Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2014

Thứ Hai Tuần XV Thường Niên



Lời Chúa: Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.
“ Ha-lê-lui-a. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Ha-lê-lui-a.”
Ta chẳng trách cứ về hy lễ toàn thiêu
Nhưng ngươi lại ghét điều Ta sửa dạy
Lời Ta truyền ngươi dứt bỏ sau lưng
Ngươi làm thế chẳng lẻ Ta thinh lặng

Ai sống đời hoàn hảo Ta cho hưởng ơn cứu độ Chúa Trời.

Ngày 14/07 – Chân phước Kateri Tekakwitha (1656-1680)
     Chín năm sau khi các tu sĩ Dòng Tên là Isaac Jogues và John de Brébeuf bị Huron và Iroquois Indians tra tấn tới chết, một bé gái tênKateri Tekakwitha sinh ra tại Auriesville, New York, gần nơi hai vị tử đạo kia. Kateri Tekakwitha là chân phước đầu tiên của Bắc Phi.
     Mẹ ngài theo Kitô giáo, bị Iroquois bắt và cống làm vợ của trưởng tộc Mohawk, một con người trơ tráo nhất và hung dữ nhất trong Ngũ quốc (Five Nations, 5 nước). Tekakwitha là con thứ tư, cha mẹ và em trai mất vì bị bệnh đậu mùa. Dịch bệnh này còn khiến mặt bà biến dạng và gần bị lòa mắt. Bà được người chú bác nuôi dưỡng. Người chú bác này thay cha bà làm trưởng tộc, ông ghét sự xuất hiện của những “người áo chùng đen” (blackrobes, tức là các nhà truyền giáo), nhưng ông không thể làm gì vì hiệp ước hòa bình đã ký với Pháp quốc buộc cho các nhà truyền giáo có mặt ở các làng mạc có người Công giáo bị bắt giữ. Bà được đánh động bởi lời của 3 nhà truyền giáo ở với người chú bác của bà, như bà sợ người chú bác ngăn cấm. Bà cương quyết không chịu kết hôn với Mohawk, và lúc 19 tuổi, bà can đảm gia nhập Công giáo. Bà được rửa tội vào lễ Phục sinh với tên thánh là Kateri (Catarina).
     Bà bị coi như nô lệ. Vì không chịu làm việc ngày Chúa nhật nên hôm đó bà không được nhận khẩu phần ăn. Bà tiến bộ nhanh trên đường nhân đức. Bà nói với một nhà truyền giáo rằng bà thường suy niệm về chân giá trị của người được rửa tội. Bà được đánh động bởi tình yêu Thiên Chúa đối với con người và thấy được nhân phẩm của người khác. Bà luôn gặp nguy hiểm vì bà gia nhập đạo, và đời sống thánh thiện của bà khiến nhiều người chống đối. Nhờ lời khuyên của một linh mục, bà trốn đi và phải đi bộ suốt 200 dặm (1 dặm là 1,6 km) để đến một làng Công giáo của người Ấn Độ ở St. Louis, gần Montreal.
     Trong vòng 3 năm, bà tiến bộ trên đường nhân đức theo sự linh hướng của một linh mục và một phụ nữ lớn tuổi người Iroquois, hoàn toàn tận hiến cho Chúa trong những giờ cầu nguyện lâu, trong việc bác ái và chuyên cần ăn năn đền tội. Lúc 23 tuổi, bà khấn giữ mình đồng trinh, một hành động chưa từng thấy đối với phụ nữ Ấn độ. Bà thường vô rừng cầu nguyện mỗi ngày một giờ, thế nên bà bị người ta cho là bí mật đi hẹn trai!
     Bà qua đời vào chiều thứ Tư Tuần Thánh. Các nhân chứng nói rằng khuôn mặt hốc hác của bà bỗng biến sắc và nhìn như người khỏe mạnh. Những vết nhăn và cả những vết rỗ (do đậu mùa) đều biến mất và miệng bà tươi cười. Bà được CP GH Gioan-Phaolô II tôn phong chân phước năm 1980.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét