năm có tới 20 triệu người đến viếng Đền thờ Đức Mẹ Fatima.

Thứ Năm, 18 tháng 2, 2016

Thứ Sáu Tuần I Mùa Chay Mt 5,20-26.

Lời Chúa: Hãy đi làm hòa với người anh em ấy đã.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới.
Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi,
cậy trông vào lời Người.
Hồn tôi trông chờ Chúa

hơn lính canh mong đọi hừng đông.

Ngày 19/02 – Thánh Conrad Piacenza (1290-1350)
Conrad Piacenza sinh trưởng trong một gia đình quý tộc tại Piacenza, thuộc Bắc Ý. Conrad kết hôn với Euphrosyne, con gái một nhà quý tộc. Một hôm, trong lúc đi săn, Conrad bảo những người tùy tùng đốt một bụi cây để con thú chạy ra. Lửa cháy đến cánh đồng và khu rừng gần đó. Conrad chạy trốn. Một nông dân vô tội bị bắt vào tù, bị hành hạ và phải nhận tội, rồi người này bị kết án tử hình. Thấy vậy, Conrad đầu thú để cứu người kia và chịu bồi thường thiệt hại.
Sau sự cố này, Conrad và vợ đồng ý chia tay: Vợ vô dòng thánh Clara, chồng sống ẩn tu theo Luật Dòng Ba (Third Order Rule). Tuy nhiên, danh tiếng ngài thánh thiện lan truyền mau chóng. Thấy nhiều người đến làm rộn cuộc sống ẩn dật, ngài đến một nơi xa hơn, là Sicily, và tại đây ngài sống ẩn tu 36 năm, chuyên chăm cầu nguyện cho mình và thế giới.
Sự cầu nguyện và hãm mình của ngài là tiếng đáp trả những cơn cám dỗ cản bước ngài. Ngài chết khi đang quỳ cầu nguyện trước Thánh giá. Ngài được phong thánh năm 1625.

Thứ Tư, 17 tháng 2, 2016

Thứ Năm Tuần I Mùa Chay Mt 7,7-12.

Lời Chúa: Hễ ai xin thì nhận được.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ.
Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ,
Ngài đã nghe lời miệng con xin.
Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa,

hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ.

Ngày 18/02 – Chân phước Gioan Fiesole, Linh mục (khoảng 1400-1455)
Chân phước Gioan Fiesole là bổn mạng các họa sĩ Kitô giáo. Ngài sinh khoảng năm 1400 tại một ngôi làng nhìn trên thành phố Florence. Ngài học vẽ khi còn nhỏ và được coi là họa sĩ bậc thầy. Ngài nhập dòng Đa minh lúc khoảng 20 tuổi, đổi tên là Fra Giovanni. Rồi ngài nổi danh với tên Fra Angelico, có thể đó là cách tỏ lòng kính trọng phẩm chất siêu nhân hoặc tính cách sùng kính trong công việc của ngài.
Ngài tiếp tục học và hoàn thành khoa hội họa của mình, với những đường nét phóng khoáng, màu sắc linh động và các hình ảnh phong phú sống động như thật. Michelangelo có lần đã nói về Fra Angelico: “Người ta phải tin rằng tu sĩ tốt lành này đã thấy thiên đàng và được phép chọn người mẫu ở đó”. Với Fra Angelico, cái gì cũng trở thành đề tài, ngài tìm cách phát huy cảm xúc tôn giáo được phản ánh trong các bức họa của ngài. Trong số các bức họa nổi tiếng của ngài là bức họa Truyền Tin (Annunciation) và Tháo Đanh (Descent from the Cross), kể cả các bích họa (frescoes) trong tu viện tại San Marco ở Florence.
Ngài còn giữ các chức vụ cao trong dòng Đa minh (Dominican Order). Khi ĐGH Eugenius hỏi ý kiến ngài về việc phong chức tổng giám mục Florence, ngài đã từ chối và ngài nói chỉ thích sống giản dị. Ngài qua đời năm 1455.

Thứ Hai, 15 tháng 2, 2016

Thứ Tư Tuần I Mùa Chay Lc 11,29-32.

Lời Chúa: Thế hệ gian ác này sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Đức Chúa phán: Ngay lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, bởi vì Ta từ bi nhân hậu.
Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng,
đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy.
Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh,

đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh nhan của Ngài.

Ngày 17/02 – Bảy thánh lập dòng Tôi tớ Đức Mẹ (thế kỷ 13)
Bạn có thể tưởng tượng được 7 người đàn ông ở Boston hoặc Denver cùng nhau bỏ gia đình và sự nghiệp, rồi cùng nhau sống độc thân vì Chúa? Nhưng đó là điều đã xảy ra tại thành phố Florence phồn thịnh hồi giữa thế kỷ XIII. Thành phố này bị xáo trộn vì chính trị và dị giáo Cathari. Luân lý bị coi thường và tôn giáo coi như vô nghĩa.
Năm 1240, bảy thanh niên của thành phố Florence quyêt định rời thành phố để sống độc thân chuyên cần cầu nguyện và phục vụ Thiên Chúa. Khó khăn đầu tiên của họ là giúp cho gia đình sinh sống, vì 4 người đã kết hôn. Mục đích của họ là sống cầu nguyện và sám hối, nhưng họ thấy bị phiền vì nhiều người từ Florence thường xuyên đến. Thế là họ rút vô miền sơn cước Monte Senario.
Năm 1244, theo hướng dẫn của thánh Phêrô Vêrôna, dòng Đa minh, họ sống theo cách sống của dòng Đa minh, theo tu luật thánh Augustinô và lấy tên dòng là Tôi tớ Đức Mẹ (Servants of Mary). Dòng mới này giống như các tu sĩ khất thực (mendicant friars), khác với các dòng trước đó.
Năm 1852, các tu sĩ dòng này từ Úc tới Hoa kỳ và ở lại New York, sau đó tới Philadelphia. Hai tỉnh dòng ở Hoa kỳ phát triển từ tu sở của cha Austin Morini ở Wisconsin năm 1870. Các tu sĩ kết hợp đời sống tu với việc hoạt động tông đồ. Trong tu viện, họ cầu nguyện, lao động và thinh lặng, kết hợp với việc tông đồ như giúp xứ, dạy học, dạy giáo lý và các hoạt động khác.

Thứ Ba Tuần I Mùa Chay Mt 6,7-15.

Lời Chúa: Anh em hãy cầu nguyện như thế này.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Người ta sống, không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.
'Lạy Cha chúng con ở trên trời,
chúng con nguyện danh Cha cả sáng,
nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày,
và tha nợ chúng con,
như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con,
xin chớ đến chúng con sa chước cám dỗ,

nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen’.

Ngày 16/02 – Thánh Gilbert Sempringham, Linh mục (khoảng 1083-1189)
Gilbert sinh tại Sempringham, Anh quốc, trong một gia đình giàu có, nhưng ngài lại theo con đường khác. Ngài được gởi sang Pháp học, còn ngài lại muốn vào chủng viện.
Ngài trở về Anh và được thừa hưởng gia sản của người cha, nhưng ngài không muốn sống sung túc. Ngài phân phát của cải cho người nghèo. Sau khi thụ phong linh mục, ngài được phái về coi sóc một giáo xứ ở Sempringham. Trong giáo xứ có 7 phụ nữ trẻ muốn đi tu, ngài cho xây một ngôi nhà kế nhà thờ cho họ sống đời tu. Rồi có nhiều thanh niên và thanh nữ gia nhập. Cuối cùng cộng đoàn này gọi là Dòng Gilbert (Gilbertines), dù ngài muốn là Dòng Xitô (Cistercians) hoặc một dòng nào đó đang hoạt động và sẽ viết tu luật cho một dòng mới. Dòng Gilbert là dòng duy nhất có nguồn gốc ở Anh được thành lập từ thời Trung cổ và phát triển. Nhưng Dòng Gilbert đã không còn từ khi vua Henry VIII cấm tất cả các tu viện Công giáo.
Sau nhiều năm, một thói quen đặc biệt lan truyền ở các nhà dòng gọi là “Chiếc đĩa của Chúa Giêsu” (the plate of the Lord Jesus). Khẩu phần ngon nhất của bữa tối được đặt trên một chiếc đĩa đặc biệt và được chia sẻ với người nghèo, phản ánh mối quan tâm cả đời của thánh Gilbert là chia sẻ với những người kém may mắn.
Thánh Gilbert sống giản dị, ăn ít và dành nhiều thời gian ban đêm để cầu nguyện. Dù sống nghiêm ngặt nhưng ngài vẫn sống thọ hơn 100 tuổi.

Thứ Bảy, 13 tháng 2, 2016

Thứ Hai Tuần I Mùa Chay Mt 25,31-46.

Lời Chúa: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu đô.
Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng
tồn tại đến muôn đời.
Quyết định Chúa phù hợp chân lý,

hết thảy đều công minh.

Ngày 15/02 – Thánh Claude la Colombière, Linh mục (1641-1682)
Đây là ngày đặc biệt của Dòng Tên (Society of Jesus), ngày kính một trong các thánh riêng của Dòng. Đây cũng là ngày đặc biệt đối với những người có lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu mà thánh Claude la Colombière truyền bá, cùng với người bạn tâm linh là thánh Margaret Maria Alacoque.
Ngài sinh ngày 2-2-1641 tại St. Symphorien d'Ozon ở Dauphine, là con thứ ba trong một gia đình quý tộc, cha là Bertrand La Colombière và mẹ là Margaret Coindat. Rồi gia đình chuyển đến Vienne, tại đây ngài được đi học. Sau đó ngài được học hùng biện và triết học ở Lyon. Lúc 17 tuổi, ngài là tập sinh Dòng Tên tại Avignon. Ngài khấn lần đầu năm 1660. Học xong triết học, ngài dạy văn phạm và văn chương 5 năm. Năm 1666, ngài học thần học tại Paris. Rồi ngài dạy cho các con của vua Louis XIV, và ngài vừa giảng phòng vừa làm tuyên úy cho vài hội dòng Đức Mẹ Maria.
Sự nhấn mạnh vào Tình Yêu Chúa là “thuốc giải độc” đối với sự tuân thủ luân lý nghiêm ngặt của phái Gian-xen (*) phổ biến vào thời đó. Thánh nhân có tài diễn thuyết từ trước khi thụ phong linh mục ngày 2-2-1675. Hai tháng sau, ngài được bầu làm bề trên một tu viện ở Burgundy. Ở đó ngài đã gặp thánh Margaret Maria Alacoque. Nhiều năm sau ngài là linh mục giải tội cho thánh nữ. Rồi ngài được sai tới Anh làm linh mục giải tội cho nữ công tước York. Ngài rao giảng vừa bằng lời nói vừa bằng gương sống thánh thiện, và ngài đã khiến nhiều người Tin Lành trở lại đạo Công giáo.
Cuối năm 1678, ngài bị bắt vì bị vu khống có dính líu nhóm Titus Oates – nhóm mưu đồ theo chủ nghĩa giáo hoàng (papist plot). Hai ngày sau, ngài bị đưa tới khám King's Bench Prison theo lệnh Hoàng gia Anh, cảnh tù khắc nghiệt khiến sức khỏe ngài giảm sút, dù chỉ 3 tuần, trước khi bị trục xuất về Pháp. Mùa hè năm 1681, ngài trở lại Paray trong tình trạng yếu sức. Ngày 15-2-1682, Chúa nhật I mùa Chay, ngài bị xuất huyết nặng và qua đời.
Ngày 16-6-1929, ngài được ĐGH Piô XI phong chân phước. Năm 1992, ngài được ĐGH Gioan-Phaolô II phong hiển thánh.

Thứ Sáu, 12 tháng 2, 2016

Chúa Nhật I Mùa Chay Năm C

Lời Chúa: Đức Giê-su được Thánh Thần dẫn vào hoang địa và chịu cám dỗ.
     Sau khi chịu phép rửa, Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về, và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả,và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. Bấy giờ, quỷ nói với Người: “ Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!” Nhưng Đức Giê-su đáp lại: “ Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.”
    Sau đó, quỷ đem Đức Giê-su lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người: “ Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông.” Đức Giê-su đáp lại: “ Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.”
     Quỷ đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: “ Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.” Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại: “ Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”

     Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.

SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
     Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bị thử thách đến ba lần cám dỗ. Cám dỗ thứ nhất là sử dụng quyền lực thần linh để biến những hòn đá thành cơm bánh. Cám dỗ thứ hai là trở thành vua của thế giới, toàn quyền cai trị các nước thiên hạ cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này. Cám dỗ thứ ba là dùng quyền phép để thu phục nhân tâm, là đứng trên nóc Đền Thờ Giêrusalem gieo mình xuống đất, dù bị cám dỗ nhưng Chúa Giêsu không bao giờ thua trận, Người chiến thắng mọi thứ cám dỗ một cách vẻ vang, vũ khí Chúa Giêsu sử dụng để chống lại các cơn cám dỗ là lòng yêu mến Đức Chúa Cha, luôn vâng phục Người và cố gắng làm đẹp lòng Người mọi đàng.
     Trong cuộc sống luôn mở ra cho chúng ta những chọn lựa và thử thách. Tuy nhiên, với người này, gian nan thử thách có thể làm cho họ nhục chí, thoái lui, hay vấp ngã ê chề. Nhưng với người khác, có thể lại là dịp để họ lớn lên, trưởng thành và vững chắc hơn trước thách đố của cuộc sống. Bởi cám dỗ không đơn giản là xúi giục chúng ta làm điều xấu, nhưng còn là những mánh khóe biến giả thành thật, là thủ đoạn tô hồng những khía cạnh gian dối, đánh bóng những nhu cầu giả tạo, thoáng nhìn thấy thật tốt đẹp nhưng thật ra đó chỉ là hình ảnh giả tạo phù phiếm mà thôi, vì sự thật vẫn là sự thật.
     Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho mỗi người Kitô hữu chúng con cũng biết yêu mến Chúa và tha nhân biết dùng lời Chúa làm kim chỉ nam trong cuộc sống thường ngày của chúng con. Để cùng với Chúa và trong Chúa, chúng con chắc chắn giữ được lòng trung tín đến cùng với Chúa.  Amen.

Ngày 14/02 – Các thánh Cyrilô, Đan sĩ (827-884), và thánh Mêthôđiô, Giám mục(825-869)
Hai anh em Cirilô sinh năm 827 và Mêthôđiô sinh năm 825 tại Thessalonica, Đông Bắc Hy lạp. Cha của các ngài là một sĩ quan ở Hy lạp, nơi có nhiều người Slavs sinh sống, thế nên hai anh em này trở nên nhà truyền giáo, thầy dạy và vị bảo trợ của dân Slavs. Sau khi học hành giỏi giang, Cyrilô (gọi là Constantine đến khi ngài làm tu sĩ không lâu sau khi cha mất) từ chối chức thống đốc khi em trai ngài chấp nhận là những người nói tiếng Slavs. Cyrilô rút về tu viện, nơi em trai Mêthôđiô làm tu sĩ sau vài năm làm thống đốc.
Sự thay đổi “định mệnh” xảy ra khi Công tước Moravia (ngày nay là Cộng hòa Czech) yêu cầu Hoàng đế Đông phương Michael cho độc lập về chính trị, tách khỏi quyền cai trị của Đức và tự trị giáo hội (ecclesiastical autonomy) vì đã có giáo sĩ và phụng vụ riêng. Cyrilô và Mêthôđiô hiểu sứ vụ truyền giáo của mình.
Công việc đầu tiên của thánh Cyrilô là sáng tạo bảng mẫu tự, vẫn được dùng trong một số phụng vụ Đông phương. Những người theo ngài có thể thành lập bảng mẫu tự Cyrilô (Cyrillic alphabet), chẳng hạn tiếng Nga hiện đại, từ chữ hoa Hy lạp. Họ cùng dịch Phúc âm, Thánh thi, các thư của thánh Phaolô và sách phụng vụ sang tiếng Slavs, lập nghi thức phụng vụ Slavs, lúc đó khác nhiều.
Họ dùng thổ ngữ một cách tự do khi thuyết giảng dẫn đến đối lập trong giới giáo sĩ Đức. Đức giám mục không chịu phong chức giám mục và linh mục cho người Slavs. Thánh Cyrilô buộc phải đi Rôma. Trên đường đến Rôma, ngài và thánh Mêthôđiô vui mừng khi thấy sách phụng vụ mới của hai anh em được ĐGH Adrianô II phê chuẩn. Thánh Cyrilô qua đời tại Rôma.
Thánh Mêthôđiô tiếp tục sứ vụ trong 16 năm nữa. Ngài là khâm sứ tòa thánh (papal legate) cho dân tộc Slavs, được phong chức giám mục và coi sóc một giáo phận (nay là Cộng hòa Czech). Khi nhiều vùng trong lãnh địa bị mất quyền hạn, các giám mục Bavaria phản hồi bằng cách chống lại thánh Mêthôđiô. Cuối cùng, Hoàng đế Louis người Đức bắt thánh Mêthôđiô đi đày 3 năm. ĐGH Gioan VIII bảo lãnh để thánh Mêthôđiô được tự do.
Giáo sĩ người Frankish tiếp tục cáo trạng, thánh Mêthôđiô phải đi Rôma để không bị kết tội dị giáo và bảo vệ việc dùng phụng vụ Slavs. Và ngài được minh oan (vindicated).
Thời kỳ hoạt động sôi nổi của thánh Mêthôđiô là dịch toàn bộ Kinh thánh sang tiếng Slavs trong vòng 8 tháng. Ngài qua đời vào thứ Ba Tuần Thánh, các đồ đệ vây quanh, và được an táng tại nhà thờ chính tòa.
Sau khi ngài mất vẫn có những người phản đối, rồi công việc của hai anh em ở Moravia đến hồi kết thúc và các đệ tử của họ tản mác. Nhưng có hiệu quả lợi ích về việc truyền bá các hoạt động tâm linh, phụng vụ và văn hóa của hai anh em sang Bulgaria, Bohemia và Nam Ba lan. Anh anh em là bổn mạng của Moravia, được tôn kính đặc biệt trong giới Công giáo ở Cộng hòa Czechs, Slovaks, Croatia, trong giới Chính thống giáo ở Serbia và Bulgaria. Thánh Cyrilô và Mêthôđiô là Tông đồ và là cha đẻ của văn chương Slavs, đồng thời là người bảo vệ sự hiệp nhất lâu dài giữa Đông phương và Tây phương. Năm 1980, ĐGH Gioan-Phaolô II tôn phong các ngài làm thánh bổn mạng Âu châu (cùng với thánh Bênêđictô).