Thứ Bảy, 14 tháng 2, 2015

Chúa Nhật VI Thường Niên Năm B



Lời Chúa: Chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.

         Khi ấy, có người mắc bệnh phong đến gặp Đức Giê-su, anh ta quỳ xuống van xin rằng : “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Đức Giê-su chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo : “Tôi muốn, anh hãy được sạch !” Lập tức, bệnh phong biến khỏi anh, và anh được sạch. Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh : “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế ; và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” Nhưng vừa đi khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền và loan tin ấy khắp nơi, đến nỗi Đức Giê-su không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.


SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
        Bài Tin Mừng hôm nay đề cập tới việc Chúa Giêsu chữa lành một người mắc bệnh phong cùi, xã hội Do-thái hồi đó liệt những người mắc bệnh cùi vào hạng người tội lỗi, cùi là hậu quả của tội. Người mắc bệnh cùi bị đẩy ra khỏi vòng pháp luật, bị tách riêng ra khỏi xã hội bình thường. Họ bị tách biệt khỏi cộng đồng xã hội về đời sống và tôn giáo. Thánh Mác-cô diễn tả một cách rất hợp lý về việc Chúa Giêsu chữa lành một người mắc bệnh phong cùi, người mắc bệnh hiểm nghèo này đã đi bước trước, anh đã đến với Chúa Giêsu, van xin Ngài chữa lành bệnh cho anh. Van xin có nghĩa là anh kêu cầu tha thiết, xin Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật cho mình, để anh được khỏi bệnh và được gia nhập trở lại với cộng đồng xã hội và tôn giáo.
        Trong những ngày này, chúng ta chuẩn bị đón mùa xuân mới Ất Mùi đến, mùa xuân gợi lại sự ấm áp tình yêu thương của các gia đình và các đoàn thể. Tuy vậy, nếu có những người vui niềm vui sum họp gia đình, thì vẫn còn những người đang tìm một mái ấm hoặc đang khao khát tình thương. Qua việc Chúa chữa người phong cùi, chúng ta đã đọc bài Tin Mừng hôm nay. Là chúng ta phải quan tâm chia sẻ tinh thần vật chất đối với những người bất hạnh. Xuân đến, có nhiều người không có tết vì quá nghèo hoặc bị bỏ rơi, những cử chỉ bác ái khi tết đến xuân về, là một trong những nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt, nhất là khi những chia sẻ ấy được thực hiện trong tinh thần bác ái Kitô giáo. Xin cho chúng ta mạnh dạn đến với Chúa và quảng đại đối với tha nhân, để chúng ta hưởng trọn vẹn niềm vui mà mùa xuân đem đến cho mọi người chúng ta, trong tinh thần: “ Mến Chúa yêu người”.
        Xin Chúa cho chúng con sự thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa, để chúng con thực hành các công việc thường ngày là giúp đỡ những người chung quanh chúng con, nhất là những người bất hạnh và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để chúng con cũng giống nên như Mẹ Maria, để chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh từ sự phục sinh của Chúa. Và làm chứng cho những người khác rằng: Chúa vẫn đang sống hiện hữu giữa cộng đoàn chúng ta.  Amen.


Ngày 15/02 – Thánh Claude la Colombière, Linh mục (1641-1682)
Đây là ngày đặc biệt của Dòng Tên (Society of Jesus), ngày kính một trong các thánh riêng của Dòng. Đây cũng là ngày đặc biệt đối với những người có lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu mà thánh Claude la Colombière truyền bá, cùng với người bạn tâm linh là thánh Margaret Maria Alacoque.
Ngài sinh ngày 2-2-1641 tại St. Symphorien d'Ozon ở Dauphine, là con thứ ba trong một gia đình quý tộc, cha là Bertrand La Colombière và mẹ là Margaret Coindat. Rồi gia đình chuyển đến Vienne, tại đây ngài được đi học. Sau đó ngài được học hùng biện và triết học ở Lyon. Lúc 17 tuổi, ngài là tập sinh Dòng Tên tại Avignon. Ngài khấn lần đầu năm 1660. Học xong triết học, ngài dạy văn phạm và văn chương 5 năm. Năm 1666, ngài học thần học tại Paris. Rồi ngài dạy cho các con của vua Louis XIV, và ngài vừa giảng phòng vừa làm tuyên úy cho vài hội dòng Đức Mẹ Maria.
Sự nhấn mạnh vào Tình Yêu Chúa là “thuốc giải độc” đối với sự tuân thủ luân lý nghiêm ngặt của phái Gian-xen (*) phổ biến vào thời đó. Thánh nhân có tài diễn thuyết từ trước khi thụ phong linh mục ngày 2-2-1675. Hai tháng sau, ngài được bầu làm bề trên một tu viện ở Burgundy. Ở đó ngài đã gặp thánh Margaret Maria Alacoque. Nhiều năm sau ngài là linh mục giải tội cho thánh nữ. Rồi ngài được sai tới Anh làm linh mục giải tội cho nữ công tước York. Ngài rao giảng vừa bằng lời nói vừa bằng gương sống thánh thiện, và ngài đã khiến nhiều người Tin Lành trở lại đạo Công giáo.
Cuối năm 1678, ngài bị bắt vì bị vu khống có dính líu nhóm Titus Oates – nhóm mưu đồ theo chủ nghĩa giáo hoàng (papist plot). Hai ngày sau, ngài bị đưa tới khám King's Bench Prison theo lệnh Hoàng gia Anh, cảnh tù khắc nghiệt khiến sức khỏe ngài giảm sút, dù chỉ 3 tuần, trước khi bị trục xuất về Pháp. Mùa hè năm 1681, ngài trở lại Paray trong tình trạng yếu sức. Ngày 15-2-1682, Chúa nhật I mùa Chay, ngài bị xuất huyết nặng và qua đời.
Ngày 16-6-1929, ngài được ĐGH Piô XI phong chân phước. Năm 1992, ngài được ĐGH Gioan-Phaolô II phong hiển thánh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét