* Lời
kinh và ước vọng
Lạy
Chúa Giêsu rất dịu hiền là cha của lòng con. Xin Chúa vì cuộc tử nạn thánh, vì
công nghiệp và lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin đoái thương đến bác của con, Đưc Giám
mục Đaminh. Xin gìn giữ bác khỏi mọi sự dữ. Xin cho bác yêu Chúa thiết tha,
trung thành phục vụ Chúa suốt cuộc đời. Và nếu cần để tôn vinh và làm hiển danh
Chúa hơn, xin cho bác được phúc đổ máu mình và hiến dâng mạng sống cho tình yêu
Chúa để làm chứng cho đức tin. Amen.”
Đó
là lời kinh mà Đức Cha Minh từ miền truyền giáo Việt Nam đã soạn gửi về quê nhà
cho cháu mới năm tuổi đọc cầu cho bác. Cô bé đã dâng lời nguyện đó hằng ngày,
dù em biết rất ít về người bác mình. Khi bà con lối xóm hởi em về ông bác giám
mục, em chỉ biết thưa: “Bác tên Đaminh, tu dòng Đaminh, đang truyền giáo ở xa,
thật xa, nơi mà người ta đang tàn sát các Kitô Hữu”. Và chúa đã nhận lời khẩn
xin tha thiết của hai bác cháu tại hai phương trời xa xăm đó.
* Theo tiếng
gọi truyền giáo.
Đaminh
Henares sinh ngày 19.12.1765 tại làng Baena, giáo phận Cordoda, nước Tây Ban
Nha. Một vài năm sau, gia đình dọn về Granada, nơi cậu đã lớn lên và theo học
các lớp phổ thông, được thừa hưởng nơi người mẹ lòng đạo đức sốt sắn, Đaminh
Henares đã biết cách phát triển nó một cách tuyệt vời.Trong khu phố, các phụ
huynh thường nhắc đến cậu như một mẫu gương cho con cái mình. Còn bản thân cậu,
càng ngày càng sôi sục trong lòng tiếng Chúa kêu gọi vào đời sống tu trì. Năm
16 tuổi, Henares xin nhập dòng tu Đaminh ở tỉnh Granada. Nhưng mãi đến ngày
30.08.1783, cậu mới được lãnh tu phục dòng tại tu viện Guadix (18 tuổi), năm
sau thì tuyên khấn và theo học triết học. Ngay từ niên khóa đầu, thầy Henares
đã tỏ ra là một sinh viên xuất sắc, nên cuối năm đó, khi thầy xin phép chuyển
qua tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi để được truyền giáo ở Việt Nam, các bề trên đều
tiếc nhớ. Thầy Đaminh đã nhận ra tiếng Chúa kêu mời qua lời cổ động khẩn thiết
của Đức cha Obelar Khâm, giáo phận Đông đàng Ngoài: Đã 15 năm giáo phận chưa thêm
được một thừa sai nào cả.
Thế
là thầy Henares liền tham gia một nhóm tu sĩ trẻ lên đường đến Phi Luật Tân dưới
sự dẫn dắt của tu sĩ Delgado. Kể từ nay cuộc đời hai vị gắn liền với nhau một cách
khăng khít. Sau hơn một năm lênh đênh trên biển cả, vượt Đại Tây Dương và Thái
Bình Dương, phái đoàn đã cập bến Manila ngày 09.07.1786. tại đây thầy Henares vừa
tiếp tục học thần học, vừa dạy văn chương cho học sinh trường Santo Tomas. Ngày
20.09.1789 thầy thụ phong linh mục và được gửi đi truyền giáo tại Bắc Việt. Khi
thuyền đến Macao, cha Henares gặp lại linh mục Delgado đã khởi hành trước một
năm nhưng vẫn chưa tới Việt Nam. Hai cha cùng với hai thừa sai khác là Vidal và
Gatillepa, cả bốn vị đã vào lãnh thổ giáo phận Đông Đàng Ngoài ngày 29.10.1790,
trong niềm hân hoan của cả giáo phận, vì khi đó chỉ còn ba vị thừa sai, mà tất
cả đều đã cao niên.
Riêng
cha Henares Minh, với tuổi trẻ 25, cha học tiếng Việt rất nhanh chóng. Sau sáu
tháng, cha đã được trao phó việc coi sóc chủng viện Tiên Chu. Trong nhiều năm,
cha kiên trì dạy các chủng sinh học tiếng Latinh và giúp họ rèn luyện các nhân
đức. Từ năm 1789, giữa cơn bách hại của vua Cảnh Thịnh, cha được tỉnh dòng ủy
nhiệm làm bề trên phụ tỉnh (cha chính) các cha dòng Đaminh tại Việt Nam. Năm
sau, khi đức cha Alonso Phê qua đời, Đức cha Delgado Y lên kế vị, cha Minh được
đặt làm cha chính của giáo phận. Ngày 09.09.1800, Đức cha Piô VII bổ nhiệm cha
làm giám mục hiệu tòa Fez và Giám mục Phó có quyền kế vị của Đức cha Delgado Y.
Nhưng tình hình Việt Nam căng thẳng, sau hai năm sắc phong mới tới xứ truyền
giáo.
* Vị mục
tử nhân hiền.
Ngày
09.01.1803 là ngày hội lớn của toàn giáo phận Đông Đàng Ngoài. Các thừa sai ngoại
quốc, hơn 30 linh mục Việt Nam, hàng chục ngàn giáo dân từ các nơi tuốn về Phú
Nhai tham dự lễ tấn phong Giám mục phó Henares Minh, khởi đầu một giai đoạn
bình an kéo dài hơn 20 năm. Hai vị giám mục Delgado Y và Henares Minh, hai anh
em “sinh đôi” như một số người quen gọi, cùng mang những thao thức như nhau,
cùng được đào tạo một nơi, cùng đến đất Việt một ngày. từ nay luôn tâm đầu ý hợp,
cùng nhau đưa giáo phận đến giai đoạn cực thịnh. Hai vị chia nhau đến thăm từng
họ đạo nhỏ nhất. Đức cha Minh với tinh thần phục vụ cao, thường chọn cho mình
những họ đạo xa hơn, thuộc trấn Kinh Bắc, nơi rừng sâu nước độc mà trước đó ít
năm, Đức cha Phê đã bỏ mạng vì bệnh sốt rét rừng.
Linh
mục Hermosilla Vọng đã viết về Đức cha Minh như sau: “Ngài là một thủ lãnh
thanh khiết trong đời sống, là vị mục tử nhiệt tâm không hề mỏi mệt vì ơn cứu độ
các linh hồn và là đấng khao khát mãnh liệt phúc tử đạo. Ngài sẵn sàng lên đường
bất cứ lúc nào trách nhiệm đòi hỏi, dù đang nửa đêm khuya vắng. Ngài có lòng đạo
đức trổi vượt, biểu lộ qua việc cầu nguyện không ngừng, đồng thời siêng năng
nghiên cứu các giáo phụ. Ngài sống nghèo khó Tin Mừng thực sự, và như một người
cha hiền dịu, ngài quảng đại với những người xấu số nhất. Đó là những nhân đức
chính mà ngài luôn nêu gương”.
Với
lòng khiêm tốn, bác ái, Đức cha Minh nhiệm nhặt với mình, nhưng lại rộng lượng
với mọi người. Tuy bận rộn với bao công việc của giáo phận, ngài vẫn tự may vá
lấy y phục của mình, và cố gắng sửa lại những quần áo cũ để phân phát cho người
nghèo. Nhờ biết chút ít về nghề thuốc, Đức cha là ân nhân của nhiều người bệnh
tật. Đi đâu ngài cũng mang theo một hộp nhỏ đựng thuốc phát cho bệnh nhân nan
y, mọi người đều cho là họ được khỏi do lời cầu nguyện và chúc lành hơn là nhờ
thuốc.
* Nếu giờ
chưa đến.
Chính
tráp đựng thuốc bác ái đó một lần kia đã cứu ngài thoát chết. Khi ngài đang ở họ
Thượng Hộ thuộc Sơn Nam Hạ thì bị một nhóm cướp bắt cóc để tống tiền. Giữa đêm
chúng lẻn vào nhà, bắt và dẫn Đức cha vào rừng. Bỗng tên cướp ôm chiếc tráp thuốc
vấp ngã, những chai lọ đổ lỏng chỏng ra ngoài, một vài dụng cụ kim loại lấp
lánh trong đêm, khiến chúng tưởng là vàng bạc xô lại trang giành, Đức cha liền
nhanh chân náu mình trong một bụi cây rậm rạp gần đó. Đám cướp sục sạo một lát
thì trời tảng sáng và nghe dân làng đánh kẻng báo động đi tìm Đức cha, họ ùa
nhau bỏ chạy.
Theo
ý Tổng trấn Hà Nội Nguyễn Văn Thành, ông muốn tổ chức một buổi trao đổi công
khai về tôn giáo. Đức cha Minh cùng đức cha Longer Gia giáo phận Tây Đàng Ngoài
nhận lời và đưa ra đề tài: “Không ai được bắt ép người Công Giáo làm việc dị
đoan”. Nhưng vì tổng trấn không chấp nhận đề tài đó, nên cuộc trao đổi phải bãi
bỏ. Đức cha Minh thấy vậy đã nhận định rằng: “Bao lâu còn thiếu ánh sáng bởi trời
thì dù lý luận mấy cũng vô ích”.
Khi
vua Minh Mạng lên ngôi được vài năm, miền bắc có nhiều cuộc khởi nghĩa: Lê Duy
Lương, Nùng Văn Vân. Ở Nam Định và Hải Dương có Phan Bá Vành. Nói chung dân Bắc
Hà vẫn còn hoài nhớ triều Lê, chứ không ưa triều Nguyễn. Chính Gia Long phải mượn
cớ phò Lê để thống nhất cả nước. Lúc đó, thế lực nhóm Phan Bá Vành ngày càng lớn,
năm 1826, vua Minh mạng phải cử Lê Văn Duyệt và Nguyễn Công Trứ ra đánh dẹp.
Quân của Vành thua rút vào làng Trà Lũ, cầm cự được ba tháng, mới bị bắt, cuộc
chiến thắng này có phần đóng góp của hơn 300 giáo hữu, thế nhưng vì trong số tù
nhân cũng có những người Công Giáo, họ khai là có biết Đức cha Minh và 10 cha
dòng người Việt, khiến từ đó Đức cha bị ghi vào “sổ đen” của nhà vua.
Ngày
13.05.1827, Tổng đốc Nam Định thừa lệnh nhà vua đem 800 quân và voi trận đến
vay Trà Lũ bắt Đức cha, nhưng ngài đã kịp biết tránh đi nơi khác. Dù rất mong mỏi
được đổ máu làm chứng cho tình yêu Chúa, Đức cha thường tâm sự rằng tử đạo là
ơn phúc trọng đại, không ai được tự tiện liều lĩnh ngoài thánh ý Chúa. Tiếp
theo đó là 10 năm phục vụ, tuy có phần khó khăm âm thầm hơn, nhưng nói chung
giáo phận Đông Đàng Ngoài vẫn tương đối được bình an. Cho đến tháng 04.1838, vì
phát hiện sáu lá thư của cha Viên gởi cho giám mục và bốn linh mục, nhà vua biết
có sự hiện diện của các ngài. Vua đã khiển trách Tổng đốc Trịnh Quang Khanh nặng
lời, và phái thêm 2000 lính kinh đô ra tăng viện, quyết lùng bắt hết các giáo
sĩ. Đức cha Minh và thầy Chiểu phải bỏ Tiên Chu đi ẩn tại Kiên Lao, gần chỗ Đức
cha Y và hai vị thừa sai khác. Ngày 28.05, khi Đức cha Y bị bắt, Đức cha Minh
đang lánh thân trong nhà bà Tư, giả bộ xay lúa, mỗi khi quân lính đi ngang, bà
Tư lấy nong che mặt cho ngài.
* Bản án
phải được sửa lại.
Tối
hôm đó, Đức cha Minh bỏ nhà bà Tư đi sang làng Trung Thành, rồi làng Quần Anh
và Xương Điền. Khi thấy quân triều đình lảng vảng theo dõi, Đức cha và thầy Chiểu
xuống thuyền đi ngược ra biển. Một ngư phủ ngoại giáo nói với các tín hữu: “Coi
chiếc thuyền ngược gió kia, tôi đóan là một thừa sai chạy trốn cuộc bách hại mà
chưa biết về đâu. Các bác tìm cách đưa ngài vào đây, tôi sẽ lo liệu chỗ trọ và
che dấu giùm cho”. Quá tin vào ông ta, các tín hữu ra mời ngài trở lại, ai ngờ
ông ta đi báo quan quân đến bắt đức cha và thầy Chiểu tại nhà mình.
Quan
phủ Xuân Trường đối đãi với Đức cha khá tử tế, nhưng vì sợ nhà vua, ông đành phải
đóng cũi và ván ép giải lên Nam Định ngày 11.06.1838. tại đinh Tổng đốc, có hai
chiếc cũi của ngài và của đức cha Y được đặt gần nhau, hai vị nói truyện với
nhau bằng tiếng Tây Ban Nha. Không rõ các vị nói những gì, nhưng chắc chắn quả
là niềm an ủi lớn lao, khi được chia sẻ với nhau những tâm sự thầm kín. Gần nửa
thế kỷ sát cánh bên nhau để phục vụ giáo phận trên đường về Thiên Quốc. Mọi người
thấy rõ niềm vui lộ trên khuôn mặt của hai vị.
Khi
quan tòa đòi Đức cha Minh phải ký vào bản án đã viết sẵn, ngài yêu cầu cho nghe
trước rồi mới ký. Vừa nghe đọc hai chữ “Tả Đạo”, Đức cha cắt ngang: “Xin quan sửa
lại chữ đó thành đạo Đức Chúa Trời”. Quan đồng ý và sửa lại. Khi đọc đến chữ
“.lừa đảo ngu dân”, Đức cha lại lên tiếng: “Không đúng, chúng tôi không lừa đảo
ai, chúng tôi chỉ đến đây giảng đạo chân chính”. Đức cha không chịu ký vào cho
đến khi quan đồng ý sửa bản văn lại. Ngày 12.06.1838, bản án được gửi về kinh
đô, nhà vua châu phê và gởi lại Nam Định ngày 25.06.1838, Đức cha còn được một
ngày để chuẩn bị tâm hồn lãnh phúc tử đạo.
* Chứng
tá cuối cùng.
Một
số binh sĩ Công Giáo giữ đạo cách bí mật đã bỏ tiền ra xin được vinh dự khiêng
cũi Đức cha. Và trước khi khởi hành ra pháp trường, nhiều binh sĩ đã trót nhát
sợ đạp lên Thánh Giá, đến quỳ khóc lóc trước cũi, xin Đức cha cầu nguyện và tha
thứ. Đức cha đã nhân ái an ủi họ và giúp họ thống hối đền tội. Trên đường đến Bảy
Mẫu, Đức cha Minh trong cũi với nét mặt hân hoan, miệng thầm thĩ nguyện kinh và
giơ tay ban phép lành cho các tín hữu đang khóc thương hai bên đường. Thầy Chiểu
mang gông đi phía sau. Cuối cùng là năm binh sĩ không chịu bước qua Thánh Giá,
trong đó có ba vị tử đạo sau này là Augustinô Huy, Nicolas Thể và Đaminh Đinh Đạt,
nhưng hôm ấy đến nửa đường, cả năm binh sĩ đều được đưa trở về ngục.
Tại
pháp trường, Đức cha Minh muốn chứng kiến cái chết kiên trung anh dũng của người
môn đệ quý yêu: thầy Phanxicô Chiểu, Đức cha xin xử trảm thầy trước. Viên quan
đồng ý. Thế là quân lính xử chém và trao đầu thầy cho vị Giám Mục. Ngài trân trọng
đón lấy, rồi ngửa mặt lên trời cầu nguyện trang nghiêm như đang dâng lễ vật đẫm
máu lên Thiên Chúa. Đến lượt mình, Đức cha nghiêng đầu cho lý hình thi hành
quân sự. Hôm đó là ngày 26.06.1838, Thiên Chúa đã gọi Đức cha Henares Minh về
trời lãnh ngành thiên tuế tử đạo, chấm dứt 73 năm trên dương thế với 48 năm phục
vụ tại Việt Nam, 38 năm giám mục.
Thi
hài Đức cha được lý hình an táng ngay tại pháp trường, nửa tháng sau các tín hữu
cải về Lục Thủy. Đầu của ngài bị treo ở cổng thành ba ngày, rồi ném xuống sông
Vị Hoàng, vài ngày sau một dân chài Công Giáo may mắn vớt được, các tín hữu đưa
về táng chung với thi hài. Về sau khi ngưng bách hại, họ long trọng đưa hài cốt
Đức cha về tòa Giám mục Bùi Chu.
Đức
Giáo Hoàng Lêô XIII suy tôn Giám mục Henares Minh lên bậc Chân Phước ngày
27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc
Hiển Thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét