Linh Mục Luca Vũ Bá Loan
Truyện tử đạo thánh Luca Vũ Bá
Loan, vị niên trưởng trong số 117 vị tử đạo Việt Nam được tôn phong, là một
trong những bằng chứng cụ thể nhất về sự phi lý của các bản án tử đạo. Ngài bị
giết chỉ do án lệnh của triều đình, trong khi tại địa phương mọi người đều kính
yêu vị linh mục già 84 tuổi râu tóc bạc phơ, hiền lành đôn hậu.
Ngày xử tử 2 người lính tình nguyện
đưa cáng gánh cha ra pháp trường, cả mười người lý hình được chén đầu cha đều bỏ
trốn dù biết sẽ bị phạt, và viên đao phủ thứ 11 chỉ dám thi hành phận sự sau
khi xin lỗi và nói với cha rằng mình bị bó buộc miễn cưỡng mà thôi. Đức tin
kiên vững là sức mạnh chiến thắng mọi
gian lao thử thách, sở dĩ các anh hùng tử đạo chịu nổi mọi cực hình, tù ngục chết
chóc, là các Ngài tin tưởng vào Chúa một cách mạnh mẽ và kiên cường. Các Ngài
tin chắc rằng, qua những hình khổ tạm bợ này, các Ngài sẽ được hưởng hạnh phúc
muôn đời bất diệt, sau cái chết chóng qua này, các Ngài sẽ sống mãi ngàn thu.
Cha Luca Vũ Bá Loan sinh năm 1756
tại Bút Quai xứ Bút Đông, thuộc địa phận Tây Đàng Ngoài. Ngay từ nhỏ, cậu đã được
Chúa gọi dâng mình giúp việc nhà Chúa, cậu tu học ở Phú Đa và Kẻ Bèo, sau khji
mãn khóa thần học, thầy Loan được thụ phong linh mục, và đi giúp xứ Nam Sang, rồi
đến Kẻ Vời, rồi năm 1828 Đức Cha sai đến giúp xứ Kẻ Sở và ở đó cho đến khi bị bắt.
Đời linh mục được ướp nồng bằng
kinh nguyện, cha là một linh mục gương mẫu về đức mến Chúa yêu người, luôn luôn
nhiệt thành phụng sự Chúa và phục vụ các tín hữu, ngoài việc ban phát các bí
tích cho giáo dân, cha rất chuyên cần cầu nguyện và giảng dạy, cầu nguyện đối với
cha là tối cần thiết trong công việc tông đồ, có cầu nguyện và sống kết hợp với
Chúa, thì lời giảng dạy mới đánh động được lòng người, mới cải hóa tâm hồn giáo
dân. Song song với những kinh nghiệm là cha thường đi thăm những người nghèo
khó, bệnh tật, cha tận tâm nuôi dạy một vài em hiền lành, nhanh nhẹ để chuẩn bị
cho linh mục tương lai. Cha nhiệt thành hướng dẫn, giúp đỡ các tín hữu sống
thân ái với mọi người, dù có đạo hay không đạo. Cha khuyết khích an ũi các tín
hữu bê bói trễ nãi. Đức Cha Jeantet Khiêm, ca tụng cha rằng: “ Thầy xét các việc
cha Loan làm từ khi chịu chức linh mục cho đến ngày tử đạo, thầy thấy có lẽ
trong số linh mục Việt Nam từ trước đến nay không ai sánh bằng.”
Lúc đó ở Kẻ Sở có hai người ngoại
giáo tên là Đổ Cang và bá hộ Kiểng đã vi phạm luật nhà nước đang chờ ngày xét xử,
họ biết vua Minh Mạng cấm đạo, nên bàn tính với nhau bắt cha Loan nộp cho quan
để lập công chuộc tội, Thế là ngày 10 tháng 01 năm 1840 họ giả vờ đến thăm cha
rồi bắt cha xuống thuyền chở đi, giáo hữu nghe tin cha bị bắt, thì vội vàng thu
góp tiền đi chuộc cha. Nhưng họ đòi tới 2000 quan, các tín hữu không chuộc nổi,
nên họ đem cha nộp cho quan huyện Phú Xuyên, quan huyện thấy cha già yếu thì
không nhận, nên họ phải điệu cha thẳng đến Thăng Long. Vừa đến công đường, quan
đầu tỉnh chỉ thẳng mặt 2 ông mà mắng rằng: “ Quân dại dột, sao ngươi đang tâm bắt
người hiền lành đạo đức, lại đáng tuổi cha ông chúng bây thế này ?” các quan thấy
cha tuổi già sức yếu thì rất kính nể, nhưng gì vua ra lệch cấm đạo và việc cha
bị bắt đã công khai, nên đành phải cho gian vào ngục, như căn dặn lính gác: “ Cụ
già cả, tuổi cao sức yếu, phải đối xử tử tế, không được vô lễ hành hạ Cụ, cũng
chớ cấm người ta thăm viếng chăm sóc Cụ.”
Nhờ đó trong những ngày tháng tù
ngục, cha Loan luôn được giáo dân ra vào thăm nuôi giúp đỡ, nhưng cha không
dùng hết các quà biếu cho riêng cha, mà cha rộng rãi chia sẽ cho lính canh và
các bạn tù, nên họ rất quý mến cha và càng đối xử dễ dàng hơn. Hai lần cha bị
điệu ra tòa, nhưng thay vì tra khảo đánh đập, các quan chỉ hỏi qua lý lịch và
khuyên bảo cha bước qua thập giá để thả cha, nhưng cha nói: “ Các quan biết rỏ
tôi là đạo trưởng, và tôi đã phụng sự Chúa đến tuổi già này, làm sao tôi có thể
bước qua Thánh Giá mà chối bỏ Chúa tôi cho được ?” Quan hỏi: “ Sao cụ thờ Chúa
của người Pháp ?” Cha Loan đáp: “Tôi chẳng thờ Chúa của nước nào cả. Mà tôi thờ
Chúa Cả Trời Đất, Chúa của muôn dân muôn nước khắp cả hoàn cầu.” Thấy cha cương
quyết không bỏ đạo, các quan buộc lòng làm án trảm, gởi trình lên vua Minh Mạng.
Trong thời gian chờ đợi vua phê
chuẩn bản án, cha bị gian giữ trong ngục, vì tuổi già sức yếu, lại ở nơi chật hẹp
dơ bẩn, nên cha ngã bệnh nặng, cộng với căn bệnh suyễn kinh niên làm cha kiệt
quệ, viên cai ngục sợ cha chết trong tù, nên xin quan cho giáo hữu họ Chuông
Trung, chăm sóc chacho đến ngày d9uo7c54 lệnh xử tử. Đó là ngày 05 tháng 06 năm
1840, rồi sao đó 2 hay 3 giáo xứ, xin thi hài cha cho xứ của mình. Cha cười và
nói: “ Xác tôi cũng là tro bụi, chết rồi cũng tanh hôi cho vòi bọ rúc rỉa, các
ông xin làm chi ?” Thế như cha cũng đồng ý cho họ Chuông Trung thuộc giáo xứ Kẻ
Chuôn, được lo liệu mai táng khi cha được Chúa lãnh phúc tử đạo.
Viên quan giám sát chủ trì phiên
xử, thấy cha đi bộ cũng bỏ ngựa, giao cho một người lính rồi cùng đi bộ ra Ô cầu
giấy là nơi thi hành bản án, đến nơi ông nói với cha: “ Cụ muốn làm vì thì làm
đi” Cha Loan quỳ xuống cầu nguyện rồi vui vẻ đưa tay cho lính trói vào cọc. Mười
người lính được chỉ định chém cha Loan bổng trốn đi hết, để giải quyết nhanh,
quan liền sai người lính nam bộ tên là Minh. Người lý hình bất đắc dĩ sụp lạy
cha Loan và biện bạch rằng: “ Việc vua truyền chúng cháu phải làm, xin Cụ xá lỗi
cho, cháu cố giúp Cụ chết êm ái, khi về trời Cụ nhớ đến cháu nhé.” Cha Loan gật
đầu và ra hiệu cho anh thi hành phận sự, các tín hữu xong vào cởi áo thấm máu vị
tử đạo như một chứng tích anh hùng, của một người cha tuy già yếu nhưng mạnh mẽ
về niềm tin
Ngày 27 tháng 05 năm 1900 Đức
Thánh Cha Lêô XIII đã suy tôn cha lên bậc chân phước. và Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II tôn phong cha lên bậc Hiển Thánh ngày 19 tháng 06 năm 1988
Ngày 05/06/1862 Hai Ngư Phủ Đaminh Đổ Minh Toại
& Đaminh Đổ Minh Huyên Tử đạo.
Đaminh Đổ Minh Toại Ngư Phủ
Các thánh tử đạo Việt Nam phải chịu
nhiều hình khổ khác nhau, ngoài gông cùm ra, tù ngục, đòn roi, các ngài có thể
bị chém đầu, xẻo thịt, thiêu sống. Trong số 117 Hiển Thánh tử đạo, phần đông bị
trảm quyết, chỉ có 6 vị bị thiêu sống, Đaminh Toại, Đaminh huyên là 2 vị đầu
tiên chịu khổ hình này, để được trở nên của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa,
như thánh Polycarpo xưa, 2 vị đã tin tưởng rằng: “ Đấng đã giúp tôi quyết định
chịu đau khổ vì Ngài, sẽ cho tôi sức mạnh. Ngài sẽ làm cho lửa dịu lại và cho
tôi đủ sức lướt thắng mọi thử thách.”
Đaminh Toại sinh năm 1812 và
Đaminh Huyên sinh năm 1817, hai ông đều là giáo hữu họ đạo Đông Thành tỉnh Thái
Bình, thuộc giáo phận Trung Đàng Ngoài, cả 2 người đều có gia đình là những gia
trưởng đạo đức sốt sắng, luôn nêu gương mến Chúa yêu người. Các ông sống bằng
nghề đánh cá, hằng ngày chài lưới trên sông Nhị Bình ở gần cửa Ba Lạt, tánh
tình đơn sơ lương thiện, 2 ông đều được các bạn đồng nghiệp và mọi người yêu
thương khen ngợi.
Đaminh Đổ Minh Huyên Ngư Phủ
Tháng 08 năm 1861 vua Tự Đức bắt
đạo gắt gao, nhà vua ra chiếu chỉ PHÂN SÁP, nhằm tận diệt người theo đạo công
giáo, theo chiếu chỉ này, quân lính và người ngoại giáo được phép vào các làng
công giáo tịch thu tài sản và bắt các giáo hữu đem nộp cho quan, để khắc hai chử
TẢ ĐẠO lên gò má. Lúc đó, quân lính và người ngoại giáo kéo nhau vào họ đạo
Đông Thành, sau khi vơ vét tài sản của người công giáo ở đây, họ bắt nhiều người
đem nộp cho quan huyện, trong số đó có Đaminh Toại- Đaminh Huyên. Ông Toại bệnh
tật đi lại không nổi, họ bảo ông nộp tiền chuộc, họ sẽ thả ông về gia đình.
Nhưng 2 ông nghĩ đây là cơ hội tốt để xưng đạo thánh Chúa trước mặt thiên hạ,
và vì 2 ông muốn cùng các đồng đạo tuyên xưng danh Chúa, dẫu phải trả giá bằng
cuộc sống để làm chứng cho đạo Chúa là đạo thật.
Quân lính dẫn 2 ông đến huyện Quỳnh
Côi, và giam vào ngục chờ ngày xét xử, suốt chín tháng bị giam trong ngục, các ông
phải đói khát, xiềng xích, gông cùm khổ sở, như không bao giờ than thở buồn phiền,
mà lúc nào cũng vui vẻ, sẵn sàng chịu gian lao khốn khó, trước là để lập công
nghiệp, sau là để nêu gương can đảm hy sinh cho các bạn đồng đạo cùng bị giam
trong ngục. Chẳng những thế, 2 ông còn thường xuyên an ủi, khích lệ các bạn bền
tâm giữ vững đức tin: “ Nào anh em hãy can đảm lên, chúng ta chịu khổ vì Đức
Ki-tô, nên chúng ta phải đón nhận đau khổ một cánh nhẫn nại. Chúng ta phải bền
chí đến cùng và nếu cần sẵn sàng hy sinh mạng sống vì danh Chúa.
Trong thời gian bị giam giữ, nhiều
lần hai ông bị điệu ra công đường, tra tấn đánh đập và buộc phải bước qua Thánh
Giá để chối Chúa bỏ đạo, nhưng dù bị đòn đau đớn, các ông dẫn can đảm trung
thành với Chúa, các quan thấy cực không lay chuyển được lòng tin của các ông,
thì tìm cách dụ dỗ, hứa trả tự do và ban cho nhiều tiền của, nếu các ông đạp
lên Thánh Giá, các ông nói: “ Của cải đời này nay còn mai mất, không thể đem lại
cho chúng tôi hạnh phúc vững bền, chỉ có Chúa mới làm cho chúng tôi sống đời đời,
được hưởng hạnh phúc muôn đời. Chúng tôi quyết tin theo Chúa để được Ngài
thương ban hạnh phúc vĩnh viễn đó” Các quan nổi giận kết án thêu sống 2 ông, án
đó chẳng những không làm khiếp sợ, mà còn tăng thêm hân hoan phấn khởi cho các
ông. Và các ông hết lòng cảm ơn Chúa, vì Người đã thương cho các ông trở nên của
lễ toàn thêu dâng tiến Chúa, để làm chứng cho Chúa và cứu rổi các linh hồn.
Sáng ngày 05 tháng 06 năm 1862
đúng ngày ký hòa ước Nhâm Tuất nước Pháp buộc triều đình Việt Nam phải cho tự
do hành đạo, 2 ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên vui vẻ bước lên giàn hỏa thiêu
dâng hiến đời mình cho Chúa. Trong khi ngọn lửa bóc cháy bừng bừng, các ông
hoan hỷ cất tiếng ngợi khen và cầu xin Chúa ban ơn thêm sức cho chịu nổi cực
hình ghê tởm này, và các đã từ từ ngã gục trong đóng lửa …
Ngày 29 tháng 04 năm 1951 Đức Cha
Piô XII tôn phong hai ông lên chân phước, Và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
nâng các ngài lên bậc Hiển Thánh ngày 19 tháng 06 năm 1988.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét