Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014

Thứ Hai Tuần XXII Thường Niên



Lời Chúa: Chúa sai tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
“ Ha-lê-lui-a. Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Ha-lê-lui-a.”
Mọi nẻo đường tà chân con chẳng bước
Cốt làm sao giữ được lời Ngài
Con chẳng lìa xa điều Ngài quyết định

Bởi chính Ngài chỉ giáo cho con.


Ngày 01/09 Thánh Giles (qua đời năm 710?)
Mặc dù nhiều điều về cuộc đời thánh Giles vẫn là bí ẩn, nhưng chúng ta có thể nói rằng ngài là một trong các vị thánh nổi danh nhất thời Trung cổ. Có thể ngài sinh vào giữa thế kỷ VII ở Đông Nam Pháp quốc. Đó là nơi ngài đã xây một tu viện nổi tiếng được nhiều khách hành hương dừng chân để tới Compostela ở Tây Ban Nha và Thánh Địa.
Tại Anh quốc, nhiều nhà thờ và bệnh viện cổ được dâng kính thánh Giles. Một trong các giáo phái của thành phố ở Bỉ đã đặt theo tên ngài. Tại Đức, thánh Giles là một trong 14 vị thánh bảo trợ, một số thánh mà người ta cầu nguyện, nhất là xin khỏi bệnh và xin sức mạnh trong giờ chết. Trong 14 vị thánh đó có thánh Christopher, thánh Barbara và thánh Blase. Trong đó, thánh Giles là vị thánh duy nhất không tử đạo. Lòng sùng kính các thánh này rất mạnh ở khắp Đức quốc, Hungary và Thụy Điển. Lòng sùng kính như vậy lan rộng rất nhanh. Thánh Giles được nhận là thánh bổn mạng của người nghèo và người khuyết tật.

Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2014

Chú Nhật XXII Thường Niên Năm A



Lời Chúa: Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình.
       Từ khi ông Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, thì Đức Giê-su bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
       Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?

       Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.”


SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
       Tin Mừng hôm nay kể lại, sau khi Đức Giêsu tỏ cho các môn đệ biết về sứ mạng Thiên Sai của Ngài, là phải chết để cứu chuộc con người. Song với việc tiên báo đó, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ cũng đi vào con đường của Ngài, để cùng chung chia sứ mạng mà Ngài đang thực hiện. Tuy nhiên, điều kiện rất quan trọng mang tính quyết định, đó là: Từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Để trả lời cho câu hỏi trên, chúng ta cùng nhau khám phá ý nghĩa đích thực của nó dựa trên mặc khải của Thánh Kinh.
       Bắt đầu từ câu hỏi rất thân tình: "Ai muốn theo Thầy?". Khi hỏi các môn đệ như thế, Đức Giêsu muốn các ông bước đi trong tinh thần thanh thoát, nhẹ nhàng chứ không phải vì nặng nề, mất tự do. Một lời mời gọi rất thân tình, làm cho người được mời gọi cảm thấy an vui, bình an và hạnh phúc khi tự mình quyết định lựa chọn lối sống mới theo tinh thần Tin Mừng. Khi mời gọi như thế, Đức Giêsu muốn người môn sinh tự nguyện từ bỏ một cuộc sống dễ dãi, an nhàn, thích ăn trên ngồi trước, thích được người khác phục vụ..., để lựa chọn một cuộc sống thiếu thốn, khổ hạnh vì ích lợi cho phần rỗi của mình và niềm vui, hạnh phúc cho các linh hồn. Thật thế, con đường mà Đức Giêsu muốn cho môn sinh của mình đi không phải là con đường nhung lụa, thênh thang, cũng không phải con đường dễ dãi, bằng phẳng, mà là ngõ hẹp của thập giá, gồ ghề và chông gai... Con đường đó là con đường của từ bỏ: "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy". Trong hoàn cảnh này, Đức Giêsu muốn các môn sinh ra khỏi sự ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo, để ý Chúa rợp bóng trên cái tôi của mình, và chính từ đó, cái tôi được trở thành cái tôi đúng nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên giống Đức Giêsu và được mời gọi đi theo Ngài trên con đường mà chính Ngài đã chọn. Nếu từ bỏ chính mình là thể hiện một sự quyết tâm, sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, thì vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa, chính là đón nhận mọi thử thách, và chết cho thế gian, để chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Vác thập giá hằng ngày chính là chu toàn bổn phận của mình một cách trung thành và sốt sắng.
        Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết tìm thánh ý Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Xin cũng cho chúng con được từ bỏ mọi sự, vác thập giá để theo Chúa trên con đường cứu độ mà Chúa muốn chúng con thi hành. Amen.


Ngày 31/08. Các Thánh Giuse-Arimathêa và Nicôđêmô
Những hành động của hai nhà lãnh đạo Do Thai có thế lực này cho thấy mức độ thu hút của Chúa Giêsu và các giáo huấn Chúa dạy, và cả mức độ nguy hiểm có thể liên lụy tới những ai theo Chúa.
Giuse  Arimathêa là một nhà lãnh đạo đáng kính, giàu có, và đã trở nên môn đệ của Chúa Giêsu. Sau khi Chúa Giêsu chết, ông Giuse xin Philatô cho lấy xác Chúa, tẩn liệm rồi an táng. Vì thế, ông Giuse được coi là bổn mạng của những người mai táng. Quan trọng hơn là sự can đảm mà ông chứng tỏ khi xin xác Chúa từ Philatô, dù Chúa Giêsu là một tử tội bị xử tử công khai. Theo một vài truyền thuyết, ông Giuse đã bị phạt và bị tù vì hành động liều lĩnh đó.


Nicodemô là người Pharisêu và, cũng như Giuse Arimathêa, là nhân vật quan trọng của Do Thái hồi thế kỷ I. Chúng ta biết rất ít về ông Nicodemô. Chúng ta chỉ biết qua Phúc âm của thánh Gioan: Nicodemô đã bí mật đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm để hiểu rõ hơn về các giáo huấn của Ngài về Nước Trời. Sau đó, Nicodemô mạnh dạn nói về Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt và đã giúp an táng Chúa Giêsu.

Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2014

Thứ Bảy Tuần XXI Thường Niên



Lời Chúa: Được giao ít mà anh đã trung thành, hãy vào mà hưởng niềm vui cùa chủ anh.
“ Ha-lê-lui-a. Chúa nói: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Ha-lê-lui-a.”
Tâm hồn chúng con đợi trông Chúa
Bởi Người luôn che chở phù trì
Vâng, có Chúa chúng con mừng rỡ

Vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh.


Ngày 30/08. Chân phước Jeanne Jugan (1792-1879)
Chân phước Jeanne Jugan sinh trong một gia đình nghèo ở Brittany, Pháp. Bà phải làm việc vất vả khi còn nhỏ. Mẹ bà là góa phụ nhưng biết dạy con biết giá trị của đức tin. Lúc 16 tuổi, Jeanne đi nấu ăn cho một gia đình nọ, gia đình này hay đưa Jeanne đi thăm người bệnh và người nghèo. Dần dần Jeanne cảm thấy yêu thương người già, nhất là các góa phụ nghèo.
Lúc bà 47 tuổi, vài phụ nữ khác đến ở chung nhà với bà và lập thành cộng đoàn tu trì. Họ cùng nhau cầu nguyện và chọn Jeanne làm bề trên. Họ nâng đỡ nhau trong công việc nhà, lúc rảnh họ dạy giáo lý cho trẻ em và giúp người nghèo theo khả năng. Sau một thời gian, cộng đoàn của bà trở thành Dòng Tiểu muội Người nghèo (Congregation of the Little Sisters of the Poor), chuyên giúp đỡ người già và người nghèo. Dòng có 4 lời khấn: Khó nghèo, Vâng lời, Khiết tịnh và Hiếu khách.
Nữ tu Maria Thánh giá tỏ ra là người có tài và biết tổ chức gây quỹ, nhưng lại ganh tỵ và buộc Jeanne phải từ chức bề trên. Cha linh hướng khuyên bà “sống ẩn dật ở nhà mẹ”. Suốt 27 năm cuối đời, bà sống âm thầm. Bà lặng lẽ giám sát công việc của các thỉnh sinh, những người không hề biết chuyện gì về bà, một nữ tu lớn tuổi luôn yêu thương và động viên họ. Bà còn sống và được ĐGH Lêô XIII phê chuẩn tu luật Dòng Tiểu muội Người nghèo năm 1879. Nhưng mãi 14 năm sau khi bà qua đời, người ta mới biết nữ tu Jeanne Jugan là vị sáng lập Dòng Tiểu muội Người nghèo. Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho bà năm 1982.

Thứ Năm, 28 tháng 8, 2014

Thứ Sáu Lễ nhớ Thánh Gioan Tẩy-Giả Bị Trảm Quyết



Lời Chúa: Con muốn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan-Tẩy-Giả, đặt trên mâm.
“ Ha-lê-lui-a. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Ha-lê-lui-a.”
Lạy Chúa chính Ngài là Đấng con trông đợi
Từ thuở sơ sinh con nương tựa vào Ngài
Ngài đã kéo con ra khỏi lòng mẹ
Miệng con công bố Ngài chánh trực

Tới giờ này con vẫn truyền rao vĩ nghiệp của Ngài.


Ngày 29/08. Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết
Thánh Gioan được gọi là Tẩy giả vì ngài đã làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu. Ngài là vị ngôn sứ “giao thời” giữa Cựu ước và Tân ước, là ngôn sứ vĩ đại nhất và chịu số phận hẩm hiu như nhiều vị ngôn sứ thời Cựu ước: Bị chống đối và bị giết chết. “Tiếng kêu trong sa mạc” đã không ngại ngùng kết án kẻ tội lỗi, can đảm nói sự thật.
Ngài là nhà cải cách tôn giáo vĩ đại được Thiên Chúa sai đến để chuẩn bị lòng dân cho Đấng Thiên Sai. Sức mạnh duy nhất mà ngài tuyên xưng là Thần Khí của Giavê: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và Lửa” (Mt 3:11).
Kinh thánh cho chúng ta biết rằng nhiều người đi theo thánh Gioan để hy vọng, có thể là được tham dự quyền thiên sai nào đó. Ngài không bao giờ cho phép mình tiếp nhận những người này vì vinh danh mình. Ngài biết mình được gọi để chuẩn bị. Thời giờ đã điểm, ngài dẫn các môn đệ tới gặp Chúa Giêsu: “Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su” (Ga 1:35-37). Chính thánh Gioan Tẩy giả đã chỉ cách đến với Đức Kitô. Cuộc đời và cái chết của ngài là việc hiến dâng cho Thiên Chúa và mọi người. Đời sống giản dị của ngài là cách sống tách khỏi mọi thứ vật chất. Tâm hồn ngài tập trung vào Thiên Chúa và lắng nghe Chúa Thánh Thần nói trong tâm hồn mình. Tin vào hồng ân Thiên Chúa, ngài can đảm kết tội, kêu gọi sám hối và nói về ơn cứu độ.


Thứ Tư, 27 tháng 8, 2014

Thứ Năm Lễ nhớ Thánh Augustinô Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh



Lời Chúa: Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải là người phục vụ anh em.
“ Ha-lê-lui-a. Chúa nói: Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. Ha-lê-lui-a.”
Lời Chúa hứa lòng con hằng ấp ủ
Để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung
Lạy Chúa con dâng lời ca tụng

Thánh chỉ Ngài xin dạy cho con.


Ngày 28/08. Thánh Augustinô, Giám mục Tiến sĩ Giáo hội (354-430)
Ngài vào đạo lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36 tuổi, và làm giám mục lúc 41 tuổi. Ngài là một tội nhân trở thành thánh nhân.
Đó là nhờ nước mắt của người mẹ là thánh Monica, sự hướng dẫn của thánh giám mục Ambrôsiô, và nhất là chính Thiên Chúa đã nói với thánh Augustinô qua Kinh thánh để soi dẫn Augustinô từ tình-yêu-cuộc-sống đến cuộc-sống-tình-yêu.
Trong những năm đầu đời, ngài đắm chìm trong kiêu ngạo và tội lỗi, nhưng ngài đã trở lại và sống thánh thiện, chống lại mọi thủ đoạn của ma quỷ thời ngài – suy đồi về chính trị, xã hội và luân lý. Chính kinh nghiệm đời ngài mà ngài đã để lại cho chúng ta những câu nói bất hủ.
Cũng như tiên tri Giêrêmia và các tiên tri khác, thánh Augustinô cũng không thể im lặng: “Có lần con tự nhủ: “Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa”. Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20:9).

Thứ Tư Lễ nhớ Thánh nữ Mônica



Lời Chúa: Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy.
“ Ha-lê-lui-a. Chúa nói: Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. Ha-lê-lui-a.” 
Lòng con chẳng dám tự cao
Mắt con chẳng dám tự háo Chúa ơi!
Đường cao vọng chẳng đời nào bước
Việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu.
Ngày 27 /08/2014 lễ Thánh Nữ Mônica Bổn Mạng giới Hiền Mẫu.
Thánh nữ Monica sinh năm 332 trong một gia đình đạo hạnh làng Sucara bên Phi Châu. Với bầu khí đạo đức, Monica sớm trở thành một cô bé ngoan ngoãn và sốt sắng: mỗi bữa ăn cô thường dành một phần cho người nghèo và những lúc nhàn rỗi thường tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện.
Năm 22 tuổi, Monica vâng lời cha mẹ kết hôn với Patricius thuộc dòng dõi qúi phái, nhưng tính tình ngang tàng, độc ác và tuổi lại gấp đôi. Dù rất khổ tâm nhưng Monica vẫn vui vẻ vâng lời cha mẹ với hy vọng sẽ cứu được một linh hồn. Quả vậy, nhờ lời cầu nguyện và đức kiên nhẫn, Monica đã cải hóa được người chồng và mấy năm sau sinh được ba người con mà Augustinô là con đầu lòng. Dù sống trong một gia đình ngoại đạo, nhưng Monica đã chu toàn sứ mệnh làm mẹ, luôn giáo dục con cái biết yêu mến Chúa, yêu người. Bà luôn yêu thương con cái, nhất là đối với Augustinô. Nhưng càng lớn, Augustinô càng biểu lộ các tính hư tật xấu. Ỷ vào trí thông minh, Augustinô đâm lười biếng. Bị sửa phạt, Augustinô bèn lừa dối, lường gạt cha mẹ, thầy dạy, rồi từ đó ham mê lạc thú, ăn chơi, kiêu căng và ham hố danh vọng. Nhất là từ khi chàng được gửi đi học ở tỉnh thì những làn sóng tội lỗi lại tràn ngập tâm hồn. Rồi chàng lại theo bè rối Manikê chống lại đức tin. Còn gì đau khổ hơn cho Monica khi thấy người con yêu quý của mình ngày càng bước sâu vào con đường tội lỗi. Nhưng tin vào tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa, bà lại càng kiên tâm cầu nguyện và làm các việc lành.
Lời cầu nguyện và nước mắt của Monica đã được Chúa chấp nhận. Sau những thất bại, Augustinô đã tìm đường trở lại cùng Thiên Chúa. Monica vui mừng dâng lời tạ ơn. Thánh nữ cùng tĩnh tâm với Augustinô ở Cassicicum và có mặt trong lễ rửa tội của con. Ðêm Phục Sinh năm 387, Augustinô đã được lãnh bí tích Rửa Tội do thánh Giám Mục Ambrosiô. Lòng tràn ngập vui sướng, hai mẹ con cùng trở về Phi Châu. Tại Ostia, thánh nữ chia sẻ với con mình sự hoan lạc trong tâm hồn mà thánh Augustinô ghi lại trong cuốn IX “bộ tự thuật”. Thánh Monica đã nói như sau:
- Con ơi, phần mẹ, mẹ không còn thấy vui sướng vì bất cứ điều gì ở đời này nữa. Mẹ không hiểu sẽ phải làm gì và tại sao lại còn sống ở đây. Niềm hy vọng của mẹ trên thế gian này đã được hoàn thành. Chỉ có một điều mẹ ao ước là được thấy con trở thành người công giáo trước khi mẹ lìa đời. Thiên Chúa cho mẹ được toại nguyện và hơn nữa đã cho mẹ thấy con chán ghét hạnh phúc trần gian và hiến thân phụng sự Ngài. Mẹ còn làm gì nữa đây? Chẳng bao lâu sau đó, thánh nữ mang bệnh và chết bình an trong Chúa năm 387, tại Ostia, khi đó thánh nữ đã 56 tuổi.
Xác thánh nữ được mai táng ở Otti. Năm 1430, Ðức Thánh Cha Martinô truyền đem về nhà thờ Thánh Augustinô ở Rôma.

Thứ Hai, 25 tháng 8, 2014

Thứ Ba Tuần XXI Thường Niên



Lời Chúa: Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ.
“ Ha-lê-lui-a. Lời Thiên Chúa là lời sống động và hữu hiệu, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Ha-lê-lui-a.”
Trời vui lên đất hãi nhảy mừng
Biển gầm vang cùng muôn hải đảo

Ruộng đồng cùng hoa trái nào hoan hỷ.

Ngày 26/08. Thánh Giuse Calasanz, Linh mục (1556-1648)
Giuse Calasanz sinh tại Aragon, rồi sang Rôma, cũng tại đây ngài qua đời lúc 92 tuổi. Cuộc đời ngài nhiều thăng trầm. Ngài là một linh mục có bằng cấp về giáo luật và thần học, được kính trọng vì sự khôn ngoan và giỏi quản lý. Ngài bỏ mọi sự vì quan tâm giáo dục trẻ em nghèo. ĐGH Clementô VIII hỗ trợ ngài mở trường học, và việc này kéo dài tới thời ĐGH Phaolô V. Các trường khác cũng được mở thêm. Nhiều thanh niên bị thu hút vào công việc này, và năm 1621 cộng đoàn này được công nhận là dòng tu, gọi là Học viện Giáo sĩ hoặc Dòng Piarists – cũng gọi là Dòng Scolopi. Không lâu sau, ngài được bổ nhiệm làm bề trên.
Vì thành kiến, tham vọng chính trị và thủ đoạn khiến cho học viện bị xáo trộn. Một số người không ủng hộ việc dạy trẻ em nghèo, vì giáo dục như vậy khiến những người nghèo không thỏa mãn với nhiệm vụ đối với xã hội! Một số người khác cho rằng một số tu sĩ đã được sai đi để hướng dẫn Galileo (một người bạn của Giuse Calasanz) làm bề trên. Sự phân chia các thành viên thành những nhóm đối lập. Liên tục bị các Ủy ban Tòa thánh kiểm tra, ngài bị giáng chức, còn các tu sĩ Dòng Piarists bị áp bức. Mãi đến sau khi ngài qua đời người ta mới chính thức công nhận nhóm của ngài là một tu viện.

Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2014

Thứ Hai Tuần XXI Thường Niên



Lời Chúa: Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng.
“ Ha-lê-lui-a. Chúa nói: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng, và chúng theo tôi. Ha-lê-lui-a.”
Chúa thật cao cả xứng muôn lời ca tụng
Khả tôn khả úy hơn chư thần
Vì chư thần các nước thảy điều hư ảo

Còn Đức Chúa Người sáng tạo trời cao.


Ngày 25/08. Thánh Louis, Vua nước Pháp (1226-1270)
Khi đăng quang là vua nước Pháp, thánh Louis tuyên thệ sẽ ăn ở xứng đáng một người được xức dầu của Thiên Chúa, là người cha của dân tộc và là vua yêu chuộng hòa bình. Dĩ nhiên các vua khác cũng tuyên thệ như vậy. Nhưng vua Louis khác vì ngài làm nhiệm vụ trong ánh sáng của đức tin. Hai triều đại trước đầy bạo lực, nhưng triều đại của vua Louis lại đầy hòa bình và công lý.
Ngài lên ngôi lúc mới 12 tuổi, sau khi phụ vương ngài băng hà. Mẫu hậu ngài là Blanche Castile đã cai trị nhiếp chính khi ngài còn nhỏ. Năm ngài 19 tuổi, ngài kết hôn với Marguerite Provence (lúc đó phu nhân mới 12 tuổi). Đó là cuộc hôn nhân lâu dài, không gặp thử thách. Họ có 10 người con.
Lúc 30 tuổi, vua Louis cầm Thánh Giá cho một Thập tự quân. Quân đội của ngài chiếm Damietta ở Nile, nhưng không lâu sau, do bị kiết lỵ và yếu sức, ngài bị bắt. Ngài được thả nhờ trả lại thành phố Damietta. Ngài sống ở Syria 4 năm.
Ngài luôn tuân phục Đức Giáo hoàng, nhưng ủng hộ các mối quan tâm của hoàng gia nghịch ý các giáo hoàng và không chấp nhận lời kết án của ĐGH Innocent IV chống lại hoàng đế Frederick II. Ngài tận tâm với mọi người, mở các bệnh viện, thăm viếng bệnh nhân theo gương thánh bổn mạng ngài là thánh Phanxicô, chăm sóc các bệnh nhân phong cùi.
Hàng ngày ngài ăn chung với 13 “vị khách đặc biệt” là những người nghèo, và nhiều người nghèo khác được phục vụ bữa ăn gần hoàng cung. Trong mùa Vọng và mùa Chay, ai đến cũng được ngài cho ăn uống, và đích thân ngài phục vụ họ. Ngài luôn có danh sách những người nghèo khổ, và ngài thường xuyên giúp đỡ họ.
Bị Hồi giáo quấy nhiễu ở Syria, năm 1267 đích thân dẫn quân đi chiến đấu, khi đó ngài 41 tuổi. Thập tự quân của ngài chuyển sang Tunis theo ý người anh em của ngài. Quân đội bị bệnh mất 1/10 chỉ trong vòng 1 tháng, và chính ngài cũng băng hà trên đất khách quê người ở tuổi 44. Sau 27 năm, ngài được phong thánh. Vua Thánh Louis là một trong những thánh bổn mạng của Dòng Ba Phanxicô.

Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2014

Chúa Nhật XXI Thường Niên Năm A



Lời Chúa: Anh là Phê-rô, nghĩa là tảng đá, Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời.

       Một hôm, khi Đức Giê-su đến miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.”  Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”  Ông Si-môn Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Đức Giê-su nói với ông: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.


SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
       Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giê-su đã hỏi các môn đệ hai câu. Câu thứ nhất là “Người ta nói Con Người là ai?” và câu thứ hai là “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Đức Giê-su chờ câu trả lời chính xác của các môn đệ. Ông Phê-rô, được ơn mạc khải từ Thiên Chúa Cha, đã trả lời chính xác: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống!” Đức Giê-su cũng đặt câu hỏi trên với mỗi Ki-tô hữu chúng ta và Người cũng chờ đợi câu trả lời của riêng mỗi người chúng ta. Vậy đối với riêng chúng ta, thì Chúa Giê-su là ai? Người có vai trò gì trong đời sống của chúng ta? Người làm thay đổi cuộc đời chúng ta như thế nào? Chúng ta sống hằng ngày với Chúa ra sao?
       Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh trên nền đá tảng Phêrô. Phêrô vốn là một người yếu đuối. Đời ông nhiều thất bại hơn thành công, nhiều yếu đuối hơn mạnh mẽ. Đã từng ra khơi suốt đêm để sáng sớm trở về tay trắng. Đã từng chìm xuống khi muốn đi trên mặt nước. Đã từng ngủ mê khi phải canh thức với Thầy trước giờ tử nạn. Và tệ hại nhất là đã từng chối Thầy ba lần khi Thầy chịu khổ nạn. Nền tảng Phêrô là một con người yếu đuối cũng như cả Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn Tuy Hội Thánh dành cho con người, gồm những con người yếu đuối, nhưng đó lại là Hội Thánh của Thiên Chúa. Hội Thánh của Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa thiết lập. Chúa Giêsu xác định đây là “Hội Thánh của Thầy”. Hội Thánh của Thiên Chúa nên sống bằng sức sống của Thiên Chúa chứ không bằng sức sống của con người. Thật vậy, Hội Thánh rất yếu đuối. Có những yếu đuối khi phải đương đầu với những khó khăn thử thách bên ngoài. Biết bao vua chúa đã muốn triệt hạ Hội Thánh khi Hội Thánh chỉ là một nhóm những người bé nhỏ nghèo hèn. Có những yếu đuối từ trong nội bộ. Biết bao lần chia rẽ, phân ly. Biết bao lỗi lầm tai hại tưởng như khiến Hội Thánh đổ nát tan tành. Nhưng Hội Thánh vẫn đứng vững với thời gian. Vì đó là Hội Thánh của Thiên Chúa. Như lời Chúa dạy Phêrô: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” Vì Hội Thánh là của Chúa nên chúng ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, biết mình u mê, thì chúng ta sẽ phó thác cho Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng ta, và chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khóa nhưng chính Chúa gìn giữ tòa nhà.
       Lạy Chúa và Mẹ Maria cùng Thánh Cả, tòa nhà Hội Thánh sau hai ngàn năm đến nay vẫn còn đang được xây dựng dang dở. Xin Chúa giúp mỗi người tín hữu chúng con biết tích cực góp phần xây dựng, để ngôi nhà Hội Thánh sớm được hoàn thành, xin cho chúng con luôn sống yêu thương hòa thuận, để gia đình và Giáo Xứ chúng con trở thành một cộng đoàn yêu thương hiệp nhất và bình an. Nhờ đó nhiều người sẽ nhận biết mà kính thờ Chúa, và sau này cùng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ của Chúa ban cho. Amen


Ngày 24/08. Thánh Batôlômêô, Tông đồ
Trong Tân ước, thánh Batôlômêô chỉ được nhắc đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả xác định ngài với Nathanael, một đàn ông người Cana ở Galilê đã được Philipphê nói cho biết về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khen ông: “ Đây đích thật là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối” (Ga 1:47). Khi Nathanael hỏi Chúa Giêsu làm sao biết ông, Chúa Giêsu nói:“Trước khi Phi-líp-phê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi” (Ga 1:48). Điều mặc khải lạ lùng là Nathanael tuyên xưng: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en!” (Ga 1:49). Chúa Giêsu nói: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” (Ga 1:50).
Nathanael đã thấy những điều lớn lao hơn. Ngài là một trong các tông đồ được Chúa Giêsu hiện ra trên bờ biển Tibêria sau khi phục sinh (x. Ga 21:1-14). Họ đã đánh cá suốt đêm mà vô ích. Đến sáng, họ thấy một người đứng trên bờ nhưng không ai biết đó là Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã bảo họ thả lưới, họ làm theo và đánh được rất nhiều cá. Rồi Gioan nói với Phêrô: “Thầy đấy”.
Khi họ cho thuyền vào bờ, Chúa Giêsu bảo họ nướng cá, và cùng họ dùng bữa. Biết là Thầy rồi nên các ông không dám hỏi xem đó là ai. Thánh Gioan nói đó là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ.

Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2014

Thứ Bảy Tuần XX Thường Niên



Lời Chúa: Họ nói mà không làm.
“ Ha-lê-lui-a. Anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời; anh em chỉ có một vị lãnh là Đức Ki-tô. Ha-lê-lui-a.”
Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc
Và đất chúng ta trổ sinh hoa trái
Công lý tiền phong đi trước mặt Ngài
Mở lối cho Người đặt bước chân

Vinh quang Chúa hằng chiếu tỏa trên đất nước chúng ta.


Ngày 23/08. Thánh Rôsa Lima, Trinh nữ (1586-1617)
Đây là vị thánh tiên khởi của Tân Thế giới. Bà đã bị chống đối hơn là được khâm phục và bắt chước vì bà hành xác quá nhiều.
Bà sinh trưởng trong một gia đình người Tây Ban Nha ở Lima, Peru, lúc mà Nam Mỹ đang lúc được Phúc âm hóa hồi. Bà noi gương thánh Catarina Siena, dù bị cha mẹ và bạn bè chế nhạo.
Các vị thánh luôn có tình yêu vĩ đại dành cho Thiên Chúa đến nỗi có vẻ kỳ lạ đối với chúng ta, thậm chí chúng ta còn coi thường. Vì Rôsa đẹp nên được nhiều người ái mộ và thích nựng, thế nên bà lấy tiêu xoa mặt để mặt bà bị những vết sưng tấy cho xấu đi. Sau đó, bà đeo những khoen bạc trên đầu có những đinh nhọn đâm vào đầu như mạo gai vậy.
Khi cha mẹ bà gặp rắc rối về tài chính, suốt ngày bà lao động ngoài vườn và may vá vào ban đêm. Cha Mẹ muốn bà kết hôn nhưng bà không chịu và bà phải đấu tranh suốt 10 năm. Họ không cho bà đi tu, nhưng bà vẫn tiếp tục đền tội, vào Dòng Ba Đa Minh và khấn giữ mình đồng trinh tại gia. Bà khao khát sống như Chúa Giêsu nên bà dành nhiều thời gian sống cô tịch ngay tại nhà.
Trong vài năm cuối đời, bà dành một phòng để chăm sóc các trẻ em cơ nhỡ, người già và người bệnh. Đây là khởi đầu cho công việc xã hội ở Peru.
Bà có một tình yêu rất mãnh liệt đối với Thiên Chúa, dù bà bị cám dỗ dữ dội và kém sức khỏe. Bà qua đời khi mới 31 tuổi, cả thành phố tuôn ra đường đưa tang bà. Những người khiêng quan tài bà là những đàn ông giỏi giang xuất chúng.

Thứ Năm, 21 tháng 8, 2014

Thứ Sáu Lễ Nhớ Đức Maria Nữ Vương



Lời Chúa: Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai.
“ Ha-lê-lui-a. Kính chào Đức Maria, Mẹ đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ, Mẹ có phúc hơn mọi người phụ nữ. Ha-lê-lui-a.”
Hỡi tôi tớ Chúa hãy dâng lời ca tụng
Nào ca ngợi danh thánh Chúa đi !
Tự giờ đây cho đến mãi muôn đời
Chúa siêu việt trên hết mọi dân

Vinh quang Người vượt xa trời cao thẳm.


Ngày 22/08. Đức Maria Trinh Vương
ĐGH Piô XII thiết lập lễ này năm 1954. Nhưng lễ Đức Maria Trinh vương có nguồn gốc từ Kinh thánh. Khi sứ thần Gabriel báo tin Con Mẹ sẽ nhận Vương triều David và cai trị đời đời. Mẹ đi thăm chị Elizabeth, Mẹ được gọi là “Mẹ Thiên Chúa”. Trong mọi bí ẩn cuộc đời Mẹ, Mẹ luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu: Thiên chức Nữ vương là chia sẻ Thiên chức Quốc vương của Chúa Giêsu. Chúng ta có thể nhớ lại trong Cựu ước, mẹ của vua có ảnh hưởng nhiều trong việc triều chính.
Thế kỷ IV, thánh Ephrem gọi Đức Mẹ là “Lệnh Bà” và “Nữ vương”, rồi các Giáo phụ và các Tiến sĩ Giáo hội vẫn tiếp tục dùng danh hiệu này. Các bài thánh ca (hymns) hồi thế kỷ XI và XIII đều tôn xưng Mẹ là Nữ vương: “Kính mừng Nữ vương”, “Kính mừng Nữ hoàng Thiên quốc”, “Nữ vương Thiên đàng”. Chuỗi Mân côi của thánh Đa Minh và triều thiên của thánh Phan Sinh cũng như nhiều lời cầu trong Kinh cầu Đức Bà (Mary’s litany) đều nhắc đến chức Nữ vương.
Lễ này theo sau lễ Đức Mẹ Mông triệu một cách hợp lý và được mừng vào ngày thứ tám sau lễ Mông triệu. Trong tông thư “Nữ hoàng Thiên quốc” (To the Queen of Heaven), ĐGH Piô XII nói rằng Đức Maria xứng đáng nhận danh hiệu này vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ sống kết hợp mật thiết với công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu với cương vị là Eva mới, vì Mẹ hoàn hảo trổi vượt và vì Mẹ có quyền bầu cử cho chúng ta.

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

Thứ Năm Tuần XX Thường Niên


Lời Chúa: Gặp ai, anh em cũng mời hết vào tiệc cưới.
“ Ha-lê-lui-a. Ngày hôm nay, anh em chớ cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa. Ha-lê-lui-a.”
Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ
Và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con
Đường lối Ngài con sẽ dạy cho người tội lỗi

Những ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài.


Ngày 21/08- 1787-1838 Thánh Giuse Đặng Đình Viên Linh Mục Tử Đạo
Giuse Ðặng Ðình Viên còn có tên là lương, Sinh năm 1787 tại làng Tiên Chu, huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên, Linh mục triều, bị xử trảm ngày 21/8/1838 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII suy tôn cha Giuse Đặng Đình Viên lên hàng Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 21/08.
Ngày 17-04-1838, quan quân đang lùng bắt những đạo trưởng Công Giáo thì tại An Liêm, lương dân bắt được một người lạ mặt, một thầy giảng với sáu bức thơ và bình đựng dầu thánh. Thầy giảng này do Cha Viên sai đi để gửi các thư và lấy dầu thánh.
Tại làng An Liêm, một làng nửa Công Giáo nửa bên lương, đã từ lâu có sự hiềm khích vì người Công Giáo đã được phép chước không phải góp tiền vào các dịp cúng lễ trong năm. Nhân dịp này bên lương yêu cầu bên giáo hủy bỏ điều này, từ nay góp tiền vào việc cúng thần thì sẽ bỏ qua nội vụ. Song lệnh của đức cha và của tòa thánh là không thể thông công vào các việc dị đoan. Thế là dân làng An Liêm đem nộp cho quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Ông này mừng rỡ liền sai 800 lính đến Cao Xá theo lời khai của thầy giảng để lùng bắt Cha Viên. Từ đây mở màn cho những cuộc lùng bắt ghê gớm tại các tỉnh Nam Ðịnh, Hưng Yên....


Cha Giuse Viên, tác giả sáu bức thư, sinh năm 1787 tại làng Tiên Chu, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Cha mẹ là những tín hữu sốt sắng đã gửi cậu Viên vào nhà Ðức Chúa Trời ở họ Vân, xứ An Thị Sau đó cậu được gửi theo học Latinh và Thần Học tại Lục Thủy, và năm 1824 ngài được thụ phong linh mục. Lúc đó Cha Viên mới 36 tuổi.
Hai năm sau, Cha Viên được đổi về miền Bắc Ninh, và trong suốt 16 năm trời cha hoạt động rất đắc lực cho Chúa và các linh hồn tại các họ Ðông Bài, Thiết Nham, Như Thiết, An Mỹ.
Vì những lá thơ đó, Cha Viên bị các quan quân truy nã rất gắt gao. Họ được lệnh đi tìm bắt Cha Viên bằng mọi giá. Quan đầu tỉnh Hưng Yên là Hà Thúc Lương gửi người về tỉnh và huyện để tra khảo tên tuổi lý lịch Cha Viên nhưng không ai biết Cha Viên ở đâu. Sau cùng họ bá cáo về kinh, vua phẫn nộ và trách quở quan tuần. Vua còn ra chỉ thị cho quan phải bắt Cha Viên trong một thời kỳ đã ấn định sẵn. Trong thời gian khá lâu, quan cũng không tìm ra tông tích nên quan lại phải xin vua gia hạn. Biết rằng tìm kim đáy biển, quan liền bày ra một diệu kế và mạo nhận viết một lá thơ cho Cha Viên lấy tên là người nhà của Cha Viên. Trong lá thơ tỏ ra rất lo lắng cho số mạng của Cha Viên và chỉ muốn giúp đỡ Cha Viên mà thôi. Qua diệu kế và lời hứa thưởng bội hậu, quan đã tìm thấy hai tên phản bội. Hai tên này là Ðặng Ðình Lại và Ðặng Ðình Nhật, anh ruột và cháu ruột của Cha Ðặng Ðình Viên.
Theo sự kiện trên, chúng ta thấy lời Chúa hoàn toàn ứng nghiệm: "Các con sẽ bị nộp trước tòa bởi chính cha mẹ, anh em bạn hữu mình". (Lk 21, 16). Hai tên phản bội này mất cả tháng trời để dò la tin tức về Cha Viên, sau cùng họ tìm ra nhà bà Hai Nhi, nhà mà họ nghi là Cha Viên đang ẩn núp, ở họ Cầu Chảy, xã Như Thiết. Họ đưa cho người đàn bà ra mở cửa một lá thơ đề tên Cha Viên. Chị này cầm đến cho cha, khi cha mở ra thì biết rằng mình bị mắc mưu. Cha cố gắng dán thơ lại nhưng không thể nào giống như cũ được cha đành phải vội vàng trả lại. Khi hai tên này nhận được thơ thì biết ngay là chỗ ở của Cha Viên, mặc dầu người trong nhà tìm đủ cách để đánh lạc hướng. Hai tên phản bội cũng ngầm đi báo lính canh gần đấy. Sau này chính hai tên này xưng hô rằng chúng muốn đích thân để bắt Cha Viên nhưng sợ không đủ thời giờ đành phải nhờ lính. Chúng muốn tri hô lên vậy để kiếm thêm tiền thưởng. Vừa nói xong quan tuần đến ngay. Chỉ kịp giờ cho Cha Viên chạy ra vườn mía sau nhà. Từ vườn mía cha không thể lẩn trốn ngay mà không bị lộ tông tích, tuy nhiên nếu lanh chân cha vẫn có thể trốn thoát nếu không vì lòng thương xót kẻ khác thúc đẩy để cha ra nộp mình.
Hiểu biết như vậy, quan tuần lôi một đứa trẻ thuộc gia đình đó ra tra tấn. Mặc dầu bị tra tấn rất dã man, em bé vẫn can đảm chịu đựng và sau cùng không chịu được nữa em phải kêu lên: "Lạy Mẹ Thiên Chúa, xin đến cứu con, con không biết chỗ ẩn núp của linh mục đó".
Em đau đớn rên rỉ làm Cha Viên phải xuất đầu lộ diện và nói: "Tôi đây là linh mục Viên, hãy bắt tôi và tha cho em đó".
Hôm ấy là ngày 01-08, Cha Viên bị bắt. Thấy vậy quan quân cũng phải đem lòng khâm phục vì gương anh dũng và lòng thương người của Cha Viên. Trước khi quân lính lăn xả vào trói Cha Viên, chúng nói với nhau: "Nếu người này có cái răng gẫy, chính là đạo trưởng Viên".
Khi khám phá ra dấu đó, lính lăn xả vào trói và đánh Cha Viên. Khi đánh xong chúng đeo gông và xiềng xích vào cho ngài rồi lôi ra đình làng, sau đó từ đình làng tới Hưng An và nhốt cha trong tù chung với những kẻ trộm cướp, sát nhân.
Mặc dầu bị đau đớn hành khổ cùng đeo xiềng xích Cha Viên vẫn một lòng trung tín cùng Chúa và đạo thánh người. Họ tra khảo lý lịch và bắt cha dịch ngay lá thơ viết bằng ngoại ngữ ra tiếng Việt, cha vâng lời ngay tức khắc.
Ðức Cha Marti đã viết trong cuốn hồi ký của ngài rằng khi Cha Viên dịch ra tiếng Việt thấy lá thơ không có mưu đồ hại gì càng làm cho quan rất phẫn nộ vì chính ông đinh ninh rằng thơ này có ẩn ý gì hoặc hãm hại ông hay vua.
Một điều chắc là họ muốn tìm bắt cho được Cha Hermosilla, vị truyền giáo còn lại mà những lá thơ này đã ám chỉ đến ngài.
Lẽ dĩ nhiên Cha Viên là tác giả những lá thơ đó, nên bị hành khổ tra tấn rất dã man và với ơn Chúa giúp, cha vẫn khăng khăng một mực từ chối không tiết lộ điều gì có nguy hại cho các linh mục cả.
Qua những sự kiện này họ vẫn không thể lay chuyển được Cha Viên nên ngày 03-08 các quan làm án như sau: "Hết lòng trung thành với vua, chúng tôi đã bắt được tên Ðặng Ðình Viên, người bản quốc và là công dân triều đình vì tội hắn là đạo trưởng Kitô, hắn thuộc loại ngu ngốc, đã dám theo người tây phương và chẳng những đã theo đạo tà này lại còn dạy kẻ khác theo nữa và dùng mưu mô để lường gạt dân chúng. Khi có lệnh vua cấm, hắn vẫn ngang nhiên phản lại. Hắn còn dám thông đồng và viết thơ cho người Tây phương bằng ngôn ngữ của họ. Hiển nhiên, hắn đã làm quấy và khờ dại không biết phải trái. Về phần chúng tôi, chúng tôi vẫn một lòng dạ với vua và do đó hắn phải xử trảm như Ðỗ Yến. Vậy xin vua phê cho Ðặng Đình Viên cũng như vậy".
Ngày 12-08, vua phê như sau: "Ðạo trưởng tên Lương cũng gọi là Ðặng Ðình Viên, thần dân của nước trẫm và là đạo trưởng của đạo Gia-tô đã theo tả đạo. Ðã vậy hắn vẫn không sợ hoặc ăn năn hay xuất đạo, ngược lại hắn đã viết thơ bằng tiếng ngoại ngữ cho bốn người tây phương, nếu vậy hắn là thứ đạo trưởng của tả đạo. Ta đồng ý và tuyên án, hắn phải trảm quyết".
Từ khi bị kết án rồi, theo lời một nhân chứng, quan quân còn dùng đủ cách để tra khảo và bắt ép Cha Viên phải chà đạp thánh giá và xuất đạo, nhưng đầy tớ Chúa vẫn khăng khăng một mực trung tín. Có lúc chúng dùng lời nịnh bợ và cố để lọt vào tai cha. Chúng nói với nhau: "Nếu ông này chọn sống với chúng ta, ông ấy có thể làm lớn như chúng ta vì ông có bộ mặt rất sắc sảo thông minh hơn người".
Cha Viên nghe vậy, ngài chỉ làm thinh.
Lệnh vua về tới Nam Ðịnh ngày 21-08, quan quân lập tức thi hành ngay. Một trong hai tên phản bội đấm ngực và xin được tha thứ. Cha Viên sẵn sàng ngay nhưng cha cho hắn ta biết tội rất nặng và đòi anh ta phải đi xưng tội và làm việc đền tội. Hành động xin tạ tội này không thật lòng vì sau này anh ta vẫn tiếp tục làm hại các linh mục.
Cha Viên bị đeo gông, và xiềng xích rất nặng như một tên tội nhân cùng khổ nhất. Trước khi hành xử chúng còn cố gắng dụ dỗ cha xuất giáo một lần nữa nhưng cha cương quyết cự tuyệt sau đó chúng mới đọc bản án.
Quan quân tụ họp ngay tại đình làng. Dẫn đầu bằng một tên lính mang bản án. Sau hắn ta là đoàn lý hình với gươm giáo rồi đến quan quân chễm chệ trên lưng voi dẫn ra pháp trường. Theo sau có rất đông dân chúng cả lương lẫn giáo. Vừa đi Cha Viên vừa chăm chỉ cầu nguyyện, có lúc cha khóc lóc và ăn năn vì tội mình. Một người ngoại đạo, ngạc nhiên nói với người Công Giáo vì anh ta cho rằng Cha Viên có lẽ sợ nên đã khóc. Người Công Giáo bảo anh ta rằng: "Ông lầm rồi, cha chúng tôi không khóc vì sợ chết, mà khóc vì vui mừng đó thôi".
Khoảng trưa thì cả đoàn người đã tới pháp trường gọi là Ba Tòa. Họ tháo gông và xiềng xích cho cha. Một vài giáo dân đã đem theo sau mảnh chiếu và trải cho cha ngồị
Họ cũng mang đồ ăn cho cha. Nhưng cha chỉ nếm thôi để làm hài lòng họ. Sau mấy phút trầm ngâm cầu nguyện, cha đưa hai cánh tay cho họ trói giật lại. Cha Viên, như con chiên trên bàn hiến tế, ngoan ngoãn giương cổ cho lý hình đang chờ sẵn. Lúc đó hai tên phản bội lăn xả xuống và xin Cha Viên tha tội. Cha nói, cha sẵn sàng tha cho họ với điều kiện họ phải đi xưng tội và làm việc đền tội. Trong hồi ký, Ðức Cha Marti kể rằng: "Có một người ngoại đạo tên Hòa đến gần Cha Viên và nói thầm với cha rằng: 'Hôm nay cha về trời, nếu cha cần phải nhắn bảo hay làm gì, con sẵn sàng làm theo ý cha".
Thinh lặng trong phút cầu nguyện, cha hướng mặt về trời lần sau chót và lý hình vung gươm chém một nhát. Ðầu cha lăn ngay xuống đất và linh hồn hạnh phúc ấy được hợp hoan cùng Chúa muôn đời. Cha thọ 52 tuổi.
Theo tập quán của thời này, dân chúng lương cũng như giáo chạy ra và thấm máu cha cũng như họ đã tranh nhau lấy tất cả những gì thuộc về cha và có người bán chác ngay tại chỗ, thậm chí có người dám cắt tai cha để bán lại cho giáo dân.
Sau đó, bổn đạo tại làng Vân xin giữ đầu Cha Viên, nhưng giáo dân làng Tiên Chu ngăn cản họ. Trong khi đó quan tuần đã cho phép dân chúng làng Tiên Chu giữ cả xác và đầu Cha Viên và họ đã chôn cất tại nhà thờ mà vua đã cho phá. Làng Tiên Chu có khoảng ba ngàn giáo dân.
Sau vụ này, vua ban thưởng ba trăm quan. Số tiền này họ chia nhau và cho cả hai tên phản bội nữa. Sau đó quan tuần được thăng chức. Ðó là tất cả các lợi lộc, chức tước của đời này, còn chúng ta những người Công Giáo thì sao? Chúng ta phải đợi phán xét xử công minh của Chúa. Ðó mới là chính phần thưởng vĩnh cửu đời sau.
Đức Lêo XIII suy tôn cha Giuse Đặng Đình Viên lên hàng Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.


Ngày 21/08. Thánh Piô X, Giáo hoàng (1835-1914)

Có lẽ ĐGH Piô X được nhớ đến nhiều nhất vì ngài khuyến khích rước lễ thường xuyên, nhất là đối với trẻ em.
Là con thứ hai trong 10 anh chị em trong một gia đình người Ý nghèo, Giuse Sarto trở thành ĐGH Piô X lúc 68 tuổi, một trong các vị giáo hoàng vĩ đại nhất thế kỷ XX.
Ngài biết phận mình nên ngài nói: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn, tôi sẽ chết nghèo hèn”. Ngài lúng túng vì một số nghi thức long trọng đăng quang giáo hoàng. Ngài nói trong nước mắt với các bạn già: “Nhìn kìa! Người ta cho tôi mặc đẹp biết bao!”. Ngài nói với người khác: “Phải chấp nhận như thế là việc đền tội. Họ dẫn tôi đi với lính tráng vây quanh như Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt trong vườn Gếtsimani vậy”.
Quan tâm tới chính trị, ngài khuyến khích người Công giáo Ý quan tâm tới chính trị hơn. Một trong các hành động trong triều đại giáo hoàng của ngài là chấm dứt quyền được coi là của chính phủ can thiệp vào việc bầu giáo hoàng – một động thái làm giảm tự do của mật viện.
Năm 1905, khi Pháp từ bỏ thỏa hiệp với Tòa thánh và đe dọa tịch biên tài sản giáo hội nếu chính phủ không có quyền kiểm soát giáo hội, ngài vẫn thẳng thừng từ chối yêu cầu vô lối của Pháp.
Dù không có những tông thư nổi tiếng như những vị tiền nhiệm, ngài vẫn tố cáo những cách cư xử tồi tệ với những người Ấn tại các đồn điền ở Peru, ngài còn gởi phái đoàn cứu trợ tới Messina sau khi động đất và cho họ tị nạn bằng chính tiền riêng của ngài.
Dịp kỷ niệm năm thứ 11 trên cương vị giáo hoàng của ngài, Âu châu chìm trong thế chiến I. Ngài đã biết trước điều đó. Ngài nói: “Đây là nỗi đau khổ cuối cùng mà Chúa sẽ đến thăm tôi. Tôi vui mừng dâng Chúa sự sống của tôi để cứu các trẻ em nghèo trong tai họa khủng khiếp này”. Ngài qua đời sau khi thế chiến xảy ra được vài tuần.

Thứ Ba, 19 tháng 8, 2014

Thứ Tư Tuần XX Thường Niên



Lời Chúa: Phải chăng vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?
“ Ha-lê-lui-a. Lời Thiên Chúa là lời sống động và hữu hiệu, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Ha-lê-lui-a.”
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
Tôi ấp ủ suốt cả cuộc đời
Và tôi được ở đền Người
Những ngày tháng những năm dài triền miên.


Ngày 20/08. Thánh Bênađô Clairvaux, Viện phụ, Tiến sĩ Giáo hội (1091-1153)
Thánh Bernard Clairvaux là cố vấn của các giáo hoàng, người giảng thuyết của Thập tự quân Đệ nhị (Second Crusade), người bảo vệ đức tin, người chữa lành ly giáo, người cải cách đời sống đan viện, học giả Kinh thánh, thần học gia và nhà thuyết giảng lưu loát.
Năm 1111, lúc 20 tuổi, ngài vào Dòng Xitô (Citeaux). Năm anh em ngài, hai người thúc bá và khoảng 30 người bạn trẻ đều theo ngài đi tu. Trong 4 năm, cộng đoàn đang suy yếu đã hồi phục nhanh đến nỗi mở thêm tu viện mới ở thung lũng Wormwoods gần đó, và ngài là Viện phụ. Thung lũng này được đổi tên thành Clairvaux – nghĩa là thung lũng ánh sáng. Ngài qua đời ngày 20-8-1153.

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2014

Thứ Ba Tuần XX Thường Niên



Lời Chúa: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.
“ Ha-lê-lui-a. Đức Giê-su Ki-tô vốn giàu sang phú quý, nhưng trở nên khó nghèo, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có. Ha-lê-lui-a.”
Ngày chúng lâm nạn đã gần
Và vận hạn chúng đang sầm sập tới
Đức Chúa sẽ xét xử cho thần dân

Sẽ dủ lòng thương xót  hàng tôi tớ.


Ngày 19/08. Thánh Gioan Eudes, Linh mục (1601-1680)
Ngài sinh tại một nông trại ở miền Bắc nước Pháp. Thời đó ngài là một tu sĩ, một nhà truyền giáo, người sáng lập 2 cộng đoàn tu sĩ và là người thúc đẩy lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẫu Tâm Maria (Trái tim Vẹn sạch Đức Mẹ).
Ngài vào Dòng Hùng Biện (*) và thụ phong linh mục lúc 24 tuổi. Trong những năm đại dịch, từ 1627 tới 1631, ngài tình nguyện chăm sóc những người nhiễm bệnh trong giáo phận.
Lúc 32 tuổi, ngài trở thành nhà truyền giáo. Ngài có biệt tài giảng thuyết và giải tội. Ngài giảng thuyết ở hơn 100 giáo xứ truyền giáo, có những nơi ngài giảng trong vài tuần hoặc vài tháng.
Ngài quan tâm việc thay đổi tâm linh giáo sĩ, ngài thấy rằng đó là nhu cầu lớn nhất đối với các chủng viện. Ngài được phép của Bề trên tổng quyền, Giám mục và Hồng y Richelieu để bắt đầu công việc này, nhưng Bề trên tổng quyền kế vị lại không chấp thuận. Sau khi cầu nguyện và tham khảo ý kiến, ngài quyết định rời khỏi tu viện. Cùng năm đó, ngài thành lập một dòng mới gọi là Dòng Eudists (Dòng Chúa Giêsu và Đức Mẹ – Congregation of Jesus and Mary), chuyên đào tạo giáo sĩ bằng việc linh hướng các chủng viện. Việc này được các giám mục đồng thuận, nhưng cũng gặp đối lập ngay, nhất là từ phía tà thuyết Gian-sen (*) và một số bạn đồng liêu cũ. Ngài mở vài chủng viện ở Normandy, nhưng không được Rôma phê chuẩn (một phần vì ngài không khéo léo trong giao tế).
Trong việc truyền giáo, ngài bị quấy nhiễu bởi gái làng chơi, do họ muốn thoát cảnh sống khốn khổ. Các nhà mở tạm thời được thành lập nhưng sắp xếp không được ổn thỏa. Một người tên Madeleine Lamy, chăm lo cho một số phụ nữ, đã nói với ngài: “Ngài đi đâu bây giờ? Thiết nghĩ ngài hãy tới một nhà thờ nào đó mà ngài thấy trong hình và nghĩ mình sùng đạo. Điều luôn cần ở ngài là mở một nhà cho những sinh vật khốn khổ này”. Những lời đó đã đánh động ngài. Thế là một cộng đoàn tu mới được thành lập, đó là Dòng Tiểu muội Bác ái Trú ẩn (Sisters of Charity of the Refuge).
Có thể ngài được biết nhiều do các chủ đề trong các tác phẩm của ngài: Chúa Giêsu là nguồn sự thánh thiện, Mẹ Maria là mẫu gương đời sống Kitô giáo. Ngài rất sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẫu Tâm Maria, ĐGH Piô XI tôn vinh ngài là tổ phụ của lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Ngài qua đời lúc 79 tuổi.

Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2014

Thứ Hai Tuần XX Thường Niên



Lời Chúa: Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh, anh sẽ được một kho tàng trên trời.
“ Ha-lê-lui-a. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước trời là của họ. Ha-lê-lui-a.”
Chúng đã thờ các thần không phải là Thiên Chúa
Khiến Ta phải ghen tương
Thờ những thần hư ảo mà trêu giận Ta
Ta sẽ dùng một dân không phải là dân
Khiến chúng phải ghen tương
Dùng một dân tộc ngu si mà trêu giận chúng.



 Ngày 18/08. Thánh Jane Frances Chantal, Nữ tu (1562-1641)
Jane Frances là vợ, là mẹ, là nữ tu và sáng lập dòng. Bà mồ côi mẹ khi mới được 18 tháng tuổi. Cha bà là nghị sĩ trưởng ở Dijon, Pháp, có ảnh hưởng nhiều tới việc giáo dục cô con gái Jane Frances. Bà phát triển thành một phụ nữ đẹp, khéo léo, hoạt bát và vui vẻ. Lúc 21 tuổi, bà kết hôn với nam tước Chantal, rồi sinh 6 đứa con, nhưng 3 đứa chết từ nhỏ. Sống trong lâu đài sang trọng nhưng bà vẫn giữ thói quen đi lễ hàng ngày, và làm nhiều việc bác ái. Sau 7 năm kết hôn, chồng bà bị giết chết, bà thu mình trong vỏ ốc ưu sầu 4 tháng tại nhà mình. Cha chồng dọa không cho các con bà thừa hưởng thừa kế nếu bà không trở về nhà chồng. Lúc đó cha chồng bà đã 75 tuổi nhưng vẫn tự phụ, hung dữ và phung phí. Bà vãn vui vẻ dù cha chồng là người ngược ngạo.
Lúc 32 tuổi, bà gặp thánh giám mục Phanxicô Salê, người linh hướng cho bà. Bà muốn đi tu nhưng thánh Phanxicô Salê thuyết phục bà trì hoãn ý định đó. Bà thề không tái hôn và vâng lời cha linh hướng.
Sau 3 năm, thánh Phanxicô Salê  cho bà biết về kế hoạch của ngài là thành lập một dòng nữ. Dòng này chuyên chăm thực hành các nhân đức của Đức Mẹ khi thăm viếng thánh Êlidabét, do đó dòng có tên là Dòng Đức Mẹ Thăm Viếng, sống khiêm nhường và hiền lành, theo tu luật của thánh Augustinô.
Thánh Phanxicô Salê viết một cuốn sách nổi tiếng cho dòng này là cuốn Treatise on the Love of God(Luận thuyết về Tình yêu Thiên Chúa). Khi lập dòng chỉ có 3 nữ tu, thánh Jane Frances lúc đó 45 tuổi. Bà chịu đựng nhiều điều mất mát: Thánh Phanxicô Salê qua đời, con trai bà bị giết chết, đại dịch hoành hành nước Pháp, con dâu và con rể bà cũng qua đời. Bà động viên chính quyền địa phương nỗ lực vì các nạn nhân bị dịch bệnh và bà phân phát tài sản của nhà dòng cho những người bệnh.
Có những lúc bà đã phải chịu đựng về tinh thần: đau khổ nội tâm và khô khan tâm linh. Bà qua đời khi đang đi thăm các nhà dòng thuộc hội dòng của bà.