Thứ Tư, 29 tháng 4, 2015

Ngày 01/05/1822-1851 Kính Nhớ Thánh Augustinô Schoeffer (Cha cố Đông) Tử đạo.


Thánh Augustinô Schoeffer Cha cố Đông

*Bị bắt sau khi giảng tuần làm phúc tại Nỗ Lực. Một phần hài cốt được lưu giữ tại nhà thờ Nỗ Lực và Cao Mại
* Ơn gọi loan báo tin mừng!
Augustinô Đông sinh ngày 22-11-1822 tại Mittelbronn tỉnh Lorraine, nước Pháp. Từ bé, cậu đã tỏ ra là một người đạo đức, chăm học, siêng năng cầu nguyện và có ý hướng đi tu. Cha xứ nhận đỡ đầu và đưa vào chủng viện giáo phận Nancy. Trong chủng viện cậu tuân giữ đúng đắn kỷ luật, vâng lời bề trên, hoà thuận với bạn bè và học hành xuất sắc, nên được mọi người yêu mến. Sau khi học triết học và năm thứ nhất thần học, thầy Augustinô Đông cảm thấy Chúa kêu gọi mình đi truyền giáo nên xin phép ba mẹ chuyển qua hội Thừa Sai Paris.
Thời gian đó, những tin tức về công cuộc truyền giáo ở Đông Nam Á gởi về không được sáng sủa. Đi truyền giáo như đi vào cỏi chết. Do đó song thân thầy cố sức ngăn cản. Ông bà nói nhiều lời nặng nề khiển trách con không vâng lời. Augustinô Đông đắn đo nhiều nhưng căn cứ vào lời Chúa: “Ai yêu cha mẹ hơn thầy thì không đáng làm môn đệ thầy.” (Mt.10,37). Augustinô Đông quyết định gia nhập hội Thừa Sai Paris dù cha mẹ không đồng ý. Khi đó thầy viết thư cho một người bạn: “Than ôi, để theo chân Chúa Giêsu vất vả quá, vướng đường nọ mắc đường kia”. Người bạn đó nhắn nhủ: “Việc giảng đạo là việc quan trọng, nếu tự ý làm mà không được Chúa gọi thì nguy cơ mất linh hồn đó”. Thầy trả lời: “Xin đừng quên lời Kinh Thánh: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta.”
* Không để ai liên luỵ.
Gia nhập hội Thừa Sai ngày 09-10-1846 thì ngày 29-05-1847, thầy Augustinô Đông được thụ phong linh mục. Sau đó được gởi đến giáo phận Tây Đàng Ngoài. Đức Cha Retordd Liêu, vui mừng đón tiếp giữ cha lại trụ sở học tiếng và phong tục Việt Nam, rồi cho cha tháp tùng trong các cuộc kinh lý để hiểu rõ tình hình hơn. Sau đó cử cha lên coi xứ Đoài. Trong nhiệm sở mới cha Đông tích cực làm việc mục vụ và truyền giáo, số người trở lại ngày càng nhiều. Khi vua Tự Đức ra chiếu chỉ cấm đạo năm 1848, cha nói: “Kỳ này trong chúng tôi thế nào cũng có kẻ bị chém, chớ gì người đó là tôi.” Thế nhưng cha vẫn an toàn làm việc trong ba năm.
Ngày 01-03-1851, sau khi đến giảng phòng mùa chay cho xứ Bầu Nọ, cha Đông đi đường rừng qua bản Vĩnh Mộ thì bị quân lính bắt. Thời đó cuộc nổi loạn của Hoàng Bảo (Trưởng tử của vua Thiệu Trị) mới thất bại, lính tuần dinh đang truy lùng các thành viên còn xót lại. Tín hữu Bầu Nọ cũng biết chuyện, nhưng chủ quan cho rằng lính chỉ đi lùng vào ban đêm, nên đưa cha Đông đổi chỗ giữa ban ngày, không ngờ có một tín hữu ham tiền đã đi báo cho quan. Họ bố ráp và bắt cha đang len lỏi trong rừng rậm. Một linh mục Việt và hai chú giúp lễ cũng bị bắt với Ngài.
Quan tuần phủ địa phương tuyên bố mình không có ý giải nộp vị Thừa Sai, và ra giá chuộc là một nén vàng với 100 nén bạc. Chợt hiểu ra rằng những người này dù đòi được tiền rồi, cũng nộp mình cho quan lớn như thường, nên cha nói: “Vì quý ông nhất thiết đòi tiền chuộc, hãy thả những người này về, chỉ có họ mới biết chỗ tôi để tiền”. Quan tuần tưởng thật trả tự do cho cha Việt Nam và hai chú giúp lễ. Phần cha Đông khi thấy họ đã đi xa, mới nói rõ ý muốn chỉ một mình bị bắt thôi.
Tức giận, viên quan cho giải cha lên tỉnh Sơn Tây. Dọc đường gặp một người tín hữu, cha nói: “Hãy về nói với anh chị em đừng lo sợ gì hết, dù thế nào tôi cũng không khai một ai cả”. Khi đến tỉnh các quan điều tra về quê quán, tên tuổi, đến An Nam bao lâu, cư trú những nơi nào, có biết vua cấm đạo không. Cha đáp:
“Tôi tên là Augustinô Đông, quê ở nước Pháp, năm nay 29 tuổi, tôi đến đây để giảng đạo Đức Chúa Trời. Tôi đã biết An Nam cấm đạo ngặt, nhưng tôi không sợ xử tử. Còn việc ở đâu tôi sẽ không nói, đừng hỏi nữa làm gì.”
Ngày 05-03, lại bị điệu ra tòa, cha Đông vẫn khai như cũ và cương quyết từ chối bước qua Thánh Giá, nên ngày hôm đó các quan gởi án về kinh đô: “Tên Ao-du-tinh là người Tây dám coi thường việc nước, đến đây giảng đạo dân chúng. Chiếu theo sắc chỉ Đức Vua, y phải chịu trảm quyết, bỏ đầu trôi sông. Về những kẻ chứa chấp, thần đã tra hỏi nhưng y không chịu nói. Lý trưởng và những kẻ có công, xin theo lời truyền, thưởng 30 lạng bạc. Riêng viên tuần phủ, xin thưởng thêm một số nữa”.
Tuy nhiên mãi đến tháng 04-1851, nhà vua mới châu phê bản án.
Suốt một tháng tù, cha Đông bị quản thúc rất chặt chẽ. Một thầy giả làm lính canh đến gần ngục mà vẫn không nói gì. Khi thấy cha thầy thổn thức muốn khóc nên phải vội trở ra ngoài ngay, sợ bị lộ. Một tín hữu quan hệ riêng với quan cai ngục để vào tiếp tế ít nải chuối, vô tình quan tỉnh đi ngang qua nhìn thấy, liền ra lệnh sa thải viên cai ngục đó. Tuy nhiên dù nghiêm ngặt như thế, cha Phượng cũng vào giải tội cho Ngài được một lần, nhờ giả dạng làm người bán hàng rong.
Ngày 11/04 bản án của vua ra đến Sơn Tây: “Trẫm đã cứu xét hồ sơ tây dương đạo trưởng ở Sơn Tây. Luật nước đã cấm đạo Gia-tô. Thế mà tên Ao-du-tinh vẫn cả gan vào nước ta giảng đạo lừa dối dân. Trẫm truyền trảm quyết, đầu y thì bỏ trôi sông để răn dạy kẻ khác”. Bản án xác định ngày xử là 01-05 Dương lịch, đúng ngày đầu tháng hoa dâng kính Đức Mẹ. Cha Đông nghe tin đó thì thì vui mừng quỳ xuống đất, tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã xếp đặt cho mình được tử đạo vào ngày đầu tháng Đức Mẹ.

* Ngày khải hoàn.
Ngày xử diễn ra như một ngày hội, cha Đông đi chính giữa, hai bên là 8 binh sĩ tay cầm gươm sáng loáng, phía trước là hai hàng lính, mỗi hàng 50 người, một hàng cầm súng hàng kia cầm giáo. Khi có hiệu lệnh, lính ở hai hàng bắt chéo súng và nhau làm thành một cổng chào. Phía sau có hai thớt voi trận chở hai quan giám sát. Vị chứng nhân đi giữa hàng rước, cười tươi tỉnh như ngày khải hoàn. Cổ mang gông, đầu ngẩng cao, hai tay ôm xích sắt để khỏi vướng, cha thỉnh thoảng nhắm mắt lại để cầu nguyện. Đức cha Retord Liêu sau này đã phải kêu lên: “Đẹp biết bao cái chết của vị tử đạo !”. Hầu hết mọi người hiện diện hôm đó bao quanh cha đều sửng sốt và thán phục.
Khi đến nơi xử, pháp trường năm Mẫu, cha Đông quỳ xuống cầu nguyện một lát, rồi cầm thánh giá đeo trên cổ một cách cung kính hôn ba lần, đoạn cởi áo đưa đầu cho lý hình và nói: “Anh làm nhiệm vụ nhanh lên”. Quan giám sát nghe thấy cản lại: “Không được phải chờ đến hồi chiêng thứ ba mới được chém”. Hôm đó người lý hình run sợ quá, nên chém ba nhát mà vẫn chưa đứt. Phải lấy gươm cắt phần thịt còn lại. Đầu vị tử đạo bị bỏ trôi sông mất tích. Thi thể ngài được chôn cất tại chỗ, sau hai đêm tín hữu cải lên đem về an táng ở họ Bách Lộc.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII suy tôn cha Augustinô Đông lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh ngày 19-06-1988.

Ngày 01/05/1824-1852 Kính Nhớ Thánh Gioan Louis Bonnard (Cha cố Luy Hương) Tử đạo.

Thánh Gioan Louis Bonnard Cha cố Luy Hương

Gioan Lu-i Bô-na Hương, linh mục thừa sai Paris; sinh 1824 tại Saint-Christo-em-Jarez, Pháp; chết 01/05/1852 tại Nam Ðịnh. Ngài trực thuộc vào Hội Thứa Sai Ba Lê trong khi hoạt động tại Trung Phần, bị xử trảm ngày 01/05/1852 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức. Ngày 27-05-1900, Đức Lêô thứ VIII suy tôn cha Gioan Louis Bonnard Hương lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính ngày 01 tháng 05
* Quê hương và trầm hương.
Cuộc đời thánh Louis Hương, và nhất là cuộc tử đạo của Ngài gắn liền với tên gọi đã được Đức Cha Retordd Liêu đặt cho khi mới tới Việt Nam. Chúng ta có thể thấy rõ ý của vị giám mục qua lá thư gởi cho thánh nhân ở trong tù.
"… Tôi đã chúc lành cho cha khi đặt cho cha danh xưng đẹp đẽ CỐ HƯƠNG, nghĩa là người cha của quê hương là hương trầm và là hương thơm. Chính lúc này đây quê hương yêu dấu đó đang xuất hiện cho cha trong ánh huy hoàng, vì cha sắp là một trong những công dân hạnh phúc. Chính lúc này đây hương trầm chuẩn bị đốt lên trên bàn thờ tử đạo và bay đến tận ngai Đấng Vĩnh Cửu, chính lúc này đây hương thơm đáng ca ngợi sẽ làm hài lòng Đức Giêsu như bình hương của cô Malađêna, sẽ làm cho Thiên Thần và loài người, trời và đất hân hoan vì hương vị ngọt ngào của nó."
Vậy đó, suốt đời thánh nhân đã rao giảng về quê hương trên trời, đã chịu đốt cháy trong lao khổ và tỏa hương thơm ngào ngạt cho ngàn muôn thế hệ.
Gioan Louis Bonnard sinh ngày 01-03-1824 tại St. Chisrtoten-Jarret, giáo phận Lyon, nước Pháp. Năm 12 tuổi, cha mẹ lo liệu cho cậu vào chủng viện Alixe. Tuy học hành không xuất sắc, cậu được mọi người mến thương vì tính hiền lành và đời sống đạo đức. Trong thời gian này, cậu được nghe nhiều tin tức và mẫu gương truyền giáo ở vùng Viễn Đông, nên cũng ước ao sang Việt Nam giảng đạo. Ngày 04-11-1846, Bonnard xin vào hội Thừa Sai Paris hoàn tất chương trình thần học và thụ phong linh mục ngày 14-12-1848. Đầu năm 1849, cha Bonnard lên đường sang Việt Nam.
Khi vừa đến Phố Mới (Singapour), các bề trên định cử cha sang Ai Lao. Nhưng vì đường bộ không thể đi được, cha phải vòng về Hương Cảng tìm đường khác. Cuối cùng các bề trên quyết định bổ nhiệm cha vào Giáo phận Tây Đàng Ngoài. Đức Cha Liêu đón tiếp cha ân cần, đặt tên mới là Hương và tạo điều kiện học ngôn ngữ và phong tục ngôn ngữ Việt Nam.
* Trái chín của trời cao.
Sau đó Đức Cha đặt cha Hương coi hai xứ Kẻ Trình và Kẻ Báng. Mùa chay 1852, cha mời 5 linh mục Việt Nam đến giảng phòng cho xứ Kẻ Báng, nhiều tín hữu ở chung quanh cũng đến dự. Cuối tuần tĩnh tâm, một số tín hữu ở họ Bối Xuyên mời cha Hương về giúp cho xứ của mình. Khi đó vua Tự Đức đã ra chiếu chỉ cấm đạo gay gắt, nên cha lưỡng lự mãi nhận lời. Ngày 21-03-1852 tại Bối Xuyên, sau khi dâng lễ cha ban bí tích rửa tội và làm nghi lễ bù cho một số trẻ em thì thấy quân lính đến bao vây làng. Một viên quan bị cách chức muốn lập công, đã báo tin cho quan huyện biết. Cha Hương vội cởi áo lễ, chạy băng qua đồng lúa, nhưng vì nước ngập đến thắt lưng nên không thoát kịp và bị bắt. Trên đường áp giải cha về huyện, quân lính đi nhanh quá cha nói với họ rằng : "Anh nào gấp cứ đi trước, còn tôi lúc nào đến cũng được, chẳng có gì phải vội" lính mới đi chậm lại.
Đức cha Liêu nghe tin cha bị bắt liền cho người đem tiền đến chuộc, nhưng quan huyện không tiếp. Đức cha gởi thư cho cha Hương như sau :
"Theo tính tự nhiên, việc cha bị bắt làm tôi buồn phiền quá đỗi. Tôi rất đau lòng khi bị mất cha, đang lúc cha có thể đảm trách những nhiệm vụ lớn lao cho miền truyền giáo. Có thể thấy rõ rằng cha được hạnh phúc là người con rất yêu dấu của Đức Kito khổ nạn, nếu không nghĩ như thế, tôi muốn khiển trách cha. Tại sao đang ở một nơi có thể phục vụ đắc lực hơn nữa, cha bỏ Kẻ Báng để chui đầu ngõ cụt Bối Xuyên?"
"Tại Kẻ Báng, cha đã gặt hái biết bao nhiêu thành quả. Những bó lúa chín vàng ở đây thật nhiều, thật nặng với những hạt lúa chắc nịch. Tại đây cha đã ép cho Chúa Cha tràn lan thứ rượu nho là các nhân đức… Thôi, tôi sẵn sàng tha thứ cho cha, vì chính Thiên Chúa đã muốn thế. Dưới mắt Ngài cha là trái cây chín mọng giữa trời cao, trái cây sắp được Ngài hái về…."
* Ngọt ngào biết bao đau khổ vì Đức Kitô
Quan huyện chỉ giam giữ cha một đêm, sáng sớm hôm sau cho áp giải Ngài đến Nam Định. Hơn một tháng tù cha bị đưa ra tra khảo bốn lần. Cũng như các vị thừa sai khác, quan Tổng Đốc hỏi cha về tên tuổi, quê quán, lý do đến và những gì làm tại Việt Nam . nhiều lần các quan đã hỏi những nơi cha đã đi qua hay đã trú ngụ, và dọa đánh đòn nếu không khai. Cha đáp : "Các ngài muốn đánh thì cứ đánh, chư đừng mong tìm được một lời có hại đến tín hữu. Tôi đến đây để phục vụ cho đến chết. Các ngài sẽ lầm to nếu tôi tiết lộ điều gì dù rất nhỏ". Khi các quan nói cha đạp lên Thánh Giá và dọa kết án tử hình, cha trả lời : "Tôi đã nói tôi không sợ đòn đánh hoặc cái chết, tôi sẵn sàng chịu tất cả…. Tôi không đến đây để chối đạo, hay làm gương xấu cho các Kitô hữu.."


* Trong một lá thư cha Hương tâm sự rằng :
"Nói chung trong mọi cuộc khảo cung, tôi có kinh nghiệm cụ thể hiệu lực lời Đức kitô : ‘Các con đừng sợ phải trả lời những gì các quan trần thế, Chúa Thánh Linh sẽ nói thay các con’. (Mt.10,20). Thực vậy tôi không thấy bối rối chút nào, không thấy sợ gì và chưa bao giờ tôi nói tiếng Việt Nam dễ dàng và lưu loát như thế".
Thứ sáu tuần thánh năm đó, Đức Cha Liêu tìm gởi cha Lê Bảo Tịnh vào ngục giải tội và đưa mình thánh. Cha Hương tâm sự : "Đã lâu chưa bao giờ tôi vui đến thế, khi mang trong mình vua các Thiên Thần. Quả thật phải vô tù mang gông xiềng để hiểu được việc chịu đau khổ vì Đức Kitô Đấng chúng ta hằng yêu mến, thật ngọt ngào biết bao. Các bạn tưởng gông cùm của tôi nặng lắm sao ? Ồ, không ngược lại tôi thấy vui mừng vì có thể nói như thánh Phaolô : "Người tù của Đức Kitô’.
Cha Hương cũng viết tư an ủi song thân rằng : "Cha mẹ đừng buồn khi hay tin con bị bắt giam và đổ máu vì Đức Kitô. Cha mẹ có yêu con thì hãy vui mừng vì được phúc trọng ấy… sẽ có ngày cha mẹ và con đoàn tụ trên Thiên Đàng, khi đó chẳng còn lo phải xa cách nhau nữa."
Về phần các quan, thấy không làm được cha xuất giáo thì viết án gởi về kinh đô rằng : "Chúng thần đã tra khảo nhiều lần nhưng y không chịu khai gì cả. Không cần kéo dài vụ án nữa, đây là tên mọi Tây một loại trọng phạm, hiển nhiên là đáng bị tử hình…"
Nhận được tin về bản án, Đức Cha Liêu viết vào tù :
"Xin cha cứ bình an… Tôi sẽ săn sóc đặc biệt những bạn tù và những tín hữu của cha. Tôi sẽ là một người cha nhân từ của họ… Cha xin tôi ban phép lành, nhưng tôi đã chúc lành cho cha từ ngày cha mới đến, ơn lành đó vẫn ở với cha đến muôn đời, phải tôi đã chúc lành cho cha khi đặt tên cha là "CỐ HƯƠNG’… Nguyện xin sức mạnh của Chúa cha nâng đỡ cha trên đấu trường cha sắp bước vào. Nguyện xin công nghiệp Chúa Con an ủi cha trên đồi Canvê cha sắp bước lên. Và nguyện xin tình yêu Chúa Thánh Thần sưởi ấm cha trong ngục tù, nơi cha sẽ khởi hành đi đón nhận nghành vạn tuế tử đạo"
* Trong tay ngài, lạy chúa !
Và đây là bản di chúc của vị chứng nhân : "Giờ long trọng đã điểm. Vĩnh biệt, xin chào tất cả mọi người đã thương mến và nhớ đến tôi. Xin hẹn gặp nhau trên trời… trông cậy vào lòng nhân từ của Đức Kitô, tôi tin Ngài tha thứ muôn vàn tội lỗi cho tôi, tôi tự nguyện hiến dâng mạng sống và máu vì yêu thương Người và vì những linh hồn yêu dấu mà tôi muốn phục vụ hết mình. Ngày mai thứ 7, ngày 01-05, lễ thánh Philiphê và Giacôbê Tông Đồ, giáp năm ngày sinh nhật trên trời của cha Đông, tôi nghĩ sẽ là ngày hiến tế của tôi. Xin cho ý Chúa được thể hiện. Tôi vui lòng chịu chết. Xin chúc tụng Chúa. Xin chào tất cả trong Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Trong tay Ngài lạy Chúa xin phó thác linh hồn con ngừơi tù của Đức Kitô".
Sáng ngày 01-05-1852, cha Hương rước lễ lần cuối, vui vẻ theo quân lính ra pháp trường Bảy Mẫu, cách đó một dặm rưỡi về phía Nam. Đến nơi cha quỳ trên chiếu cầu nguyện. Cha phải chờ mộr giờ đồng hồ, vì quân lính quên mang dụng cụ tháo gông, phải chạy vền nhà kiếm. Sau đó họ trói vị chứng nhân vào cọc. Theo hiệu chiêng trống, lính chém đầu cha rơi trên cát. Dân chúng ùa vào thấm máu làm kỷ niệm, nhưng lính dùng roi đuổi tất cả ra xa, sau đó họ lấy áo ngoài, áo lót và hai ống quần cắt ra làm nhiều mảnh bán cho dân. Thân mình và đầu tử đạo được đưa lên thuyền bỏ trôi sông. Đức cha Liêu đã cho người đi một chiếc thuyền lảng vảng gần đó kịp thời vớt đưa về Vĩnh Trị. Đêm đó Đức Cha và vài linh mục âm thầm dâng lễ và an táng vị tử đạo trong chủng viện.
Ngày 27-05-1900, Đức Lêô thứ VIII suy tôn cha Gioan Louis Bonnard Hương lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét