Thứ Hai, 11 tháng 8, 2014

Ngày 12/08 Kỷ Niệm Ba Vị Thánh Tử Đạo Việt Nam



Ngày 12/08 1769-1838 Trùm Họ Antôn Nguyễn Đích Tử Đạo
Antôn Nguyễn Ðích, sinh năm 1769 tại Chi Long (xã Nguyên Lý – huyện Lý Nhân – tỉnh Hà Nam); Do hoàn cảnh cuộc sống, ông cùng cha mẹ chuyển về thôn Vĩnh Trị (xã Yên Trị - huyện Ý Yên – tỉnh Nam Định); Vĩnh Trị lúc đó là trung tâm Thủ Phủ của giáo phận Tây Đàng Ngoài. Thánh nhân được phúc tử đạo 12/8/1838, tại pháp trường Bảy Mẫu – tỉnh Nam Định. Thánh Antôn Ðích dùng gia sản nông nghiệp của ngài để giúp cho công việc truyền giáo của Hội Thừa Sai Balê. Ngài bị bắt vì che dấu các linh mục, kể cả Cha Giacôbê Đỗ Mai Năm, là người đang chạy trốn việc lùng bắt của nhà vua. Bị xử trảm (chém đầu). Cùng với linh mục Giacôbê Đỗ Mai Năm và ông Lý Mỹ (con Rể ông thánh Đích), ông trùm Antôn Nguyễn Đích, được Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 12/08. Trước đây cha Phanxico coi sóc xứ Phú Đa đã lập tượng Anton Nguyễn Đích trước sân nhà Thờ Phú Đa.
* Gia trưởng một gia đình tử đạo.
  Thánh Antôn Nguyễn Đích, một mẫu gương sáng ngời cho những người gia trưởng, đặc biệt trong việc giáo dục hướng dẫn đức tin cho con cái. Không kể thánh Lý Mỹ, người con rể chí hiếu, đã cùng tử đạo một ngày, gia đình ông đã cống hiến hai chứng nhân đức tin khác (hai vị này không có trong số 117) : ông Lý Thi, bị xử giảo năm 1858 thời vua Tự Đức (con thứ hai ông Trùm Đích), và ông phó Nhâm, người con thứ tư, cương quyết không bước qua Thập Giá, bị đầy lên Cao Bằng và qua đời tại đó. Thánh nhân đã giáo dục con cái không chỉ bằng lời nói. Mà bằng chính mẫu gương chứng tá đức tin sống động của mình.
* Lý lịch thân phụ tôi
  Muốn biết lý lịch của thánh Antôn Nguyễn Đích, không gì bằng nghe chính lời con cái ngài là cô Maria Mến (Miều), góa phụ của thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ, cung khai trước tòa điều tra phong Chân Phước : Bố tôi là Nguyễn Đích, quê ở Chi Long, huyện Nam Sang, tỉnh Nam Định. Ong bà nội tôi vốn có lòng đạo đức, thấy xa nhà thờ có linh mục thì lấy làm tiếc, nên dọn đến làng Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị), rồi bố tôi lập gia đình ở đó.
 "Hồi đó bố tôi tên là Khiêm, khi sinh con đầu lòng đặt tên là Hiếu, người ta gọi bố tôi là Hiếu, đến khi sinh người con thứ hai đặt tên là Đích, bố tôi lại mang tên là Đích và giữ tên đó mãi... "Gia đình chúng tôi làm nghề nông rất cần cù, nhưng không vì thế mà sao lãng việc đạo đức, trái lại vẫn siêng năng xưng tội, rước lễ. Bố tôi luôn quan tâm đếnm đời sống đạo đức của mười người con và của những gia nhân giúp việc. Mỗi ngày, ông chỉ định một hay hai người coi nhà, còn những người khác đi lễ. Tôi thấy bố tôi làm tròn các nghĩa vụ trong đạo. Ngài rất chăm sóc việc giáo dục con cái, mời thày đồ đến nhà dạy chữ Nho cho con trai, từ chối gả con gái cho những thanh niên gia đình giàu có mà không giữ đạo sốt sắng…".

  Bốn vị tử đạo đạo trong một gia đình, thật là kết quả hết sức lớn lao của nền giáo dục đạo đức đó. 


 * Một lòng vì Giáo Hội
Đặc biệt quan tâm đến tương lai của Giáo Hội, ông Trùm Đích rất yêu quý các giáo sĩ và chủng sinh, quảng đại tiếp đón và giúp đỡ về vật chất. Thời gian chủng viện Kẻ Vĩnh bị nạn dịch tả, nhiều chủng sinh ly trần, các bề trên quyết định phân tán các chú. Ông trùm Đích tình nguyện nhận một số, vừa nuôi dưỡng, vừa săn sóc chữa bệnh cho đến khi hoàn toàn bình phục, không xá kể lao nhọc tốn phí.
  Đức bác ái của ông còn tỏ ra qua lòng thương người nghèo, và việc thường xuyên thăm viếng an ủi những người mắc bệnh phong cùi. Chính thế giá và nhân đức của ông mà người ta gọi ông là "Trùm", mặc dù ông không giữ nhiệm vụ ấy.
  Gặp thời cấm đạo ngặt nghèo, ông cho trú ẩn tại nhà và nuôi dưỡng trong hai năm một lớp chủng viện. Đức cha Havard Du, Giám mục giáo phận, cũng đã trú ẩn tại nhà ông trong thời kỳ cấm đạo triều vua Minh Mạng.
* Vị gia trưởng đáng kính.
  Quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dùng mọi phương thế, từ thuyết phục đến tra tấn, để bắt ông trùm Đích bỏ đạo : "Ông đã cao niên, các con đã trưởng thành, các cháu chắt đông đảo, có nhà cửa phong lưu, ông hãy quá khóa để vui hưởng tuổi già với đàn con cháu có hơn không?". Ông Đích trả lời với giọng vững vàng : "Thưa quan, con cháu chi cũng mặc, tôi đã lo liệu cho chúng. Tôi có bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, quan tha hoặc kết tội thì tùy, chứ đừng ép tôi bỏ đạo".
  Quan truyền khiêng ông qua Thánh Giá nhưng ông co hai chân lên, tức giận quan truyền đánh đòn ông. vì phải mang gông xiềng, bị tra tấn lại thấy mình già nua yếu đuối, có lúc ông tưởng không chịu nổi gian truân thử thách đến cùng, nhưng may mắn ông vẫn kiên trung tới ngày tử đạo, nhờ ơn Chúa giúp, nhờ sự khuyên nhủ của cha Năm, nhờ lời khích lệ của các bạn tù, nhất là nhờ tấm lòng hy sinh cao cả của con rể chí hiếu, Micae Lý Mỹ. Ông Lý mỹ sau khi lãnh phần mình xong, ba lần chịu đòn thay cho nhạc phụ, ông trùm Đích được mang gông nhẹ hơn.
  Ít phải chịu cực hình thân thể, ông gia tăng công nghiệp bề trong bằng việc bác ái và đạo đức. Thực phẩm, tiền bạc cho gia đình tiếp tế, ông chia sẻ cho các bạn tù ngoại giáo. Ông chuyên chú đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ sốt sắng ngay trong nhà giam.
  Thấy không thể khuyên dụ ông trùm Đích bỏ đạo, quan làm sới tâu về kinh. Đây là nội dung sớ tâu luận tội:
  "Tên Đích tin theo và thực hành tà đạo, dù đã bị cấm. Đã không nộp đạo trưởng Mai Năm cho quan, alị còn chứa chấp, không nghe lời khuyên cáo dạy bảo, nhất là không chịu quá khóa, thật là người cố chấp, bất tuân luật nước. Chúng thần đã nhiều lần truyền buộc y quá khóa trước công đường, nhưng y trả lời : ‘Tôi giữ đạo từ nhỏ, tôi sẵn sáng thà chết chẳng thà bỏ đạo’. Vậy xin luận xử trảm quyết làm gương cho kẻ khác".
  Bản án được vua Minh Mạng châu phê chấp thuận ngày 12.08.1838, ông trùm Antôn Nguyễn Đích cùng với linh mục Giacôbê Đỗ Mai Năm và người con rể Micae Nguyễn Huy Mỹ bị điệu ra pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định. Sau khi hành quyết linh mục Mai Năm, lý hình chém đầu ông trùm Nguyễn Đích, rồi mới xữ tử ông Lý Mỹ.
  Thi hài ông Antôn Nguyễn Đích, 69 tuổi thọ, được rước về làng Kẻ Vĩnh ngay trong đêm đó. dân làng tổ chức lễ qui lăng rất trọng thể, rồi an táng trước nhà ông, nơi ông đã để lại bao gương sáng của một chức sắc và một gia trưởng đáng kính.
  Cùng với linh mục Mai Năm và ông Lý Mỹ, ông trùm Antôn Nguyễn Đích, được Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.


Ngày 12/08- 1804-1838 Thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ. Lý Trưởng Tử Đạo
Micae Nguyễn Huy Mỹ, Sinh năm 1804 tại Kẻ Vĩnh, Hà Nội, Giáo dân, Lý Trưởng, bị xử trảm ngày 12 tháng 08 năm 1838 tại pháp trường Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII suy tôn lên hàng Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 12/08.
* Người con chí hiếu
Gông đóng xiềng mang, dạ nguyệt kinh
Những say vì đạo hả vì tình
Vai mang bốn điệp (gông) tai thêm ấm
Xổng xểnh ba vòng (xích sắt) cổ lại thanh
Phép nước đành lòng không oán thán
Nghĩa thầy để dạ vẫn đinh ninh
Khiến sao nên vậy nào lo nghĩ
Phó mặc Hoàng Thiên sự tử sinh".
Qua những vần thơ của thánh Micae Mỹ dưới đây: Gông xiềng, đòn đánh là những hình phạt dành cho phạm nhân, làm thân thể con người phải đau đớn, suy giảm sức khỏe thể xác thì đối với ngài, người tín hữu trung kiên "say về đạo" Chúa Kitô, gông xiềng đã trở lên hành trang qúi báu vô cùng. Chính bản thân ông đã tự nguyện lãnh đòn thay cho nhạc phụ tuổi già sức yếu (ông trùm Antôn Nguyễn Đích) để rồi trở lên người đồng hành làm chứng cho Đức Kitô, cùng lãnh phần thưởng cành lá vạn tuế tử đạo, và cũng được tôn phong lên bậc hiển thánh. Ông Micae Lý Mỹ quả thực là người con chí hiếu, một môn đệ trung kiên, đã thực hiện trọn hảo lời Thày Chí Thánh: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập Giá mà theo" (Mt. 16,24).
* Tốt đời đẹp đạo
Thân phụ cậu Mỹ nguyên quán ở Đại Đăng, tỉnh Ninh Bình, đến lập nghiệp và kết hôn tại làng Kẻ Vĩnh, Nam Định. Micae Nguyễn Huy Mỹ sinh năm 1804, mồ côi cha năm lên mười, rồi hai năm sau mồ côi mẹ. Được người thân tận tâm nuôi dưỡng giáo dục, cậu tỏ ra rất thông minh và đạo đức : thông thạo chữ Hán và nghề thuốc, siêng năng đọc kinh sáng tối, tham dự và lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Cậu thường tìm nơi thanh vắng yên tĩnh trong vườn để đọc kinh Mân Côi và cầu nguyện.
Năm 20 tuổi, anh Mỹ kết duyên với cô Maria Mến (Miều), con gái ông trùm Antôn Nguyễn Đích. Cuộc sống gia đình đầm ấm với tám người con đạo hạnh, khiến hết thảy dân làng đều mến phục kính nể. Họ đồng thanh thỉnh ông làm chánh tổng, nhưng ông từ chối. Sau cùng vì vâng lời Đức cha Havard Du, để trợ giúp chủng viện và giúp đỡ giáo dân trong thời cấm đạo, ông nhận chức Lý Trưởng.
Dù đời sống gia đình và xã hội nhiều phức tạp, ông luôn sống xứng đáng là một gia trưởng đạo đức gương mẫu. Bà Lý Mỹ kể rằng : "Gia đình tôi sống trong hòa thuận yêu thương. Ông Micae chuyên chăm đạo đức, dự lễ hằng ngày, nếu vợ con hay người giúp việc bận rộn không đi lễ được, ông bắt phải đọc kinh chung và nghe sách thiêng liêng để suy niệm. Ông xưng tội nhiều lần trong năm, mỗi lần ông kỹ lưỡng xét mình hai ngày trước. Mùa chay, ông giữ chay các ngày thứ tư và thứ sáu. Ông không uống rượu, không đánh bạc hay to tiếng với ai bao giờ".
Làm Lý trưởng, ông Mỹ tỏ ra là người liêm khiết, không nhận tiền hay quà hối lộ. Khi phân xử, ông rất công bằng chính trực, không thiên vị bên nào. Với những người vướng mắc tệ đoan xã hội, ông khuyên răn, sửa trị nghiêm minh. Lo cho gia đình thế nào, ông Lý cũng chăm sóc làng xã như vậy : Mỗi tối, ông thường đọc kinh chung với phu tuần trước khi thi hành công tác. Ông khuyên nhủ người khô đạo, giúp đỡ người nghèo khổ, tạo điều kiện cho họ năng nhận các bí tích, tu thân sửa lỗi, để họ trở thành người giáo hữu tốt lành và người công dân lương thiện. Hàng tổng vẫn lấy làng Kẻ Vĩnh ra làm gương cho các làng khác.

 
* Phép nước đành lòng không oán thán
Như các làng khác ở Miền Bắc trong những năm cấm đạo (1833-1938), dưới triều vua Minh Mạng, vì quan quân không ráo riết chấp hành, nên Kẻ Vĩnh được tạm yên trong mấy năm.
Nhưng năm 1837, Tuần Phủ Hưng Yên bị cách chức, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh bị triệu về kinh quở trách nặng lời, nhà vua trao cho Tổng đốc 40 Thánh Giá, truyền phải triệt để áp dụng chiếu chỉ cấm đạo. Từ đó, quan Tổng đốc trở thành con người tàn bạo, người ta gọi ông là "hùm xám tỉnh Nam". Hai giáo phận Đàng Ngoài vào cuối triều Minh Mạng phải chịu những cơn bão táp dữ dội. Quan quân từng đội, từng đoàn đi khắp nơi, bao vây từng làng, khám xét từng nhà, chủng viện Kẻ Vĩnh hai lần giải tán chủng sinh sang các miền xung quanh.
Một lần, quan quân bao vây làng Kẻ Vĩnh đúng lúc Đức giám mục và một số linh mục đang trú ẩn tại đó. Ông Lý Mỹ can đảm và khôn khéo, đánh lạc hướng, dẫn quan quân đi khám xét từng nhà mà không bắt được vị nào. Ông thường nói với các giáo hữu : "Việc nhà vua cấm đạo ví như thử thách Thiên Chúa gởi đến, ta phải kiên tâm trung thành với đạo". Khi nghe tin Tổng đốc bắt các lính Công Giáo phải quá khóa, ông Lý vì ở xa, nên gởi thư khuyên bốn người thuộc làng Kẻ Vĩnh : "Xin anh em giữ vững đức tin, mấy ngày nữa tôi sẽ đến với các anh em".
Ngày 02.07.1838, quan Tổng đốc chỉ huy cuộc bao vây làng Kẻ Vĩnh, ông Lý Mỹ thưa với nhạc phụ : "Cha con ta đồng sinh tử với nhau, việc Chúa quan phòng đã đến rồi, xin cha đừng hãi sợ chi". Nói xong, ông ra đón quan Tổng đốc tại đình làng, quan truyền các giáo hữu và linh mục phải ra trình diện, nếu không Lý trưởng phải làm tờ cam đoan. Ông viết : Lý trưởng Nguyễn Huy Mỹ làm tờ cam đoan: làng chúng tôi không có đạo trưởng, cùng các đồ quốc cấm, nếu khai man tôi xin nộp mạng cả gia đình tôi".
Tờ cam đoan chưa ráo mực thì quân lính đã dẫn linh mục Giacôbê Mai Năm đến. Quan ngạc nhiên hỏi phải xử thế nào ? Ông thưa: "Thưa quan lớn, quan thương thì chúng tôi xin tạ ơn, bằng không tôi xin nộp đầu chịu tội". Bấy giờ quan truyền đánh ông Lý 40 roi, rồi đóng gông giải ra tỉnh cùng với linh mục Mai Năm và ông trùm Nguyễn Đích.
* Gông đóng, xiềng mang, dạ nguyện kinh
Trên đường ra tỉnh Nam Định, một kỳ mục trong làng bàn luận với ông Lý xin nộp tiền chuộc để ông được về, ông Lý từ chối : "Xin cám ơn lòng tốt của dân làng, nên để tiền đó giúp vợ con tôi và mở tiệc mừng khi đưa thi hài tôi về". Trong ba người bị bắt, vì biết không thể dùng áp lực lay chuyển đức tin của cha Mai Năm, nên quan không thúc ép nhiều. Với ông trùm Đích đã 70 tuổi già sức yếu thì quan cũng nương tay. Riêng ông Lý Mỹ, đang tuổi cường tráng, lại nói năng lưu loát, nên quan dùng đủ các phương thế dụ ông chối đạo : - Anh còn trẻ trung, thông minh sắc sảo, dân chúng đều quý sao anh lại dại khờ không bước qua Thập Tự ?
Ông Lý đáp : - Trước khi tôi sinh ra, đã có dân chúng. Vậy khi đó, ai lãnh đạo ? Nên tôi không vì thế mà làm theo lời quan được.
- Anh không thương người vợ hiền với đàn con sao ?
- Thiên Chúa chao phó người vợ và con cái cho tôi săn sóc khi tôi có thể, nên tôi không thể chối bỏ. Giá như có ai nói quan lớn đạp đầu Đức Vua đã ban chức trọng cho quan, ắt hẳn quan chẳng dám làm, thì tôi đây lẽ nào giám cả gan đạp ảnh Chúa tôi thờ kính…
Quan Tổng đốc nổi giận truyền đánh đòn ông Lý nhiều lần, tính tổng cộng trong suốt thời gian bị giam giữ, ông Lý phải chịu đến 500 roi, kể cả ba lần chịu đòn thay cho nhạc phụ. Nhìn ông trùm Đích tuổi già, sức yếu, ông Lý ngày đên lo lắng, thiết tha cầu khẩn Thiên Chúa trợ giúp ban ơn cho nhạc phụ vững tin cho đến giờ phút cuối cùng. Ông Lý thường khuyến khích nhạc phụ :
"Cha đã tuổi cao sức yếu, chẳng sống được bao lâu nữa, nếu không chết vì đạo thì cũng chết vì bệnh, nhưng nếu tử đạo, sẽ làm vinh danh Thiên Chúa và được hạnh phúc Thiên Đàng. Cha đừng luyến tiếc sống thêm ít ngày, con đây còn khỏe mạnh, đời còn dài, vợ trẻ với đàn con thơ dại thật đáng yêu đáng quý, nhưng con tin Thiên Chúa sẽ lo liệu thật tốt đẹp cho chúng. Hơn nữa khi cha con ta được lên Thiên Đàng, sẽ cầu bầu trước nhan Thiên Chúa thì có ích hơn cho cả gia đình dòng tộc. Cha đừng lo về những hình khổ phải chịu, con sẽ chịu đòn thay cho cha hết thảy. Cha hãy can đảm làm chứng và sẵn lòng chết vì yêu mến Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết vì chúng ta…"
Quả thực, mỗi lần quan truyền đánh đòn ông trùm Đích thì ông Lý Mỹ đứng lên thưa : "Cha tôi đã già nua tuổi tác, xin quan lớn tha cho, tôi xin chịu đòn thay". Quan lớn thấy ông có lòng hiếu kính, nên chấp thuận đề nghị ấy. Ông Lý chịu đòn gấp hai lần nê y phục rách nát, thân mình đầm đìa những máu, tứ chi bầm tím khắp nơi. Ông còn phải mang gông xiềng nặng hơn, bị cùm xiết chặt hơn, khiến càng thêm đau đớn khủng khiếp, nhưng vị chứng nhân Chúa Kitô luôn tỏ ra hân hoan vui mừng, không một lời oán thán :
"Vai mang bốn điệp, tai thêm ấm,
xổng xểnh ba vòng, cổ lại thanh".
* Cuộc giã từ rơi lệ
Người con gái ông Lý, cô Mỹ tuy mới 12 tuổi, cũng lén mẹ ra tỉnh tìm cách qua ba lần cửa có lính gác, vào thưa với cha : "Xin cha cam đảm chịu chết vì Chúa". Cậu Tường mới 9 tuổi, con trai ông Lý Mỹ, không đi xa được, cậu cũng cố gắng nài nỉ dân làng đi thăm chuyển lời đến ông: "Cha đừng lo cho chúng con, cha hãy an tâm vững lòng xưng đạo và chịu chết vì đạo". Bà Lý bồng con mới sinh được mấy tháng ra thăm chồng, trao con cho chồng ẵm một lúc, bà thấy những cực hình chồng phải chịu, bà không cầm được nước mắt, bà nói trong nghẹn ngào :
"Vợ con ai mà chẳng thương chẳng tiếc, nhưng ông hãy hy sinh vác Thánh Giá rất nặng vì Chúa, hãy trung thành với Chúa cho đến cùng, đừng lo nghĩ về mẹ con tôi. Thiên Chúa sẽ quan phòng tất cả. Đến thăm ông lần này có lẽ là lần sau hết, cầu xin Chúa cho ông vâng theo thánh ý Chúa".
Ông Lý Mỹ lòng đau như cắt. Ông biết rằng sự ra đi của ông sẽ là nỗi thương đau vô cùng cho vợ con, nhưng vững tin vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, ông bình tĩnh an ủi vợ: "Lời bà khuyên nhủ đốt thêm lửa kính mến Chúa trong lòng tôi, bà đem con về săn sóc chúng thay tôi, sớm tối cầu nguyện ngày sau gặp bà và các con chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi quê thật là nước Thiên Đàng".
Nhờ lời khích lệ của vợ con, ông Lý như được tăng thêm sức mạnh, nên càng vững lòng tin hơn, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đạo Chúa. Có lần một vài phu tuần làng Kẻ Vĩnh vì mộ mến ông, khuyên ông qúa khóa để trở về coi sóc dân làng như trước, ông liền mắng họ: "Ai bảo các anh đến thăm tôi và nói những lời sai trái như vậy, bây giờ tôi về thì các anh sẽ khóc, nhưng khi đưa thi hài tôi về làng thì các anh sẽ ăn mừng".
* Say vì đạo, hả vì tình
Suốt một tháng trời, quan vừa hành hạ vừa khuyên dụ ông Lý Mỹ bước qua Thánh Giá không thành công, dù phải những trận đòn tan xương nát thịt, dù gông cùm, xiềng xích nặng nề đau buốt thịt xương, vị chứng nhân Chúa Kitô vẫn một lòng kiên trung với đức tin. Quan làm án tâu về kinh :
"Nguyễn Huy Mỹ, làm Lý trưởng làng Kẻ Vĩnh, can tôi theo đạo Gia Tô triều đình nghiêm cấm, cùng với Nguyễn Đích là nhạc phụ, chứa chấp đạo trưởng Mai Năm trong nhà. Đã khuyên dụ nhiều lần chối đạo nhưng chúng không chịu quá khóa, nên luận phải xử trảm ba người đó để làm gương cho dân chúng".
Ngày 12,08.1838, được tin vua Minh Mạng đã châu phê y như án nghị, cả ba tông đồ Chúa vui mừng hớn hở chuẩn bị tâm hồn lãnh bí tích giải tội và rước Mình Thánh Chúa cách sốt sáng. Các ông hân hoan bước đến nơi xử, vừa đi vừa hát kinh tạ ơn Chúa. Dọc đường ông Cả Tú (là anh em thúc bá với ông Lý Mỹ) khích lệ: Anh Lý ! Hãy vững tâm nhé". Ông Lý Mỹ đáp lại: "Anh cả yên chí, đừng lo, tôi không sợ đâu".
Đến pháp trường Bảy Mẫu, ba vị chứng nhân quỳ xuống cầu nguyện một lúc. Ông Lý Mỹ xin xử cha Giacôbê Mai Năm và ông Antôn Nguyễn Đích trước, quan chấp thuận. Ông Lý Mỹ bị chém sau cùng.
Thi hài của ba vị tử đạo được rước về làng Kẻ Vĩnh ngay trong đêm đó. dân chúng vui mừng đốt đèn đuốc đón rước cách trọng thể, đúng như lời tiên báo của ông Lý Mỹ.
Ông Micae Lý Mỹ lãnh phúc tử đạo, chiến thắng tất cả những thử thách cực hình nhờ tình yêu tuyệt đối vào Chúa Giêsu Kitô và với tinh thần đạo đức say mê giáo lý Tin Mừng của Ngài. Tình yêu và tinh thần được vun trồng ngay từ thời niên thiếu phát triển theo thời gian đến tuổi trưởng thành, và cho đến giờ phút quyết liệt nhất của cuộc đời, bằng một tình yêu tuyệt đỉnh, ông Lý Mỹ xứng đáng lãnh nhận phần thưởng trọng hậu Thiên Chúa trao ban : Khải hoàn Thiên Quốc với cành lá tử đạo.
Ông Micae Lý Mỹ thực là con người chí hiếu của người cha dưới thế cũng như Cha trên trời.
Đức Lêo XIII suy tôn lên hàng Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.



Ngày 12/08 -1781-1838 Linh Mục Giacôbê Đỗ Mai Năm Tử Đạo
* Như chuyện bình thường.
Nghe tin quan tuần phủ đến làng, cha Đỗ Mai Năm thắt lưng, xắn quần định trà trộn vào đám dân chúng đi làm cơm cho quan ăn. Nhưng chưa kịp ra khỏi nhà thì quân lính đến, khi thấy ông cụ trắng trẻo, râu dài, họ chặn lại hỏi: “ Ông là ai?” Cha Năm vui vẻ trả lời: “ Tôi là người nhà này” Ngay lúc đó hai tên Tý và Xuân được quan thuê đi dò thám nơi ở của các đạo trưởng, trước đã giả xin việc làm trong nhà ông Lý Mỷ, liền đến chỉ vào cha và nói to: “ Đúng đạo trưởng ở nhà này đây” Vẫn cũng vọng điềm tĩnh như mọi khi, cha Năm khẳng khái trả lời: “ Phải chính tôi đây”. Thế là cha bị bắt. Bị bắtmột cách bình thản, như cuộc đời cha vốn bình thản, hay có thể nói cha bị bắt một cách vui vẻ, tự nhiên như không có việc vì xảy ra, cũng như thường ngày trong đời sống của cha vậy.
* Bình dân và nhân ái
Giacôbê Ðỗ Mai Năm, Sinh năm 1781 làng tại Ðông Biên, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, Linh mục, bị xử trảm ngày 12/08/1838 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho cha Giacôbê Đỗ Văn Năm ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 12/08.
Nghe tin quan Tuần phủ đến làng, cha Đỗ Mai Năm thắt lưng, xắn quần định trà trộn vào đám dân chúng đi làm cơm cho quan ăn. Nhưng chựa kịp ra khỏi nhà thì quân lính đến. Khi thấy ông cụ trắng trẻo, râu dài, họ chặn lại hỏi : "Ông là ai ?" Cha năm vui vẻ trả lời: "Tôi là người nhà này". Ngay lúc ấy hai người tên Tỷ và Xuân được quan thuê đi dò thám nơi ở của các đạo trưởng, trước đã giả xin làm việc trong nhà ông Lý Mỹ, liền đến chỉ vào cha và kêu lên: "Đúng đạo trưởng ở nhà này đây". Vẫn cũng giọng điềm tĩnh như mọi khi, cha Năm khẳng khái trả lời : "Phải chính tôi đây".
Thế là cha bị bắt. Bị bắt một cách bình thản như cuộc đời cha vốn bình thản. Hay có thể nói, cha bị bắt một cách vui vẻ, tự nhiên như công việc vẫn xảy ra thường ngày trong đời sống của cha vậy.
Giacôbê Đỗ Văn Năm, tên trong sổ là Mai Ngũ, sinh năm 1781, tại làng Đông Biên, Huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Cậu Ngũ vào nhà Đức Chúa Trời từ nhỏ, sau đó học tiếng Latinh ở chủng viện Vĩnh trị, khi thành thày giảng thì ở lại giúp chủng viện luôn. Thày Năm hiền hòa, vui vẻ nên trẻ em rất mến và thích thày. Sau đó ít năm, thầy được đi học thêm thần học và thụ phong linh mục năm 32 tuổi. Cha Năm đi giúp các xứ đạo đây đó, sau lại về giúp nhà trường Vĩnh Trị khoảng năm 1830.
Từ khi vua Minh Mạng cấm đạo toàn quốc, chủng viện bị giải tán, cha Năm phải đi ẩn trốn ở nhà các tín hữu. Cha ở nhà ông Trùm Tôn ba năm, họ Kẻ Nguồi, lần khác tại nhà ông Trùm Đích làng Vĩnh Trị. Trong thời gian ẩn trú như thế, cha Năm đã sống rất hòa mình vui vẻ với mọi người. Cha hay kể truyện cho trẻ em hoặc cùng với các chủng sinh giúp nhổ cỏ ruộng cho chủ nhà, cha làm các việc nhỏ mọn chẳng phiền hà bao giờ. Đặc biệt, cha yêu thương săn sóc những người nghèo. Tất cả những gì nhận được, cha thường dành dụm cho họ.
Có người báo cáo làng Vĩnh Trị chứa chấp đạo trưởng. Quan cho lính đến vây làng, bắt được cha Năm cùng với ông Trùm Đích, và con rể ông là ông Lý Mỹ. Cha bị tống giam vào ngục Nam Định.


* Gan vàng dạ sắt
Trước mặt quan, khi được khuyên nhủ bỏ đạo, cha Năm khẳng khái thưa: "Tôi là đạo trưởng làm sao dám bỏ đạo hay đạp ảnh tượng tôi tôn kính được. Tôi vốn khuyên dạy người ta phải giữ đạo vững vàng, thà chết không bỏ đạo thì tôi phải giữ lời tôi đã khuyên dạy kẻ khác chứ. Nếu đạo trưởng mà không dám chịu chết vì đạo thì còn ai chịu chết vì đạo nữa".
Sau nhiều lần khuyên dụ, biết không làm cha đổi ý được, các quan không tra khảo gì thêm nữa, để cho cha được dễ dàng đi lại, gặp gỡ các bạn tù, nhờ đó cha an ủi, khuyến khích được người trong tù, ban phát bí tích cho họ. Nhất là động viên ông Trùm Đích bị bắt cùng với cha, ông đã luống tuổi và rất sợ hãi khổ hình, cha nói : "Nhờ ơn Chúa giúp sức thì các khổ hình đau đớn thế nào, chúng ta cũng chịu được". cha nhắc đến gương thánh Laurensô bị nung trên giường sắt, mà vẫn vững tin đến cùng.
Án xử được châu phê. Ngày 22.08 cha Giacôbê Năm cùng với ông Trùm Antôn Đích, ông Micae Lý Mỹ được phúc tử đạo tại pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định. Cha Giacôbê Năm khi đó được 57 tuổi, thi hành tác vụ linh mục được 25 năm.
* Như ngọn đèn luôn tỏ sáng
Suốt cuộc đời, cha Năm luôn sống hiền hòa, bình dị, thoải mái như cái tên Năm bình dị. Cuộc đời thầy giảng Năm đầy vui vẻ, và cuộc đời linh mục Năm hoàn toàn giản đơn. Sự đơn giản thoải mái đó, không do hoàn cảnh may mắn dễ dàng, không do điều kiện bên ngoài, nhưng do chính tâm hồn tràn đầy tình yêu Thiên Chúa của cha. Cuộc đời xuề xòa vui vẻ của cha đã tỏa trên những người xung quanh cha thứ ánh sáng tuyệt vời của Đức Kitô, Đấng cao cả như thế, mà khi đến trần gian đã luôn sống hiền hòa khiêm tốn, vui với trẻ thơ và vui sống với người cùng khổ.
Trong tình huống "dầu sôi lửa bỏng" lúc đó, chắc chắn lễ mừng ngân khánh linh mục của cha nếu có, cũng chỉ thật âm thầm lặng lẽ. Nhưng diễn phúc cha, vì Thiên Chúa đã đưa người tôi tớ chung tín về nước Trời. Và khỏi phải nói, không một ngân khánh của ai trên trần gian có thể huy hoàng, long trọng để so sánh được với lễ ngân khánh của cha trên Thiên Quốc.
Thi hài ba vị tử đạo được đưa về an táng tại Vĩnh Trị, dân làng kéo chuông, đốt đuốc, đón rước cách long trọng. Sau được đưa về nhà chung ở xứ Kẻ Sở.
Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho cha Giacôbê Đỗ Văn Năm ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

1 nhận xét: