Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2014

Thứ Hai Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Bổn Mạng Hội Thánh Việt Nam Lễ trọng.



Lời Chúa: Ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
“ Ha-lê-lui-a. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính. Ha-lê-lui-a.”
Ca khúc lên Đền Thánh Chúa
Khi Chúa dẫn tù nhân Xi-on trở về
ta tưởng mình như giữa giấc mơ
Vang vang ngoài miệng câu cười nói
rộn rã trên môi khúc nhạc mừng
Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán
"Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay !”
Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại !
Ta thấy mình chan chứa một niềm vui
Lạy Chúa xin dẫn tù nhân chúng con về
như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam
Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng
Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo
lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng .
                                                


 Ngày 24/11 – Các thánh tử đạo Việt Nam
Thánh Anrê Phú Yên là một trong hàng trăm ngàn vị tử đạo Việt Nam trong những năm từ 1820 tới 1862. Có 117 vị được phong chân phước vào 4 dịp trong những năm từ 1900 tới 1951. Và chân phước GH Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị này lên bậc hiển thánh.
Công giáo đã đến Việt Nam qua người Bồ Đào Nha, lúc đó còn tách là Đàng trong và Đàng ngoài). Các linh mục Dòng Tên đã lập Hội truyền giáo đầu tiên tại Đà Nẵng năm 1615. các vị tử đạo đã bị nhà vua bắt, bội giáo bằng cách đạp lên Thánh giá, nhưng tất cả đều son sắt niềm tin, không tham sống mà chối bỏ Chúa.
Có 3 đợt bách hại dữ dội hồi thế kỷ XIX. Trong 60 năm kể từ năm 1820, có khoảng từ 100.000 tới 300.000 người Công giáo bị giết hoặc chịu đau khổ. Các nhà truyền giáo ngoại quốc tử đạo trong đợt đầu gồm các linh mục thuộc Hội Truyền giáo Paris (Paris Mission Society), các linh mục Dòng Đa Minh Tây Ban Nha và các thành viên Dòng Ba Đa Minh. Năm 1847, cuộc bách hại lại nổ ra khi nhà vua nghi ngờ các nhà truyền giáo ngoại quốc và các tín hữu Việt Nam muốn nổi loạn.
Các vị tử đạo cuối cùng là 17 giáo dân, có một vị mới 9 tuổi, bị hành quyết năm 1862. Cũng chính năm này có hiệp ước tự do tôn giáo giữa Pháp quốc và Việt Nam, nhưng vẫn chưa hết bách hại. Năm 1954, có hơn 1.500.000 người Công giáo miền Bắc – chiếm 7% dân số hồi đó. Phật giáo chiếm khoảng 60%. Cuộc bách hại dai dẳng khiến 670.000 người Công giáo phải rời bỏ quê hương xứ sở để vào miền Nam. Năm 1964, miền Bắc vẫn còn 833.000 người Công giáo nhưng nhiều người phải bị tù đày. Tại miền Nam, người Công giáo được tự do tôn giáo trong những thập niên đầu của những thế kỷ qua, họ sống như những người tỵ nạn. Trong thời chiến tranh Việt Nam, người Công giáo lại bị bách hại ở miền Bắc và lại phải chuyển vào miền Nam rất đông.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét