Thứ Tư, 9 tháng 7, 2014

Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên



Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên
Lời Chúa: Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.
“ Ha-lê-lui-a. Chúa nói: Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Ha-lê-lui-a.”
Lạy Mục Tử nhà Ít-ra-en
Ngài là Đấng ngự trên các thần hộ giá
Xin khơi dậy uy dũng của Ngài

Đến cùng chúng con và thương cứu độ.

Ngày 10/07 –  Thánh Veronica Giuliani (1660-1727)
     Veronica muốn nên giống Chúa Kitô bị đóng đinh và đã được Chúa cho chịu Dấu Thánh (stigmata).
     Thánh Veronica sinh tại Mercatelli. Người ta nói rằng khi mẹ bà là Benedetta hấp hối đã gọi 5 cô con gái tới bên giường và trao cho mỗi người con một Dấu Thánh của Chúa Giêsu. Veronica được trao Vết Thương của Thánh Tâm Chúa Giêsu.
     Lúc 17 tuổi, Veronica vào Dòng Thánh Clara Khó nghèo, do các tu sĩ Dòng Phanxicô hướng dẫn. Người cha muốn con gái mình kết hôn, nhưng Veronica thuyết phục để được đi tu. Trong những năm đầu ở tu viện, bà làm việc trong nhà bếp, nhà bệnh nhân, phòng thánh và giữ cổng. Lúc 34 tuổi, bà được bầu làm giáo tập (novice mistress). Lúc 37 tuổi, bà được nhận Dấu Thánh.
     Tòa Thánh muốn kiểm tra tính chính xác nên mở cuộc điều tra. Bà phải tạm thời nghỉ làm giáo tập và không được dự Thánh lễ hàng ngày, trừ Chúa nhật và lễ trọng. Sau một thời gian, bà được phục chức giáo tập và giữ chức vụ này suốt 22 năm.
Lúc 56 tuổi, bà được bầu làm Mẹ bề trên, thời gian là 11 năm khi bà qua đời. Bà rất sùng kính Thánh Thể và Thánh Tâm Chúa. Bà được phong thánh năm 1839.


Ngày 10/07/1808 – 1840 Thánh Phêrô Nguyễn Khắc Tự Thầy Giảng Tử Đạo
Chiếc khăn nghĩa tình
Cuộc tử đạo của thánh Phêrô Tự là một biểu hiện sâu xa mối tình thầy trò, mối tình cha con tinh thần trong giáo hội. Ngày 31.07.1838, sau khi quân lính bắt được linh mục thừa sai Borie Cao, các tín hữu sợ liên lụy nên làm ngơ như không quen biết. Nhưng thầy giảng Tự lẽo đẽo theo đám lính, vừa khóc lóc vừa xin đi theo gót thầy mình. Quân lính thấy thế sinh nghi, bắt thầy đưa đến trước mặt vị thừa sai. Cha Cao vì không muốn thầy bị liên lụy, liền giả bộ không hề biết "người thanh niên" này là ai, sau tình nguyện bỏ tiền ra để chuộc tự do cho anh ta.
Nhưng thầy Tự đã quyết tâm thực hiện ý định của mình khi làm điều đó. Thầy tuyên bố thẳng, mình là đệ tử của người bị bắt, và năn nỉ với ngài: "Xin cha cho con theo cha đến cùng". Trước thái độ chí tình, vị linh mục xúc động, xé chiếc khăn quàng làm hai, trao một phần cho người môn sinh, cũng là cộng tác viên đắc lực nhiều năm qua và nói: "Cầm lấy, hãy cầm lấy nó làm bằng chứng cho lời thầy đã hứa". Và thầy Tự đã giữ miếng vải đó suốt hai năm trời cho đến ngày tử đạo, trong đó gần bốn tháng cùng giam với người cha tinh thần. Thầy đã ghi lại cuộc tử đạo anh hùng của người cha yêu quý, để cùng với ngài theo chân Đức Kitô, vị Tôn sư duy nhất đến đỉnh đồi Can-vê của mình.

 Xin theo cha đến cùng
Phêrô Nguyễn Khắc Tự sinh năm 1808 tại Ninh Bình thời vua Gia Long. Từ nhỏ cậu Tự đã được vào nhà Đức Chúa Trời, rồi trở thành thầy giảng theo giúp cha già Quế. Khi cha già qua đời, thầy được cử đến giúp linh mục Dumoulin Borie Cao. Trong bốn năm giúp cha Cao, thầy tỏ ra rất nhiệt tình, hiền từ và tận tuỵ. Bốn năm cùng làm việc tuy chẳng lâu, nhưng đã phát sinh một mối tình thân thiết đặc biệt giữa hai người. Chính sự gắn bó đó đã đưa thầy Tự vào vòng lao lý khi muốn theo vị linh mục đến cùng.
Sau khi áp giải cha Cao và thầy Tự từ Bố Chính về Đồng Hới, quan cho nhốt hai người riêng biệt. Nhưng nhiều lần cả hai cùng với linh mục Khoa, Điểm và ông năm Quỳnh bị đưa ra tra khảo chung. Lần đầu tiên thầy bị đánh 20 roi vì tội không chịu quá khoá. Hôm sau quan cho điệu riêng thầy ra tra khảo: "Ngươi gặp đạo trưởng đã lâu chưa?". Thầy đáp: "Được bốn năm". Quan hỏi tiếp: "Vậy ngươi gặp đạo trưởng ở đâu?". Để tránh liên lụy đến mọi người thầy Tự nói: "Tôi gặp ông ấy ở trên thuyền, và rồi chúng tôi ở chung với nhau". Quan tức giận quát lớn: "Nói dối, tên này dám khai man. Lính đâu cho nó 30 roi". Thầy Tự đã nhẫn nhục chịu đòn, không hề kêu ca một lời.
Những cuộc tra khảo, đòn vọt và ép buộc quá khóa như thế cứ tái diễn nhiều lần trong suốt bốn tháng. Một hôm để ép buộc cha Cao khai những nhà đã cho trú ẩn, quan lôi thầy ra đánh trước mặt ngài, cũng may là người linh mục cũng nhanh trí khai tên những người đã chết, để thầy bớt bị đòn vọt. Thầy Tự luôn kiên vững với niềm tin. Thầy vẫn khuyên nhủ các tín hữu đến thăm, hãy chấp nhận thánh ý Chúa, trung thành vì đạo và cầu nguyện cho nhau đủ sức chịu đựng đến cùng. Khi có thể thầy tận dụng hoàn cảnh để dạy giáo lý và cắt nghĩa về đạo cho những bạn tù và những lính canh ngoại giáo. Thêm vào đó, thầy siêng năng cầu nguyện, xin Chúa cho mình can đảm hy sinh vì Chúa. Hai lần cha Ngôn đã khéo léo cải trang vào ngục thăm viếng và cho thầy rước lễ.
Ngày 24.11.1838, thừa sai Dumoulin Cao (bấy giờ đã nhận được sắc phong giám mục) cùng hai cha Điểm và Khoa bị điệu đem ra xử tử. Cũng trong bản án đó, thầy Tự và một tù nhân khác, ông năm Quỳnh được vua Minh Mạng phê như sau: "Tuy không phải là đạo trưởng, nhưng hai kẻ này là mù quáng cố chấp không kém, nên cũng thuộc vào số những kẻ đáng cho trẫm ghét bỏ. Do đó cả hai đều kết án xử giảo (xiết cổ cho chết), nhưng chưa xử ngay".
Theo thừa sai Miche Mịch, nhà vua trì hoãn việc xử vì muốn chờ ông Quỳnh, một người có uy tín lớn, nản lòng bỏ đạo. Ba bốn bận các quan gởi sớ vào xin thi hành bản án, nhưng vua Minh mạng viết thư yêu cầu nhẫn nại chờ đợi.
 Lãnh phúc trên mảnh đất thấm máu người cha
Thấm thoát gần hai năm trôi qua, thầy Tự và ông năm Quỳnh vẫn vững vàng giữ trọn niềm tin của mình. Nhiều lần được đưa ra trước công đường và bị tra tấn, cả hai người đều không thay đổi lập trường. Cuối cùng vào tháng 07.1840, nhà vua cho lệnh thi hành bản án. Khoảng 100 binh lính áp giải chứng nhân Chúa Kitô ra pháp trường Đồng Hới. Rất nhiều tín hữu cũng như lương dân đi theo. Đến nơi thầy Tự hỏi cho biết chính xác chỗ trước đây đã xử Đức Cha Cao, rồi vui vẻ quỳ ngay xuống đó để cầu nguyện. Hai người con ông Quỳnh đến chào giã biệt thầy, thầy hứa sẽ cầu nguyện cho họ, và nhắn lời chào giả biệt đến các tín hữu.
Giờ hành quyết đã điểm. Thầy Tự nằm xuống cho lính thòng dây qua cổ. Được lệnh hai người lính cầm hai đầu dây cùng xiết mạnh, đưa thầy giảng Tự 32 tuổi về hưởng phúc với Chúa Kitô, tại chính nơi đầu người cha tinh thần thầy rơi xuống. Ông Quỳnh cũng bị xử giảo (xiết cổ) như vậy. Hôm đó là ngày 10.07.1840.
Gần 60 năm sau, Đức Lêo XIII đã suy tôn thầy giảng Phêrô Nguyễn Khắc Tự lên hàng chân phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Ngày 10/07/1768 – 1840 Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh Trùm Họ Tử Đạo
 Vay mượn để giúp người
"Nếu bà và các con không cho tôi lấy của nhà giúp người, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê, kiếm tiền giúp họ". Đó là một câu nói đầy cương quyết nhưng chân thành của quan vệ uý, cũng là ông lang và là ông trùm : Ông Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh. Câu nói đó cho chúng tôi thấy và hiểu về một cuộc đời 72 năm phục vụ con người để phục vụ Thiên Chúa.
Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh sinh năm 1768 tại làng Mỹ Hương, huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình. Cha là Antôn Nguyễn Hữu Hiệp, mẹ là Mađalêna Lộc. Theo gia phả ông Quỳnh là con cháu đời 15 của đệ nhất Công Thần Nguyễn Trãi (1380-1442). Vì là con thứ năm, nên thường được gọi là Năm Quỳnh.
Thời niên thiếu, cậu xin làm đệ tử Đức Cha Labartette Bình có ý học làm linh mục, nhưng vì hai người anh trai cũng xin đi tu nên gia đình gọi cậu về để nối dõi tông đường. Năm 1800, theo việc cắt cử của làng xã, anh gia nhập đội quân của Nguyễn Ánh, góp phần chiến thắng quân Cảnh Thịnh và được thăng chức Vệ Uý. Đến khi đất nước đã thống nhất (1802), Gia Long lên ngôi, ông thấy đời quân ngũ không thích hợp, liền xin giải ngũ. Trở về quê nhà, ông mua một thửa đất canh tác và buôn bán thêm để sinh sống. Đồng thời ông dành nhiều giờ học thêm nghề thuốc, và dần dần trở thành một lương y nổi tiếng khắp vùng. Nhờ đó kinh tế gia đình ngày càng khá giả hơn.

Gia đình, xã hội và giáo hội
Thế nhưng đối với ông Quỳnh, tài sản khả năng Chúa ban cho là để phục vụ mọi người, nên thay vì thu tích cho bản thân, ông quan tâm phục vụ dân nghèo một cách tận tình. Đối với họ ông chữa bệnh miễn phí, săn sóc và đôi khi còn tặng họ thêm tiền để làm vốn nữa. Khi vợ con lên tiếng kỳ kèo, ông trả lời rằng : "Tôi chưa thấy những ai hay giúp đỡ người nghèo khó mà túng bấn bao giờ. Kinh thánh chẳng dạy chúng ta phải coi họ như chi thể của Chúa đó sao ? Chúa đã cho chúng ta sống tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng". Khi các con khôn lớn, ông nói với chúng : "Cha đã nuôi dưỡng các con từ nhỏ, nay đã lớn khôn, các con sẽ lo tất cả cho gia đình. Cha muốn để dành tiền bán thuốc để chia sẻ với bà con nghèo khổ"
Lòng thương người của ông được biểu hiện rõ rệt hơn khi làng ông gặp thời kỳ dịch tả. Ông bỏ ra cả hàng trăm quan tiền để phát thuốc nuôi dưỡng và chăm sóc các bệnh nhân cách tận tuỵ quên mình. Thế nhưng tinh thần bác ái Kitô giáo đòi ông phải đi xa hơn một bước nữa. Ông vâng lời Đức Cha Labartette Bình phụ trách dạy giáo lý trong hạt. Để phục vụ con người một cách trọn vẹn hơn cả xác lẫn hồn, ông Năm Quỳnh nhận lời phục vụ làng Mỹ Hương giữ chức trùm trưởng.
Trong thời cấm đạo các linh mục tu sĩ phải rút vào bóng tối, vai trò của những người như ông rất cần thiết. Từ nay nhà ông biến thành lớp giáo lý trong hạt, thành nơi tiếp nhận các thừa sai và giáo sĩ. Từ nay ông đứng ra điều khiển tổ chức mọi sinh hoạt kinh nguyện, tang lễ và bác ái trong vùng. Tuổi càng cao, ông càng sắp xếp công việc một cách trọn vẹn và chín chắn hơn, do đó ông càng được mọi người tin phục. Điều đáng lưu tâm là dầu bận rộn với công việc tông đồ, ông vẫn khéo léo chăm sóc dạy dỗ con cái sống Tin Mừng. Cô gái lớn gia nhập dòng mến Thánh Giá, sau làm bà nhất toàn thể dòng mến Thánh Giá giáo phận. Những người con khác cũng theo gương ông: trung kiên với niềm tin, và cùng với ông quên lợi riêng để lo cho công ích.
Hoa quả của đức tin
Năm 1838, vua Minh Mạng ra lệnh truy nã linh mục thừa sai Candalh Kim. Ông Quỳnh thân hành đưa cha lên Kim Sen, một trang trại cũ của tổ tiên mình, và đem theo một số sách vở cũ, ảnh tượng của xứ Mỹ Hương. Thấy ông đi vắng lâu ngày, quan sai lính đến nhà ông khám xét. Họ lôi các đầy tớ ra đánh đập tra khảo, một người sợ quá đã khai ra chỗ ở của chủ. Khi đó quan định bắt luôn bà Quỳnh và hai cô con gái út, một cô 14 tuổi, một cô 10 tuổi đang ở nhà. Quan cưỡng bức ba mẹ con xuất giáo nhưng không ai tuân lệnh. Tức giận quan cho lính đánh vào chân hai đứa bé để ép buộc bước qua Thánh Giá, hai cô vẫn không chịu khuất phục. Đám lính liền xông đến lôi kéo hai chị em bứơc qua. Dĩ nhiên với tuổi nhỏ sức yếu, hai cô bé không thể chống cưỡng lại được, nhưng một mực hai cô bé kêu khóc mình bị ép buộc, chứ lòng luôn luôn tôn kính Thánh Giá. Quan không dấu được sự thán phục tấm lòng son sắt, và đã tha cho cả ba mẹ con.
Tiếp đó quân lính đến vây trại Kim Sen. Sau khi bắt được ông Quỳnh và tịch thâu được một số sách đạo, họ liền áp giải ông về Đồng Hới. Giữa đường ông nhắn tin một người con kín đáo đến gặp và hối lộ cho lính 50 quan tiền để đốt sổ ghi tên những người tín hữu trong xứ.
Tại trại giam Đồng Hới, ông Quỳnh vui mừng vì gặp được linh mục thừa sai Borie Cao, cha Điểm, cha Khoa cùng thầy Tự. Nhiều lần ông cũng bị tra tấn chung với các vị ấy. Nhưng bao giờ ông cũng tuyên xưng: "Thà chết chớ không chối Chúa, dù chỉ trong giây lát". Có lần quan cho lính lôi ông qua Thánh Giá, ôn liền lớn tiếng phản kháng rằng : "Việc này do quan lớn làm, nếu có tội là quan phạm tội, chứ không phải tôi". Câu nói đó làm quan bực mình truyền đóng gông giải ông về ngục. Mấy bữa sau quan hỏi cha Cao tại sao ông Năm lại cứng cổ đến thế. Vị thừa sai trả lời: "Các giáo hữu bước qua Thánh Giá vì họ không hiểu rõ giáo lý và nhát gan, còn ông Năm đã am tường lẽ đạo, lại mạnh mẽ đức tin, quan lớn cưỡng bách mấy cũng vô ích, chẳng có lợi gì đâu". Thất vọng quan gởi án về kinh đô. Đức Cha Cao bị án trảm quyết (chặt đầu), hai cha Điểm, cha Khoa thì bị kết án xử giảo ngay, còn thầy Tự và ông Antôn cũng bị xử giảo nhưng "giam hậu", nghĩa là lệnh xử sẽ ban hành sau.
Thời gian trôi qua quá nhanh thấm thoát ông Quỳnh và Thầy Tự đã giam hai năm tròn. Trong thời gian đó quan sốt ruột gởi sớ về kinh ba bốn lần xin xử tử, nhưng vua Minh Mạng cứ trì hoãn, viết thư khuyên quan quân cứ từ từ kiên nhẫn. Trong một lá thư gởi về hội Thừa Sai, cha Miche Mịch giải thích lý do như sau:
"Ông Antôn quen biết nhiều các quan, lại từng chữa bệnh cho nhiều vị quan nữa. Rất nhiều người biết đến nhân đức và kiến thức của ông nên trọng nể. Do đó, thái độ của ông có tầm ảnh hưởng lớn trong dân. Đối với họ, cướp được con mồi lớn như thế từ tay Đức Giêsu là một chiến thắng lớn lao. Thế nên chẳng lạ gì "hỏa ngục" phải tìm trăm nghìn phương kế để dành lại phần thắng sắp mất".
Phần ông Quỳnh dù đã 72 tuổi, vẫn biểu lộ đức can đảm và nhẫn nại đáng khâm phục. Suốt ngày ông lo đọc kinh cầu nguyện, như mọi giáo hữu ở ngoài, ông giữ chay và yêu thương giúp đỡ mọi người. Nghề lang y của ông vẫn có cơ hội dùng đến, có lần ông chữa cho một viên quan ở Đồng Hới, và nhất là chữa bệnh cho các bạn tù đồng số phận.
Lời trăn trối sau cùng
Thấy thời gian cũng không làm nản lòng ông Quỳnh, vua Minh Mạng chấp thuận cho quan tỉnh Quảng Bình xử giảo ông ngày 10-07-1840.
Bản tường trình cuối cùng của vị quan có nhiệm vụ xét xử các ngài: "Hạ thần Nguyễn Xuân Quang, quan án tỉnh Quảng Bình, thừa hành theo lệnh của Hoàng Thượng xin tấu trình rằng: Vào tháng 09 năm Minh Mệnh thứ 19, quan tổng đốc có giao nộp một bản án nói rằng đã bắt được tên Nguyễn Khắc Tự, đồ đệ của Thừa Sai Cao (Cha Borie), và một người nữa tên là Nguyễn Hữu Năm đã thú nhận tội cất giấu sách đạo. Quan án Phan Trư đã báo cáo như sau: Nguyễn Hữu Năm có tội vì cất giấu sách đạo, không chịu đạp ảnh và cũng không chịu bỏ đạo. Không phải là đạo trưởng nhưng hắn cũng cứng đầu và có tội như đạo trưởng Khoa và Đạo trưởng Ðiểm. Vì thế hắn phải xử án chém đầu. Nhưng án này đã được đổi lại ngày 28-11-1838. Còn về tên Nguyễn Khắc Tự giúp việc cho Thừa Sai Cao, đã không chịu đạp ảnh và thuộc hạng cố chấp và bất trị. Vì vậy thần kết án phải đòn 100 roi và lưu đầy xa ba ngàn dặm, tức là đi Phú Yên, khắc vào má bên trái hai chữ 'Tả Ðạo’ và má bên phải hai chữ 'Phú Yên'. Tờ trình của quan án Phan Trư đã được châu phê như sau: Tên Nguyễn Hữu Năm đã cất giấu sách đạo, còn tên Nguyễn Khắc Tự đã không biết hổ thẹn khi giúp việc cho tên mọi rợ (ám chỉ cha Cố Cao) và cố chấp không đạp ảnh. Hiển nhiên cả hai tên phải xếp vào hạng cố chấp và bất trị. Mặc dù chúng không phải là đạo trưởng, nhưng chúng cũng không kém phần mù quáng và cố chấp, và vì vậy phải liệt chúng vào số những người đáng ghét. Vậy cả hai phải bị xử giảo giam hậu. Cứ thế mà thi hành.
Năm sau tức là Minh Mệnh nguyên niên thứ 20, theo lệnh Hoàng Thượng hạ thần lại đòi hai tên Nguyễn Hữu Năm và Nguyễn Khắc Tự ra trước sảnh đường hai ba lần, khuyên nhủ họ thức tỉnh trở về đường ngay. Nhưng chúng vẫn cố chấp như trước, không chịu đạp ảnh. Thần xin lập tờ báo cáo tâu trình Hoàng Thượng: Quả thật hai tên Kitô này không phải là linh mục nhưng mù quáng và cố chấp thật đáng ghét. Thần nghĩ không còn lý do gì mà phải giam giữ họ trong tù nữa. Ðó là tờ trình của thần, nhưng các thượng quan trong tòa Tam Pháp lại xét rằng hai tên này phải xử giảo ngay. Ðến tháng 10 thần lại nhận được thư của tòa Tam Pháp truyền rằng theo lệnh của Hoàng Thượng phải hoãn lại việc hành quyết và triệu tập hội đồng hàng tỉnh, thúc ép họ trong tòa xem có hối cải không, rồi trình lại tất cả sự việc và chờ lệnh. Theo lệnh vừa nói, thần lại gọi hai tên tín đồ Kitô ra trước tòa, khuyên bảo và ra lệnh đạp ảnh, từ bỏ cố chấp. Chúng vẫn cương quyết không tuân lệnh. Chứng tỏ chúng vẫn chìm đắm trong u mê mù quáng. Vì vậy thần lập tờ trình này để trông thánh chỉ của Hoàng Thượng".
Lệnh cuối cùng của Vua Minh Mệnh: "Chúng tôi, Võ Xuân Cẩn, Bùi Ngọc Quí và Ðinh Văn Huy, vâng theo lệnh Hoàng Thượng, đã xét tờ trình của quan vào ngày 21-5. Chúng tôi truyền lệnh như sau: Tên Nguyễn Hữu Năm và Nguyễn Khắc Tự theo tà đạo, tội đáng chết. Nhưng vì chúng thuộc hạng lê dân ngu dốt và vì lòng nhân từ của Hoàng Thượng không muốn đối xử cay nghiệt nên đã không ngừng ra lệnh cho các quan phải khuyên nhủ chúng sửa đổi để được ơn khoan hồng. Thế nhưng hai tên tội phạm vẫn ngụp lặn trong u mê mù quáng và cố chấp không chịu đạp ảnh. Vì vậy chúng đã tự chuốc lấy án chết. Vậy hai tội phạm phải bị xử giảo không trì hoãn nữa để cái chết của chúng răn bảo những kẻ còn cố chấp không biết tự cải hóạ Cứ thế mà thi hành".
Khoảng 100 binh lính dẫn ông ra pháp trường chung với thầy Tự. Đến nơi hai vị hỏi chỗ xử Đức Cha Cao và hai cha Khoa và cha Điểm năm trước, rồi dừng lại đúng chỗ đó mà cầu nguyện : "Lạy Chúa xin tạ ơn Chúa cho con được ân phúc như các ngài…" Nguyện cầu xong, ngồi xuống, ông Quỳnh bình tĩnh chậm rãi hút hết điếu thuốc được quan trao cho.
Hai người con đến từ giã ông, ông nhắc họ qua giã biệt thầy Tự, xin thầy về bên Chúa nhớ khẩn cầu cho các con. Thế rồi ông nói những lời sau cùng : "Cha gởi lời chào các chức sắc và anh em giáo hữu Mỹ Hương. Cầu chúc mọi người bình an, trung thành giữ đạo. Hãy yêu thương nhau và sống đạo đức, các con sẽ gặp lại cha trên Thiên Đường"
Nói xong ông nằm xuống trên chiếu trải sẵn, ông quỳnh giang tay ra nói : "Xưa Chúa cũng chịu giang tay như thế này để chịu đóng đinh". Quân lính tròng dây qua cổ và giữa tiếng thanh la vang rền. Họ mạnh tay xiết chặt hai đầu dây, đưa người tôi trung của Đức Kitô về hưởng hạnh phúc trường sinh.
Đức Lêo XIII suy tôn ông Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh lên bậc chân phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Ngày nay mọi người vẫn còn cảm kích với hai câu thơ khắc trên bia mộ ông Quỳnh ở xứ Kim Sen, nơi thi hài ông được an táng với tổ tiên dòng họ :
"Nghĩa khí nêu cao trên đất nước,
Oai linh phù hộ khắp non sông"


1 nhận xét: