Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014

Ngày 01-11-1800-1861 Thánh Jeronimô Hermosilla Vọng (Liêm) Giám mục dòng Đaminh Tử đạo



* Cột trụ giáo hội Việt Nam.
Thánh Hermosilla Liêm là một trong ba vị thừa sai lỗi lạc và can đảm nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam, sánh bước với Đức cha Cuénot Thể (1835-61 giáo phận Đàng Trong) và đức cha Retord Liêu (1940-58, giáo phận Đàng Ngoài), ba cột trụ chống đỡ giáo hội Việt Nam trong những giai đoạn khó khăn thời bách hại. Riêng Thánh Giám mục Liêm luôn luôn đứng đầu sổ truy nã của ba triều vua và các Tổng đốc Nam Định, đã khéo léo khi ẩn khi hiện, hoàn thành trách nhiệm một cách tuyệt vời.
33 năm thừa sai không một ngày yên ổn. 20 năm Giám mục chứng kiến bao cảnh tang thương, nhưng chính ngài đã chủ phong cho bốn Giám mục (Đức cha Jimenô Lâm, Marti Gia, Alcazar Hy và Sanjurjo An), và truyền chức cho nhiều linh mục bản xứ, đã điều khiển giáo phận Đông Đàng Ngoài phát triển vững chắc, đủ khả năng tách làm hai, và khi gục ngã dưới lưỡi gươm của lý hình thì theo sử gia Rodriguez: Ngón tay phải ngài vẫn chỉ lối cho nhân loại hướng đến một vì sao.
* Thỏa niềm ước mong.
Thánh Jeronimô Hermosilla sinh ngày 30.9.1800 tại Santo Domingo de la Calzada trong một gia đình tuy nghèo nhưng đạo đức (nước Tây Ban Nha). Từ nhỏ, cậu được theo học với các cha dòng Biển Đức và có ý định xin vào dòng này năm 15 tuổi. thời đó, nước Tây Ban Nha đang chịu sự thống trị của Napoléon I, các dòng tu không được nhận người. Hermosilla được giới thiệu qua học tại chủng viện giáo phận Valencia do các cha dòng Đaminh điều hành. Duyên kỳ ngộ này đã đưa cậu đến dòng Thuyết Giáo và lãnh tu phục năm 19 tuổi.
Năm sau (1820), nước Tây Ban Nha có loạn, một số tu viện phải giải tán, tài sản giáo Hội bị xung công, các giáo sĩ không tuyên thệ trung thành với hiến pháp mới đều bị bắt giam, bị lưu đầy hoặc bị giết. Hermosilla đành phải rời nhà Dòng, đăng ký vào quân đội cho đến năm 1823. Khi vua Fernando khôi phục lại quyền bính, cậu xin vào nhà tập và khấn dòng ngày 29.10.1823. Ba năm quân ngũ đã mãi mãi lưu lại với vị tu sĩ này tính xông pha, lòng gan dạ, và đức kiên nhẫn.
Năm 1824 khi đọc thư kêu mời của tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi Manila, thày Hermosilla và 11 người khác liền tình nguyện đi truyền giáo ở Viễn Đông. Sau sáu tháng lênh đênh trên biển, ngày 02.03 năm sau, 12 tu sĩ này đã đến Manila quỳ phục dưới chân cha Giám Tỉnh và thưa : "Này con đây xin hãy sai con". Quả là niềm vui lớn lao của tỉnh dòng, vì 20 năm qua, tỉnh dòng chỉ nhận được 27 người, bên cạnh con số 86 vị đã qua đời vì tuổi già. Năm 1826, thày Hermosilla lãnh chức linh mục và làm giám đốc Hội Mân Côi
Năm 1828, cha tình nguyện đến Việt Nam cùng với ba thừa sai Pháp, khởi hành từ Macao đến Bắc Việt ngày 02.05.1929, 9 giờ tối, cha tới trụ cha chính Amandi Chiêu và sáng hôm sau cha tới trình diện Đức cha Delgado Y.
Tả sao cho xiết niềm vui của vị Giám mục. Cả giáo phận Đông Đàng Ngoài chỉ có ba vị thừa sai, gồm hai Đức cha Y và Hernares Minh, cha chính hiền, nhưng cả ba vị đều già và bệnh tật. Vừa thấy vị thừa sai mới, Đức cha đã chạy ra và vui sướng : "Vọng! Vọng! Ước Vọng!". Và từ đó, Vọng trở thành tên gọi chính thức của cha Hermosilla.
Sau vài tháng miệt mài họctiếng Việt, cha Vọng đã không phụ lòng mong đợi của các bậc đàn anh. Cha hòa mình rất nhanh với các tín hữu cũng như người ngoại giáo, tất cả là hy sinh và yêu thương. Không hề mệt mỏi, vị thừa sai 30 tuổi không ngừng di chuyển thăm viếng các họ đạo, giảng dạy, rửa tội, và giải tội. Nỗi buồn duy nhất của cha là việc nhiều quá mà làm không xuể. Cha liền viết thư xin bề trên gởi thêm những tu sĩ trẻ, khỏe mạnh và hăng hái khác.
* Danh "Trùm Vọng" thời vua Minh Mạng.
11 năm thừa sai đầu tiên, cha Vọng là linh hồn các hoạt động truyền giáo của dòngh Đaminh trong giáo phận : Bốn năm phụ tá cha chính Amandi Chiêu, ba năm bề trên dòng, một năm phụ tá cha chính Hiền, rồi thay thế ngài từ năm 1838. Nhưng thực tế, những khi làm phụ tá, vì cha chính già yếu, mọi công việc đều do cha Vọng điều hành. Cha đã nâng số linh mục bản xứ lên đến 40, đủ sức đương đầu với cơn bách hại sắp tới.
Bão tố đã thực sự bừng lên trên giáo phận Đông đàng Ngoài từ năm 1838, khởi từ sau lá thư gửi cho bốn thừa sai và hai linh mục Việt Nam của cha Viên bị phát hiện. Hai Giám mục và cha Chính chịu tử đạo, nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân đổ máu vì đức tin. Cũng vì một trong sáu lá thư gửi cho cha Vọng, nên"danh trùm Vọng" được ghi vào đầu sổ bộ truy lùng của vua Minh Mạng và quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Chiếu chỉ ngày 18.01.1839 dành một đoạn nói về cha : "Hãy còn danh trùm Vọng chưa bắt được, dù quan truyền, dù thứ dân, chẳng kỳ ai, hễ bắt được sẽ lãnh thưởng mười ngàn quan tiền…"
Để giúp dân dễ nhận diện, vô tình vua Minh Mạng lại cho chúng ta biết đôi điều về chân dung vị thừa sai này : "Người cao lớn, mũi dài, râu rậm, cặp mắt tinh anh và hơi xám, nước da trắng trẻo, khuôn mặt phương phi…" Đúng là chân dung của một con người nghị lực không bao giờ chịu lùi bước. Quả thực, trong giai đọan này tuy rất thận trọng, cha Vọng vẫn đi khắp nơi an ủi người này, khích lệ kẻ kia, và trao ban các bí tích như coi thường cơn giận dữ của "Hỏa ngục". Dĩ nhiên là không phải không có những giây phút hồi hộp, khi thì suýt bị bắt với Đức cha Y khi bị cắm đầu cắm cổ vượt vòng vây chạy trốn. Có những lần, một mình đi giữa đêm tối trên những đoạn đường quanh co xa lạ.
* Thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
Chúa gìn giữ cha Vọng trong nhiều trường hợp kỳ lạ. Lần kia, tại xứ Liễu Dinh, một người lính đã thấy cha trong phòng, liền gọi đồng đội ra tiếp sức. Đến khi họ vào, cha ngồi sau màn cầu nguyện : "Xin cho ý Chúa được thể hiện …" Thế mà lính không thấy gì cả, cho đến khi họ nhìn thấy một cụ già có râu ngoài sân, liền nhào ra bắt nhầm, và cha có thời giờ chạy trốn thoát.
Lần khác, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dẫn 800 lính với hàng chục chiếc thuyền bao vây làng cha đang ẩn trốn, bỗng trời nổi dông bão, thế là quan quân hoàn toàn thất bại : hai thuyền bị đắm và nhiều chiếc bị trôi dạt kéo theo ba sĩ quan và các lính thủy.
Vào cuối thời vua Minh Mạng, giáo phận chịu thiệt hại đáng kể. Trên 1.000 nhà thờ bị rỡ xuống, có nơi phải nộp gỗ ván cho quan tỉnh. Các chủng viện, 40 nhà chung, 60 họ đạo, 22 nhà phước Đaminh, 3 nhà phước Mến Thánh Giá, đều bị triệt hạ và giải tán mỗi người mỗi nơi, giáo dân thì bơ vơ, hai Giám mục và cha chính chịu tử đạo, mọi gánh nặng đổ trên vai cha Vọng. Tuy nhiên, với sự cộng tác của hai thừa sai, 37 cha dòng Việt và một số linh mục triều, năm 1840, giáo phận đã rửa tội thêm 143 người lớn, hơn 1.000 trẻ em, giải tội 118.000 người và chứng hôn 1.630 đôi.
* Thời gian này có hai mẩu chuyện về cha Vọng.
Thứ nhất về lá thư cha báo cáo về tình hình Bắc Việt cho Bề trên tỉnh về sự kiên cường của các vị tử đạo và "sức sống ngầm" của Giáo Hội Việt Nam trong những năm giông tố. Lá thư đã làm cho cả tỉnh dòng vui mừng. Tại nhà thờ thánh Đaminh ở Manila, cộng đoàn tu sĩ đã sốt sắng hát kinh "Te Deum" và cử hành một lễ tạ ơn. Lá thư này được phổ biến khắp nơi, làm cả thế giới ngạc nhiên và khâm phục. Đức Grêgoriô XIV viết cho Giáo Hội Việt Nam một lá thư mục vụ khích lệ, ngài họp hội đồng cơ mật trù liệu việc phong thánh cho các vị tử đạo Việt Nam.
Chuyện thứ hai là chuyện thừa sai Marti Gia đã đến Yên Trì được gần một năm mà không có cách nào trình diện để tuyên thệ theo luật bấy giờ (sắc Ex Quo). Lúc ấy, cha Vọng đang làm Bề trên phải bỏ chỗ ẩn an toàn để đến gặp người bề dưới tiến hành việc tuyên thệ này, cũng như đưa ra những lời khuyên thực tiễn.
Dưới thời vua Thiệu Trị, cuộc bách hại tuy lắng dịu, nhưng vẫn còn xảy ra ở một vài nơi. Tòa thánh đặt cha Vọng làm Đại diện Tông tòa thay thế hai Đức cha Y và Minh đã tử đạo. Theo dự định, lễ tấn phong cử hành vào ngày 14.4.1841 tại Vĩnh Trị, Phúc Nhạc, nơi Đức cha Retordd Liêu ẩn trú. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh được mật báo đem quân bao vây bắt lầm được hai vị thừa sai Pháp là Berneux Nhân và Galy Lý. Trên đường áp giải về dinh, dân chúng kháo với nhau: "Kìa ! Đó là danh Trùm vọng !". Tổng đốc Trịnh Quang Khanh cũng không giấu được vui mừng cho đến khi biết mình đã lầm, liền tức giận, cho đóng cũi, tra tấn dã man và lột trần cả hai vị, trói ngoài công đường cho mọi người sỉ nhục. Về sau nhờ áp lực của quân Pháp, nhà vua cho lệnh tha hai vị về (1843) (xem thêm hạnh bà Thánh Annê Đê).
Hai ngày sau, cha Vọng mới khởi hành từ Hải Dương đến Vĩnh Trị. Vì đã biết vụ hai vị thừa sai bị bắt, cha nhờ giáo hữu dẫn đi đường khác. Tất cả chỉ có thể đi vào ban đêm, băng rừng, lội suối, có khi đi thuyền nhưng thường là đi bộ, còn ban ngày thì ẩn nấp trong bụi cây, ngoài đồng lúc hoặc bụi tre. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh đã cho đặt các tram canh khắp nơi. Đặc biệt có một trạm canh rất cẩn mật, cha phải hối lộ cho viên phó tổng, và theo kế hoạch của ông ta để lọt được qua trạm. Đêm ấy, theo lời chỉ dẫn, cha mặc áo cộc, quần nâu xắn lên tới dầu gối, lấy bùn xoa đen hết mặt mũi chân tay, buộc túm râu tóc lại, đầu đội nón lá… rồi nắm đuôi ngựa của viên phó tổng đang cưỡi, chạy lăng xăng theo sau, như tên đầy tớ để qua trạm.
* Vị Giám mục khôn ngoan.
Đến Vĩnh Trị, cha Vọng tìm đến tòa Giám mục của Đức cha Liêu. Đó là một cái chòi có lối chạy xuống hầm để đề phòng mỗi khi quan quân bất ưng đến thăm. Tại đây, ngày 25.04, cha được tấn phong. Đức tân Giám mục tìm đường trở về giáo phận và đổi tên là Liêm, thay cho danh trùm Vọng vẫn được treo giá cả vạn quan. Ít lâu sau, Tổng đốc cũng ngã bệnh và qua đời.
Lợi dụng tình hình lắng dịu, Đức cha Liêm hoạt động không ngừng. Ngày 26.6, ngài tấn phong Giám mục cho cha Jimenô Lâm làm phụ tá. Sau lễ, ngài tập họp các linh mục để lập chương trình truyền giáo trong hoàn cảnh mới. Từ đó cả giáo phận bừng lên sức sống mới. Các nhà thờ, nhà xứ được tái thiết, các nữ tu viện, nhà Đức Chúa Trời được tu sửa. Giáo hữu góp tiền chuộc các anh em khác còn bị giam giữ. Trường Latinh được xây dựng lại tại Nam An (Hải Dương), sau dời về Lục Thủy. Trường Thần học được thiết lập ở Mỹ Động, Hải Dương. Đức cha khuyên giáo dân đặc biệt tin tưởng, cậy trông vào Đức Mẹ, siêng năng đọc kinh Mân Côi và kêu cầu nữ Thánh Philomêna tử đạo. Sau này, ngài chọn thánh nữ làm bổn mạng giáo phận và xin phép tòa Thánh mừng lễ hàng năm (1).
Nhờ sự cộng tác của nhiều tân linh mục trong giáo phận và nhiều thừa sai mới được gửi tới, tình hình giáo phận Đông phục hồi rất nhanh. Việc trao ban bí tích được gia tăng thêm mỗi năm. Chỉ cần cẩn thận đôi chút, các Giám mục có thể đi ban Bí Tích Thêm sức nhiều nơi.
Năm 1844, ngài mở lễ kính thánh Tổ phụ Đaminh rất trọng thể. Các linh mục tu sĩ, giáo dân thay nhau về thánh đường Nam Am suốt tám ngày liền. Họ gặp nhau chia sẻ tin tức, kinh nghiệm sống đạo của mình. Thánh lễ đại trào duy nhất của Đức cha Liêm, sau này sẽ trở thành tập tục "Lễ Đầu Dòng" trong giáo phận. Số tân tòng ngày càng gia tăng. Ngày 22.08.1844 tại Đông Xuyên, Đức cha rửa tội cho 44 người lớn, trong đó có một Chánh tổng, một Phó tổng, tám lý trưởng, một thày cúng.
Sự phát triển ngày càng phấn khởi hơn. Năm 1848, khi số tín hữu lên tới 184.000, Đức cha xin tòa Thánh chấp thuận chia giáo phận thành hai : Giáo phận Trung (nay là Bùi Chu, Thái Bình) được trao cho Đức cha Marti Gia, còn Đức cha Liêm giữ lại phần đất đông dân cư (trên mười triệu), mà ít tín hữu (chỉ 0,4 phần trăm). Từ đó hai giáo phận ngày càng phát triển vững mạnh hơn, mặc dù vua Tự Đức bắt dầu bách hại đạo. Năm 1852, giáo phận của Đức cha Liêm rửa tội được 388 người lớn, 2.824 trẻ em, trong đó đa số là trẻ em ngoại.
Mười năm cuối đời của Đức cha Liêm là những năm đầy vất vả và gian lao. Vua Tự Đức ra thêm chiếu chỉ cấm đạo. Năm 1855, khi qua giáo phận Trung, hai thày giảng tháp tùng Đức cha Liêm bị cướp bắt, Đức cha phải năn nỉ cả ngày họ mới chịu tha. Năm sau, chính Đức cha bị bắt, khi ngài đi kinh lý xứ Hữu Bàng, phải chuộc mất 300 quan. Năm 1858, trước tình hình bách hại gay gắt, sợ sẽ không còn ai sống sót, Đức cha họp và quyết định chia một nửa số thừa sai về Macao, chờ ngày thuận tiện hơn sẽ trở lại giáo phận hoạt động. Ngài chỉ giữ lại 5 thừa sai Đaminh cho cả giáo phận. Năm 1859, một lần nữa, Đức cha phải đổi tên là Tuấn, để lhỏi bị lộ cho tới ngày chiếu chỉ phân sáp ra đời.
* Nỗi đau của vị chủ chăn.
Tả sao cho hết nỗi đau của vị chủ chăn dòng Thuyết Giáo. Hai cuộc tử đạo của hai Đức cha An và Xuyên, biết bao hung tin mỗi ngày : các thánh đường bị phá hủy, nhiều linh mục và thày giảng bị ngã gục. Giờ đây chiếu chỉ phân sáp lại nhắm đến giáo dân. Ý thức bổn phận chủ chăn, ngài liền viết thư luân lưu cho khắp giáo phận, kêu gọi mọi người thống hối, để Chúa mở tay ban phát mọi sự lành, kêu gọi tín hữu tin vào Chúa phòng, vì "lá cây nhỏ mọn mặc lòng, nếu Chúa chẳng cho động, nó chẳng động được đâu", khích lệ mọi người can đảm xưng đạo cho vững vàng, năng suy niệm cuộc thương khó mà Chúa đã chịu vì nhân loại hầu được thêm can đảm.
Đêm thu 14.08 năm tân Dậu (18.09.1861), trong khung cảnh tĩnh mịch của đêm trăng rực sáng, Đức cha Liêm ngước mắt nhìn cảnh vật mà lòng xúc động trào dâng. Ngài nghĩ đến số phận đàn chiên đang bơ vơ thiếu chủ chăn, những gia đình tín hữu bị phân tán, vợ một nơi chồng một nẻo, con cái phải xa cha mẹ… Nhưng nỗi khổ tâm nhất của ngài là cũng đêm đó, chủng viện Kẻ Mốt phải giải tán, những mầm non của giáo hội thiếu điều kiện phát triển. Cha Khoa thay mặt ngài, giờ đây đang nói với chủng sinh những lời cuối cùng xiết bao xúc động :
"Từ trước tới nay Đức cha cố giữ anh em ở đây, và lo liệu cho anh em học hành … Bây giờ Đức cha buộc lòng phải giải tán nhà trường. nếu Chúa để chúng ta còn sống thì rồi đây có ngày Đức cha sẽ gọi anh em trở lại. Đức cha nhắn lời chúc lành và dặn dò anh em sống sao cho tốt, trông cậy vào Chúa là cha nhân lành và đừng quên cầu nguyện cho ngài, cho giáo phận và cho cả giáo hội Việt Nam. Anh em hãy thu xếp đi ngay trong đêm nay, khỏi cần bái chào Đức cha, kẻo ngài không cầm được nước mắt…"
Cũng đêm đó, Đức cha Liêm phải rời làng Kẻ Mốt đến trú ẩn ở Thọ Đức. 33 năm hoạt động trên quê hương Việt Nam đã chất chứa những gánh nặng trên vai ngài. Giờ đây sức khỏe ngài đã giảm sút, râu tóc đã bạc phơ chỉ duy đôi mắt vẫn giữ được vẻ tinh anh. Cảm thương thay vị cha già bước từng bước mệt nhọc trên quãng đường trơn trượt như trèo lên đỉnh núi Sọ. Ngày mai sẽ ra sao ? Không địa sở, không nơi ẩn náu, chỉ còn chờ cái ngày cũng chẳng xa, rơi vào tay những kẻ đang truy nã.
Cùng đi với Đức cha có thầy giảng Giuse Khang. Hai cha con trọ ở Thọ Đức được ba tuần thì bị lộ. Lại phải xuống thuyền qua thị xã Hải Dương và tá túc trên thuyền của một giáo hữu, gia đình ông Trương Bính. Được vài ngày, hai vị tình cờ gặp Đức cha Valentino Vinh và cha Almato Bình dọc theo đường thủy từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc hội ngộ đặc biệt, các vị trao đổi, khích lệ nhau thêm can đảm và tạ ơn Chúa vì dịp may hiếm có này. Sau đó, các vị chia tay nhau mỗi người một nẻo.

Dưới sự tận tình che giấu của ông Trương Bính, Đức cha và thày giảng Khang được ít ngày bằng yên cho đến hôm xảy ra cuộc cãi vả giữa cha con ông Trương Bính, người con trai vì tức giận cha mẹ, đã đi tố cáo ông bà về tội chứa chấp Tây Dương đạo trưởng. Đội Bằng lúc đó làm Chánh tổng liền đem gia nhân đến bắt Đức cha vào ngày 20.10.1861. Khi bị bắt, Đức cha đưa cho đội Bằng một số tiền và nói : "Xin bắt và giam giữ một mình tôi thôi. Hãy để những người đánh cá nghèo nàn này đi". Khi thày Khang nhổ cây sào thuyền định chống cự thì Đức cha cản lại rằng : "Đừng chống trả làm gì, hãy phó mặc cho Thánh ý Chúa". Thế là cả hai bị bắt trói và đưa về Hải Dương.


* Đồng hành về trời.
Sau khi lấy khẩu cung, Đức cha bị giam trong chiếc cũi chật hẹp, nằm không nổi, ứung cũng chẳng được, cứ phải khom lưng suốt ngày, chân tay rã rời. Dầu vậy, ngài vẫn tìm cách giảng đạo cho các bạn tù, rà rửa tội cho con trai viên đội Bái, cậu cũng bị xử tử với Đức cha.
Chiều ngày 26.10, sau khi bắt được Đức cha Vinh và cha Bình, quân lính hò reo ầm ĩ, Đức cha đang thiếp ngủ bừng tỉnh dậy. Ba chiến sĩ đức tin trong ba chiếc cũi ngậm ngùi nhìn nhau, nhưng lòng đầy hân hoan, vì thấy được đòan tụ bên nhau trong những ngày cuối cùng.
Ngày xử được ấn định là 01.11.1861. Ba chiếc cũi được khiêng đi sau đội quân 500 người. Đức cha Liêm cũi cuối cùng, trang nghiêm như ngày đại lễ, thỉnh thoảng ngài giơ tay ban phép lành cho các giáo hữu đứng hai bên đường.
Tại pháp trường Năm Mẫu, ba vị được đưa ra khỏi cũi, cùng cầu nguyện ít phút, rồi đưa tay cho lý hình trói vào ba cọc. Bản án được đọc lên. ba hồi chiêng trống, ba lưỡi gươm vung lên một lúc, chém rơi đầu ba vị anh hùng. Khi các quan ra về, dân chúng dù lương hay giáo,tranh nhau thấm máu tử đạo. Ba thi hài được bọc trong ba chiếc khăn và chôn tại chỗ. Thủ cấp các ngài được treo ở bến đò Hàn ba ngày (nhưng sau đó giáo dân đánh tráo bỏ vào đó ba củ chuối) rồi đưa về Yên Dật, và sau lại đưa về an táng tại Thọ Ninh một thời gian, cuối cùng, đi dời về đền Các Thánh Tử Đạo Hải Dương.
Đức Piô X suy tôn Đức cha Jeronimô Hermosilla Liêm lên bậc Chân Phước ngày 20.05.1906. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Đức cha đã nằm xuống, nhưng chân lý ngài đã truyền giảng, phong thái và nhiệt tâm của ngài vẫn sống mãi trong các tín hữu và hàng giáo sĩ của giáo phận. Tất cả sẽ nắm tay nhau theo dấu chân vị cha chung để tiếp tục làm chứng cho đức tin.

Ngày 01-11-1827-1861 Thánh Valentinô Berrio-oc Hoa Vinh Giám mục dòng Đaminh Tử đạo.


* Đẹp như khúc tình ca.
Cuộc đời thánh Valentino Vinh đẹp như một bài thơ và hùng tráng như bản tình ca bất hủ. Quả thật, cuộc đời ngài chỉ vỏn vẹn có 34 năm với ba năm Giám mục, không có nhiều thành quả lẫy lừng, nhưng đã là một thiên tình ca hùng tráng… cuộc đời ấy được đan dệt bằng biết bao biến cố thăng trầm, bao kỷ niệm gian khổ và bao thắng vượt anh hùng.
Với tinh thần đơn sơ của một người tràn đầy tình yêu Chúa và tha nhân, ngài đã biến tất cả thành một giai điệu nên thơ. Tất cả những nỗi vất vả đã được vị "Giám mục Hầm Trú" này khoác cho chiếc áo tươi vui bằng thái độ kiên cường, bằng tình yêu nhiệt thành và sự trung tín. Ngài biến đổi chúng bằng những phút chiêm niệm sâu xa và bằng nụ cười bất diệt.
* Nỗ lực tuổi trẻ.
Valentino Berrio Ochoa xuất thân trong một gia đình quý phái, đạo đức nhưng lại nghèo. Sinh ngày 14 tháng 2 năm 1827 tại làng Elorrico, giáo phận Vich, nước Tây Ban Nha. Cuộc đời Valentino chịu ảnh hưởng rất nhiều của song thân. Cậu học được nơi cha sự cần cù kiên nhẫn, và thừa hưởng nơi mẹ một đức tin sống động, lòng sùng kính Đức Maria và tính vui tươi hòa nhã với mọi người. Đặc biệt với thân mẫu, Valentino vẫn hằng ôm ấp mối tình thắm thiết cả khi đã làm Giám mục mà chúng ta có thể thấy được, vẫn dạt dào trong các lá thư viết về cho bà.
Vì thân phụ thường đóng bàn ghế cho một tu viện Đaminh trong vùng, nên Valentino được vào giúp lễ. Nhờ vậy, cậu có dịp tiếp xúc với cha linh hướng của tu viện, một linh mục dòng Đaminh. Khi rảnh rỗi, cậu đến gặp cha để nghe cha kể chuyện về các vị thừa sai Đaminh tại Việt Nam, về những mẫu gương dấn thân và những cuộc tử đạo anh hùng. Từ đó, cậu bé 12 tuổi ôm mãi trong lòng giấc mộng vàng, là được làm linh mục Đaminh và đến phục vụ tại mảnh đất Việt yêu dấu. Nhưng vì gia đình quá nghèo, cậu phải phấn đấu rất nhiều để biến giấc mộng ước thành hiện thực.
Sáu năm liền, Valentino phải kết hợp ba chương trình: vừa làm mộc giúp phụ thân, vừa trau dồi văn hóa phổ thông và xếp thêm giờ học tiếng Latinh. Theo gương đức Giêsu nơi xưởng mộc Nazareth xưa, cậu kiên nhẫn chờ đợi ý Chúa được thể hiện. Năm 18 tuổi, nhờ sự gíup đỡ của một linh mục, cậu xin phép cha mẹ gia nhập chủng viện Logrono. Tại đây, cậu được các giáo sư, các bề trên và bạn bè quý mến. Mọi người ghi nhận nơi chàng thanh niên này tính chăm chỉ học hành, một nếp sống đạo đức sau xa, khổ chế với chính mình nhưng lại tươi vui với mọi người. Đức Giám mục giáo phận, khi kinh lý làng Elorrio ghé thăm gia đình anh, đã nói với thân mẫu rằng: "Bà Maria ơi, có lẽ con bà sẽ làm đến Giám mục".
Sau ba năm triết học với thành quả mỹ mãn, hè năm 1848, thày Valentino về thăm gia đình, và thấy cha mẹ già yếu quá vất vả với công việc, thày trở lại xin bề trên được sống ngoại trú, để vừa đi học thần học, vừa có thể phụ giúp gia đình 30 tháng.
Hơn hai năm rưỡi đã trôi qua như thế, mãi tới khi theo lời đề nghị của một cha giáo sư, Đức Giám mục cho thày lãnh chức cắt tóc và đặt thày làm linh hướng dự khuyết của chủng viện. Đây là trường hợp rất họa hiếm nói lên uy tín của thày, tuy còn là sinh viên mà đã được chọn vào một trách vụ thường dành cho những vị linh mục lão thành đạo đức, nhiều kinh nghiệm.
* Vị linh hướng đạo đức.
Lòng tín nhiệm thầy Valentino của Đức cha Irigoyen ngày càng rõ rệt hơn, khi người lần lượt trao ban chức năm, chức sáu và linh mục cho thày chỉ trong một năm (1851). Valentino đã chuẩn bị xứng đáng, và trong niềm hân hoan khôn tả, vị tân linh mục đã viết thư cho thân thân mẫu như sau: "Mẹ yêu dấu của con, hôm qua, ngày 14.08.1851, ngày mộng ước, ngày con được thụ phong linh mục… Con của mẹ giờ đây đã được tình thương Chúa nhắc lên phẩm chất cao cả, đến nỗi các thiên thần cũng phải run sợ…" (thư 16). Hơn hai năm tận tụy với chức vụ linh hướng đại chủng viện, cha Valentino vẫn ôm ấp giấc mộng vàng thuở thơ ấu. Sau khi bàn hỏi với cha linh hướng dòng Tên tại Loyola, cha xin phép Giám mục qua dòng Đaminh. Lúc giã từ người quen, có người hỏi cha: "Cha đi đâu, và bao giờ chở lại?". Cha đáp: "Tôi đi để quê tôi có người làm Thánh". Và cha đã khởi sự quyết định nên thánh đó bằng thái độ từ bỏ dứt khoát : đường từ nhà đến tu viện Ocanã độ ba bốn ngày đường, cha quyết định đi bộ, không giày dép, không tiền bạc. Hành trang duy nhất là cuốn sách nguyện. Sau có người thấy tội nghiệp, tìm cách ép mời cha đi xe ngựa vài đọan đường. Ocanã, một học viện của tỉnh dòng Mân Côi từ năm 1830, nơi đã đào tạo hai Đức cha An và Xuyên, khi đó đang làm Giám mục chánh và phó giáo phận Trung Đàng Ngoài, đã rộng cửa đón vị linh mục linh hướng nổi tiếng, trao tu phục và sau một năm tập như thường lệ, đã cho cha khấn trọng ngày 12.01.1854.
Ba năm sau, cha tiếp tục giấc mộng thời niên thiếu, nên qua trụ sở tỉnh dòng ở Manila để tìm đường đến Việt Nam. Sáu tháng lênh đênh trên biển cả, chiếc tàu của cha Valentino gồm các thừa sai của ba dòng tu Đaminh, Phanxicô và Augustino. Các vị tổ chức đời sống như một tu viện. Qua thư, cha Valentino thuật lại : các vị cùng nhau dâng lễ, đọc kinh nguyện mỗi ngày. Dịp Tuần Thánh, các vị cũng tổ chức nghi lễ rửa chân, suy niệm Đàng Thánh Giá, bắn pháo bông mừng phục sinh và tổ chức việc suy niệm Đức Mẹ trong tháng hoa nữa.
Ngày 17.06.1857, cha đến Manila trong niềm vui của các anh em dòng tại đây. Anh em ra đón cha tại bến tàu, rồi đưa về thánh dường hát kinh TE DEUM và tạ ơn Đức Mẹ trước bàn thờ Mân Côi.
* Biến ưu sầu thành khúc ca vui.
Ngày 30.03.1858, cùng với cha Riaño Hòa và cha Carreras Hiển, cha Berrio Ochoa đặt chân lên đất Việt Nam, đến trình diện cha chính Nam và Đức cha Xuyên tại Kiên Lao. Cơn bách hại đang ở cao điểm : Đức cha An mới bị tử đạo được tám tháng, thủ cấp của Đức cha Xuyên được treo giá vàng, nên thường xuyên ngài phải ẩn nấp. Trong thư 93 gửi về gia đình, cha Vinh đã ghi nhận: "Cánh đồng truyền giáo này không thấy lấy một ngày quang đãng, không ngày nào không phải cố gắng giữ nét vui tươi. Không ngày nào không có đau thương để khóc, không có lo toan để tìm phương bổ cứu, không có kẻ lạ mặt theo dõi hay quan quân truy lùng".
Sườn núi Canvê trơn dốc của cha Vinh đã bắt đầu. Tại đây tất cả đều còn lạ lẫm: Ngôn ngữ, tập quán, đường đi, con người và bao nhiêu thứ phải làm quen, phải học. Thế mà chỉ mới mấy ngày sau khi chào vị chủ chăn giáo phận, vì tình hình an ninh, mỗi vị phải chia tay nhau ẩn náu mỗi người một phương. Tuy mới chân ướt chân ráo đến vùng truyền giáo, cha Vinh phải vận dụng sự khôn ngoan sáng tạo để hòan thành những công tác mục vụ, thăm viếng. Tất cả mọi việc đều phải lén lút.
Hai tháng rưỡi trôi qua, tuy tiếng Việt nói chưa thông, nhưng tài năng và nhân đức của vị linh mục trẻ tuổi này đã được khẳng định. Đức cha Sampedro Xuyên, trước nguy cơ có thể bị bắt, đã chuẩn bị cho tương lai của giáo phận, ngài dùng quyền Tòa Thánh để chọn một Giám mục phó có quyền kế vị. Ngài đã chọn cha Berrio Ochoa Vinh. Đây là tâm sự của vị được tiến chức:
"Thưa Đức cha, nếu được thì xin cất chén đó cho con… Con thấy lòng tràn ngập lo lắng, áy náy khi nghĩ đến địa vị mà Đức cha muốn đặt con lên. nhưng điều mà môi miệng con nói thì con cũng xin nói cả tấm lòng, đó là xin vâng trọn ý Chúa, bây giờ và đời đời chẳng cùng".
* Giám mục "gậy tre mũ giấy.
Lễ tấn phong Giám mục Valentino Vinh, quả thực có một không hai trong lịch sử Giáo hội. Đêm 25 rạng ngày 26.06.1858, Đức cha Xuyên cử hành lễ tấn phong trong nhà ông trùm Chi ở Ninh Cường. Lễ nghi được tiến hành âm thầm giữa đêm thâu, không một tiếng hát, không một người tham dự. Hai cha Riano Hòa và Carreas Hiển là thụ phong, bao tay, vớ tất không có, mũ ngọc của tân Giám mục làm bằng giấy bìa cứng cũng phủ giấy tráng kim, gậy ngọc là một cây nứa, đầu gậy cuốn bằng rơm cũng được bọc giấy tráng kim. Việc chuẩn bị cho ngày lễ, chúng ta hãy nghe ngài thuật lại trong thư gửi cho cha Orge ở Manila:
"Con thú thật rằng, con muốn thoát khỏi vòng ràng buộc này. Nhưng biết bao lần Đức cha đã bảo con, nên theo lương tâm, buộc con phải vui nhận việc tuyển chọn… Con không giám cưỡng ý Chúa đã rõ rệt. Sau ngày được tuyển chọn, con chỉ còn vừa đủ thì giờ để cấm phòng. Con lắng nghe Ngài phán trong thinh lặng, không có lấy một cuốn sách nào giúp tĩnh tâm, mà có tìm cũng không ra … Không phải chỉ thiếu sách cấm phòng, nhưng chiều áp lễ tấn phong, thấy rằng chỉ có độ một nửa khăn áo cần dùng trong nghi lễ, Đức Giám mục đại diện Tông tòa và con phải vội vàng hai tay kim chỉ đóng vai thợ may. Tạ ơn Chúa, tới đúng giờ đã định, chúng con cũng có ít khăn áo xứng đáng…" (Thư 79).
Nếu thánh Phaolô xưa tự nhận mình là tông đồ sinh non, vị tân Giám mục cũng tự nhận là Giám mục sinh non, sinh thiếu tháng. Chưa đầy ba tháng trên đất Việt với số tuổi 31, thế mà giờ đây phải quan tâm săn sóc một giáo phận trên 150 ngàn giáo hữu giữa cơn cuồng phong bách hại ác liệt nhất. lúc này đây, ngoài Chúa ra, ai có thể cảm thông được nỗi ưu tư của ngài?
Sau ngày tấn phong, hai Đức cha và hai linh mục lên xứ Quần Cống. Được ít hôm, quan án sát Nam Định đến bao vây làng này, khiến mỗi vị phải đi một ngả. Đức cha Vinh phải chạy sang Trà Lũ, Đức cha Xuyên qua làng Thôn Đông, rồi đến Kiên Lao thì bị bắt ngày 08.07, và bị xử lăng trì ngày 28.07.1858. Từ nay, Đức cha Vinh phải một mình lãnh trách nhiệm toàn giáo phận Trung. Theo ý vị tiềm nhiệm, Đức cha bỏ giáo phận trốn qua tỉnh Hải Dương, là nơi cuộc bách hại còn lắng dịu. Sau bốn ngày vượt sông băng lạch, ngài đến Cao Xá, tỉnh Hưng Yên, rồi tới nơi Đức cha Hermosilla Liêm và cha Almato Bình trú ẩn. Được ít lâu, ngài đã tìm được nơi trú ẩn mới trong vườn nhà anh Thăng, làng Hương La, xử Tử Nê (Bắc Ninh). Gia chủ đã đào cho ngài một hầm trú ẩn khá an toàn. Chính tại hầm này, vị "Giám mục hầm Trú" đã thành lập tòa Giám mục trong gần trọn đời Giám mục của ngài.
* Giám mục hầm trú.
Khi nghe tin Đức cha Xuyên tử đạo, dầu kiên nhẫn và bình tĩnh, Đức cha Vinh đã phải phát biểu nửa đùa nửa thật rằng: "Đức Giám mục khả kính Sampedro Xuyên để lại cho tôi một gánh quá nặng. Ngày nào tôi nhoai đến thiên cung, tôi sẽ tố cáo ngài".
Trong thư gửi cho một linh mục bạn, ngài viết: "Tôi còng lưng gánh một gánh mà tôi sợ, rất sợ, sợ đổ vỡ dọc đường…". Sau đó, Đức cha tìm mọi cách trở về với giáo phận, nhưng không thể được, vì cơn bách hại tại giáo phận Trung qua khắc nghiệt. Theo cha M. Gispert, có một lần duy nhất trong đời Giám mục, Đức cha Vinh về xứ Kẻ Mèn, thuộc giáo phận Trung. Nơi đây, cùng với cha Riano Hòa, hai vị tuyên thệ xây cất một Thánh đường dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm, và nhận người làm bổn mạng của giáo phận, nếu Chúa ban cho Giáo Hội thoát khỏi cơn bách hại và hưởng thái bình. Lời tuyên thệ này về sau khi cha Hòa làm Giám mục đã thực hiện. Đó là thánh đường sau ba lần tái thiết, nay là một thánh đường kiểu Gothique nguy nga dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm tại Phú Nhai.
Trở lại vị Giám mục hầm trú tại Hương La. Sáu tháng đầu, ngài sống chung với Đức cha Alcazar Hy, Đức cha phó giáo phận Đông, cho đến khi vị này phải rời xứ truyền giáo tạm lánh qua Macao. Chính tại hầm trú này, Đức cha điều hành giáo phận gần trọn ba năm. Nơi đây, ngài sống như một ẩn sĩ, nhưng vẫn là linh hồn của giáo phận Trung. Sinh hoạt thường ngày của ngài là cầu nguyện, hy sinh, viết thư cho các linh mục và các giáo xứ bên giáo phận. Hỗ trợ Đức cha có bốn địa chủng sinh và ông lang Thư, người Cao Xá, trong việc sao chép thư luân lưu, cũng như việc liên lạc. Thật đáng khâm phục, trong cảnh dầu sôi lửa bỏng như thế, Đức cha vẫn hướng về ánh sáng cuối đường hầm, vẫn nhìn trời xanh qua kẽ lá, vẫn chuẩn bị cho Giáo Hội tương lai trong hòan cảnh tưởng như tuyệt vọng này. Trong hầm trú, ngài vẫn tiếp tục hướng dẫn, dạy thần học cho một chủng sinh, huấn luyện các linh mục tương lai. Để ôn thêm và để việc huấn luyện được đầy đủ, giữa khung cảnh bão táp ấy, ngài viết thư cho cha quản lý ở Macao, xin gởi cho cha bộ Tổng Luận thần học, bộ Contra Gentiles của thánh Tôma và nhất là bộ Giáo Luật.
Ba năm trải qua như thế. Tất cả ở dưới hầm trú, trừ đôi lần giữa đêm, ngài ra khỏi đó để thăm và xưng tội với Đức cha Liêm, hoặc đi giúp các bệnh nhân, nhưng không vượt ra khỏi ranh giới hai làng Đức Trai và Tử Nê. Một vài lần, ngài phải cuốn gói chạy trốn qua một hầm khác để tiếp tục ẩn nấp. Thực tả sao cho xiết nỗi cơ cực và nỗi khổ ngài chịu. Cơ cực vì hầm chật chội, ngột ngạt, ăn uống thiếu thốn… Khổ tâm vì không thể về với giáo phận mình, trong khi cơn bách hại ngày càng gia tăng. Các hung tin được loan báo tới tấp: 1, 2,… rồi 18 linh mục tử đạo, các thày giảng và biết bao giáo hữu bị ngã gục vì đức tin chân chính. Trong một thư gửi cho Thánh Bộ Truyền Giáo, cha viết: "Rất có thể trong ít tháng nữa, giáo phận của tôi chẳng còn thừa sai, chẳng còn linh mục, không chủng sinh, không thày giảng và không biết còn nên nói thêm chăng, không còn bổn đạo" (Thư 93).

* Vui tuơi và hỷ Xã.
Tuy sống gian khổ như thế, Đức cha Vinh đã không một lời rên rỉ, không một tiếng thở than. Cái "chương trình" thánh thiện trong vui tươi của anh chủng sinh vừa học vừa làm thời niên thiếu, giờ dây ngài vẫn trung thành thực hiện. Ta có thể thấy điều đó trong một thư gửi cho thân mẫu vào tháng 08.1860 :
"Mẹ chí yêu lòng con,
"Mẹ hỏi con sống thế nào, ăn uống làm sao? Mẹ quý mến của con ơi ! Con sống tươi lắm, con làm Giám mục cơ mà ! Còn thức ăn ngày nào cũng có. Đừng lo mẹ ạ, chúng con chẳng đói đâu. Nhưng mẹ tưởng hễ làm Giám mục là phải ngồi ngựa à ? Không, chúng con tuột giầy ra giữa đêm hôm tăm tối, nhoài hết chỗ lội này đến quãng lội khác, vậy mà cứ vui thôi. Một hôm, con lội sáu dặm đường, trên mưa tuôn, dưới bùn trơn, con ngã soành soạch không biết bao nhiêu lần. Tuy là Giám mục, con cũng ướt như chuột và lấm bùn be bét. Nhưng giáo hữu ở đây tốt lắm, về tới nhà đã thấy họ đổ nước cho con tắm rửa sạch sẽ để chuẩn bị dâng lễ…"Ồ có lẽ mẹ bảo: Vinh nhỏ của mẹ ơi, sống thế xìu lắm ! Không, chả buồn chả xìu chút nào mẹ ạ. Ở đây người ta sống mạnh, sống tươi, nhanh nhẹn lắm. Chúa an ủi chúng con trong lao nhọc. Con tuy là "trai già" mà nhảy qua vũng lội vẫn lẹ như sóc ấy. Mẹ ạ, Vinh trước đã là đứa con nhảy nhót qua núi đồi thì nay bộ mặt đầy râu của nó, cũng sẽ làm những tên quỷ già nhất ở trong hỏa ngục phải run sợ…" (Thư 116).
Quả thực, phải có tâm hồn tươi trẻ và siêu nhiên mới có được thái độ và lời lẽ như vậy, vừa dí dỏm vừa tươi vui pha chút đùa bỡn nữa. Những lá thư như thế phản ảnh được sự bỏ mình và nét tươi trẻ của vị Giám mục tử đạo 34 tuổi xuân này. Thực là cái vui của các vị thánh, của những tâm hồn đầy Chúa. Chẳng bao lâu nữa, vẫn với niềm vui tươi và tính đơn sơ phó thác ấy, ngài giơ đầu đón nhát gươm lý hình, và trên khuôn mặt đẫm máu đào của ngài, còn ánh lên nét tươi vui.
Tháng 8.1861, chiếu chỉ phân sáp của vua Tự Đức như một cơn hồng thủy tràn lan mọi thị xã cũng như thôn quê. Làng Hương La cũng không thể yên ổn được nữa. Đức cha Vinh liền xuống thuyền với linh mục Almato Bình, xuôi dòng xuống Hải Dương. Tại đây, may mắn hai vị gặp Đức cha Liêm và thày Khang đang ở trên một thuyền khác trong bầu không khí thân mật và cảm động. Nhưng sau đó, thuyền ngài lại phải tiếp tục cuộc hành trình. Các giáo hữu giới thiệu hai vị trọ nhà một người ngoại giáo làm phó lý ở gần đó. Không ngờ cháu ông này đi báo với quan, khiến hai vị bị bắt ngày 25.10.1861 và bị đóng cũi giải về Hải Dương. Tại đây, hai vị gặp Đức cha Liêm trong một cũi khác, ngài đã bị bắt trước đó năm ngày.
Ngày 01.11.1861, ba vị thừa sai cùng bị đem đi xử. Quân lính áp giải đông như đi rước. Cũi Đức cha Vinh đi giữa hai vị kia. Ngài bình tĩnh ngồi cầu nguyện như thói quen, nét mặt tươi tỉnh khiến mọi người phải ngạc nhiên. Tại pháp trường Năm Mẫu, sau ít phút cầu nguyện, lý hình đã chém đầu các ngài theo hiệu chiêng trống. Thi thể ba vị tử đạo được chôn tại đó, sau được cải về Thọ Ninh, rồi Kẻ Mốt. Đến đời Đức cha Hiển, thi thể Đức cha Vinh được gởi về Macao, và sau cùng được đem về quê hương của ngài.
Đức Piô X đã suy tôn Giám mục Valentino Berrio Ochoa Vinh lên bậc Chân Phước ngày 20.05.1906. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.

Ngày 01-11 -1830-1861 Thánh Phêrô Almato Bình Linh mục dòng Đaminh tử đạo.

Phêrô Almato Bình, Linh Mục Ða Minh; sinh 1830 tại Sassera (Vich), Tây Ban Nha; chết 1/11/1861, tại Hải Dương. Ngài được sai đi Phi Luật Tân trước hết khi được khấn dòng Ða Minh. Sau đó được gửi Ximabara với thánh Jerome Hermosilla, cùng với vị này, ngài đã bị xử trảm (chém đầu), phong á thánh năm1906. Lễ kính vào ngày 1/11.
Đức Cha Alcazar tóm tắt cuộc sống thánh thiện và anh hùng của Cha Phêrô Almato như sau: "Tôi theo dõi suốt cuộc đời của ngài và có thể làm chứng rằng ngài không bao giờ phạm một tội trọng nào, lại hết lòng gìn giữ đức trong sạch trinh khiết. Mặc dù sức khỏe yếu kém, người ta chỉ có thể nói rằng Thiên Chúa định cho ngài sang truyền giáo ở Việt Nam là để thưởng công triều thiên tử đạo cho ngài. Quả thật Đức Cha Hermosilla đã ra lệnh cho Cha Almato và Cha Munoz di tản sang Trung Hoa để tránh cơn lùng bắt dữ tợn, nhưng Chúa để cho Cha Almato nhỡ tầu, còn Cha Munoz đi được. Cha Munoz viết thư cho ngài: "Này anh Almato, lẽ ra anh phải sang Macao chứ không phải là tôi. Như đức cha già khả kính Hermosilla đã định, nhưng tôi không được phúc tử đạo, còn Thiên Chúa thưởng nhân đức anh bằng phúc tử đạo".
Cha Almato sinh ngày 1-11-1830 tại Catalogna, Tây Ban Nha, được cha mẹ đạo đức đem đi rửa tội ngay và đặt tên thánh là Phêrô Giuse. Ngay từ bé cậu Almato đã tỏ ra lòng đạo đức, thích đồ chơi bằng nhà thờ hay đóng kịch làm cha đứng giữa các bạn giảng đạo. Khi lên 11 tuổi đã đi học Latinh và tháng 8-1847 vào dòng Đaminh ở Ocanha để sửa soạn đi giảng đạo ở phương Đông. Cha mẹ không muốn cho con đi xa, nhưng ngài đã can đảm viết thư cho cha mẹ như sau: "Cha mẹ đừng than khóc vì đứa con phải đi xa, nhưng hãy vui mừng vì ở trên trời cha mẹ sẽ được phần thưởng vì những hy sinh. Hạnh phúc cho chúng ta dường nào được gặp nhau ở trên đó, luôn luôn được hiệp nhất với nhau trong vinh quang và không còn phải xa cách nhau nữa. Cha mẹ hãy nghĩ rằng Chúa đã xếp đặt như thế không phải để chúng ta khổ nhưng là để chúng ta được sự tốt lành, được thanh tẩy và thánh hóa trong cuộc sống đời này và được phần thưởng trong cuộc sống mai sau".
Quả thật là những lời lẽ cao siêu của một tâm hồn đã xác tín muốn yêu Chúa đến mức độ tuyệt hảo. Sau nhiều thử thách và gắng sức tu luyện, Thầy Almato được khấn trọng thể ngày 26-9-1848. Trong dịp này thầy có viết thư cho cha mẹ: "Cha mẹ quí mến, những việc lo dưới thế là mong làm cho con đường thu ngắn lại và chắc chắn hơn, con cũng vậy, con phải làm cho việc cứu rỗi linh hồn con chắc chắn. Con không những chắc chắn về cuộc sống hiện tại mà con mong cho các anh em con sớm bỏ biển khổ đầy lo lắng quen gọi là thế gian". Về đời sống trong viện tu, Thầy Almato viết: "Ở đây con được bề trên lo lắng săn sóc mọi sự cần, mặc dù chúng con đông nhưng tình thương bao bọc đồng đều mọi người dường như là một vậy. Con chẳng phải nghĩ gì khác". Viết cho người em gái đi tu, thầy khuyên: "Không có gì xảy ra tình cờ, không có biến cố nào mà không có báo trước. Những điều bất hạnh xem ra là sự dữ nhưng nếu chúng ta biết suy nghĩ cho kỹ, chúng ta sẽ thấy sự dữ là một điều lành, trong cái rủi ro là một may lành. Nếu anh cứ tiếp tục than trách, anh sẽ chẳng bao giờ hết vì trong lòng chứa đầy sự cay đắng".
Tháng 9-1852, Thầy Almato được chỉ định sang Manila và chịu chức bên đó trước khi được lệnh sang Bắc Việt. Cha viết về mong ước sang Bắc Việt với người bạn: "Đã từ lâu tôi ước ao được sang truyền giáo ở Bắc Việt. Tôi đã nhiều lần kêu xin với Chúa và Đức Mẹ và đã thưa với các bề trên. Chúa đã nghe lời tôi. Tôi cảm tạ Chúa đã thương chọn tôi cùng với ba cha khác đi truyền bá Phúc Âm cho dân ngoại."
Ngày 11-1-1855 cha, lúc ấy mới 24 tuổi, lên đường đi Hồng Kông. Bao nhiêu khổ cực, bao nhiêu hy vọng trên chuyến hành trình, cha ngước mắt lên trời cao như muốn cho hy vọng thêm bao la. Bẩy tháng sau, ngày 3-7-1855, cha rời Macao để đến Bắc Việt và tới nơi ngày 11-7 tại Nam Chân. Cha được đưa đến trình diện cha đại diện tỉnh dòng Salvatore Masso và sau đó được tới Bùi Chu vào dịp lễ phong chức giám mục cho Cha Sampedro ngày 1-9. Cha Almato được đặt tên Việt là Bình, diễn tả tâm hồn bình an của cha. Cha học tiếng Việt tại Kẻ Mốt một năm và sau đó được sai giúp Cha Fernandez trước khi được chỉ định coi xứ Thiết Nham.

Giáo dân xứ Thiết Nham nói về vị chủ chăn của mình như sau: "Cha Bình (Almato) thường xin chúng tôi cầu nguyện cho ngài. Như thế tâm hồn sốt sắng của ngài thúc đẩy con chiên chúng tôi chạy đến với ngài". Năm 1858 lệnh vua Tự Đức bắt đạo ngặt nghèo nên Đức Cha Hermosilla truyền lệnh cho Cha Almato tạm thời sang Trung Hoa vì ngài kém sức khỏe, sợ không chọi nổi cảnh trốn chạy mà chết uổng đi. Nhưng ý Chúa để cha bị nhỡ cơ hội, cha đi về Kẻ Mốt thăm đức cha rồi trốn tránh ở Kẻ Nê, ở Thọ Ninh.
Năm 1861 với lệnh phân sáp và không còn trốn tránh được nữa, Cha Bình xuống thuyền ở với Đức Cha Ochoa Vinh hẹn đến với Đức Cha Hermosilla. Thế nhưng thuyền của Đức Cha Hermosilla và Thầy Khang đã bị bắt ngày 20-10-1861. Đức Cha Ochoa và Cha Almato được ông trùm Trọng chèo thuyền về Kim Phô nhờ một quan ở huyện là Hán Cáp giúp đỡ. Ông quan này nhận lời giúp đỡ nhưng chính ông lại đi báo quan tỉnh Hải Dương về bắt. Ngày 25-10-1861 quan huyện Thanh Hà đến bắt Đức Cha Ochoa và Cha Almato giải về Hải Dương.
Quan tổng đốc Hải Dương là Nguyễn Quốc Cẩm đặt thánh giá ở cửa thành, nhưng đức cha yêu cầu có cất đi thì mới vào trong thành. Quan hỏi Cha Almato về quê quán và thời gian ở Việt Nam bao lâu, Cha Almato đáp: "Tôi là người Tây Ban Nha, sang Việt Nam được bẩy năm, tôi rao giảng đạo tại nhiều nơi".
Quan lại hỏi có biết Cha Tuấn (tên thứ ba của Đức Cha Hermosilla). Sau đó Đức Cha Ochoa, Đức Cha Hermosilla và Cha Almato, mỗi người một cũi được giam chung với nhau ở Trang Thu. Quan tổng đốc là người hiền lành muốn thong thả làm án tâu về kinh, nhưng tổng đốc Nam Định là Nguyễn Đình Hưng (Tân) sợ triều đình khiển trách nên ra lệnh làm án trảm quyết ngày 1-11-1861.
Vào ngày lễ Các Thánh, Đức Cha Hermosilla, Đức Cha Ochoa và Cha Almato được 300 người lính dẫn ra pháp trường Năm Mẫu ở ngoài thành Hải Dương để chém đầu. Cha Almato vừa đúng 31 tuổi.
Khi xử ba đấng đã có nhiều dấu lạ như được kể trong chuyện Đức Cha Hermosilla. Xác các ngài được chôn tại chỗ ba tháng rồi mới được giáo dân lén lút đem về chôn ở ba nhà khác nhau tại Thọ Ninh ngày 2-2-1862. Sau này khi bốc mộ, xác Cha Almato Bình được đưa về chôn ở nhà thờ Truyền Tin thuộc địa phận Vich là quê quán của ngài ở Tây Ban Nha.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét