Phêrô Dũng, Sinh năm 1800 tại
Ðông Hào, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 6/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời
vua Tự Ðức cùng với thánh Phêrô Đinh Văn Thuần. Đức Piô XII suy tôn lên bậc
Chân Phước ngày 29-04-1951. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các
ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính hằng năm vào ngày 06/06.
* Thánh
Phêrô ĐINH VĂN DŨNG - Ngư phủ - (1800 – 1862)
* Thánh
Phêrô ĐINH VĂN THUẦN - Lý trưởng Ngư phủ - (1800 – 1862)
* Hai ngọn đuốc sáng
Đức Kitô, ánh sáng vĩnh cửu đã nhập
thể trong trần gian để mặc khải về Chân Lý Cứu Độ. Ngài đến và kêu mời những ai
theo Ngài hãy trở nên ánh sáng cho thế gian, làm chứng cho Tin Mừng Cứu độ bằng
lời nói, bằng thái độ và bằng cuộc sống của chính mình. Người tín hữu sẽ trở
thành ánh sáng, sẽ biểu hiện một cuộc sống gương mẫu "để mọi người ngợi
khen cha của anh em, đấng ngự trên trời" (Mt 5,16) qua việc phục vụ tận
tình như dấu chỉ Nước Trời đang hình thành và với thái độ chấp nhận hi sinh dấn
thân cho Chân lý.
Hai vị thánh Phêrô Dũng và Phêrô
Thuần khi chấp nhận bản án thiêu sinh hơn là bỏ đạo, đã dùng chính thân thể
mình làm ngọn đuốc sáng : Chấp nhận hủy diệt mạng sống hầu được sống trường tồn.
Để rồi ngọn lửa rực sáng trong khoảng khắc ấy, mọi người sẽ thấy bừng lên Anh
sáng Thần Linh của Thượng Đế, Đấng các vị làm chứng cho đến hơi thở cuối cùng.
* Khó khăn thử thách.
Ông Phêrô Đinh Văn Dũng (con ông
Phê rô Mẫn và bà Maria An) và ông Phêrô Đinh Văn Thuần đều đã ngoài 60 tuổi, là
anh em con chú con bác, người họ Đông Phú thuộc giáo xứ Trung Đồng, Kẻ Mèn, tỉnh
Thái Bình trong giáo phận Trung Đàng Ngoài. Hai ông làm nghề đánh cá, một nghề
như thánh Phê rô, bổn mạng hai ông đã từng làm. Riêng ông Phêrô thuần còn được
chọn làm Lý trưởng nhờ tấm lòng cương trực và khả năng của mình. Là những giáo
hữu bình dân chất phác và nhiệt thành, sau khi lập gia đình, hai ông đã tận tâm
giáo dục con cái sống đạo cách sốt sắng theo tinh thần Phúc Âm.
Tháng 08-1861 với chiếu chỉ phân
sáp của Vua Tự Đức, việc bách hại đạo gia tăng cách khủng khiếp nhất là trong
giáo phận Trung. Các quan thi hành triệt để lệnh Vua, không những cho quân lính
truy lùng các vị thừa sai, giám mục, linh mục, thày giảng, mà còn cưỡng ép mọi
giáo hữu bất kể nam phụ lão ấu đều phải chối đạo và bước qua Thánh Giá. Đất
đai, vườn ruộng, nhà cửa, sức vật… của giáo hữu sau khi bị phân sáp đều bị tịch
thu, phá hủy. Hơn nữa, giáo hữu còn bị khắc trên má hai chữ "Tả Đạo"
để khỏi lẩn trốn. Quả thực, Giáo Hội Việt Nam đang phải chìm đắm trong những thử
thách lớn lao.
Đầu năm 1862, thảm họa đã đổ xuống
trên làng Đông Phú. Trong dịp này, hai ông Phêrô Dũng và Phêrô Thuần đã bị bắt
và bị giải về phủ huyện, rồi bị tống giam vào ngục Ngọc Chí. Tại đây hai ông chịu
nhiều cực hình, cổ mang gông, chân chịu xiềng xích, và nhiều lần quân lính đưa
hai ông đến trình diện quan lớn, rồi bị cưỡng ép chà đạp Thánh Giá. Nhưng các
ông vẫn nhất mực từ chối lời quan, và thẳng thắn tuyên xưng niềm tin của mình
vào Đức Kitô.
* Hai mẫu gương sống động.
Các quan đã phải dùng đến phương
sách tình cảm để mong khuất phục hai ông. Quan cho quân lính dẫn hai ông về
thăm gia đình, gặp vợ con. Trước cảnh gông cùm xiềng xích của người chồng, người
cha, cả hai gia đình đều nức nở khóc lóc buồn thương. Nhưng điều quan quân không
ngờ được : Hai ông bình tĩnh an ủi và khích lệ vợ con hãy sẵn sàng chấp nhận việc
dâng hiến của mình. Ông Phêrô Dũng nói : "Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh
mạng sống cho Đức Kitô".
Sau đó hai vị anh hùng bình thản
trở về nhà tù sống chung với các chứng nhân khác.
Tháng 04-1862, các quan đầy hai
ông ra làng Lương Mỹ, thuộc huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, và giam ở đó hai
tháng. Trong hoàn cảnh này, ông Phêrô Thuần đã một lần thối chí và nghe lời
quan đạp lên Thánh Giá. Thế nhưng sau khi gặp các bạn hữu, ông tìm được can đảm,
tiếp tục tuyên xưng niềm tin cho đến chết, bất chấp mọi đòn vọt tra tấn.
Nhận thấy việc kéo dài thời gian
giam giữ hai ông Phêrô Dũng và Phêrô Thuần cũng vô ích, các quan liền kết án
thiêu sinh hai ông. Ngày 06-06-1862, quan cho nhốt hai chiến sỹ đức tin vào một
chiếc cũi tre chật hẹp, rồi chất củi thiêu sống hai ông. Trong ngọn lửa phừng
phực nóng bỏng, hai chứng nhân của Chúa Kitô chắp tay cầu nguyện, tạ ơn Chúa
trong tâm tình hiến dâng mạng sống mình để nói lên niềm tin kiên vững vào Đấng
Cứu Chuộc. Thi thể cháy đen của hai vị tử đạo được chôn cất ngay tại chỗ. Về
sau, giáo dân đem an táng tại sân nhà thờ Đông Phú, quê hương của cac ngài.
Cùng với 23 vị tử đạo khác tại Việt
Nam, hai ông Phêrô Đinh Văn Dũng và Phêrô Đinh Văn Thuần đã được Đức Piô XII
suy tôn lên bậc Chân Phước ngày 29-04-1951. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
Ngày 06/06/1821 – 1862 Thu Thuế Vincentê Dương
Tử đạo.
Vincentê Dương, Sinh năm 1821 tại
Doãn Trung, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 6/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới
đời vua Tự Ðức. Đức Piô XII long trọng suy tôn ông lên bậc Chân Phước tại Vương
Cung Thánh Đường thánh Phêrô. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài
lên bậc Hiển thánh. Lễ kính hằng năm vào ngày 06/06.
Vincentê Dương Giáo Dân Thu Thuế
"Thế gian bách hại nhưng đã
thắng
Thể xác đớn đau vẫn coi thường
Cái chết oai hùng con đường thẳng
Khải hoàn Thiên Quốc, chính Quê
Hương".
Đoạn Thánh Thi Kinh Sáng Phụng Vụ
các Thánh Tử Đạo cho chúng ta thấy cái nhìn của Giáo Hội về chứng tá oanh liệt
của các chứng nhân đức tin. Với niềm tin tuyệt đối vào Đức Kitô, vào vinh phúc
vĩnh cửu, các ngài đã sẵn sàng chấp nhận cái chết, từ bỏ cuộc sống trần gian để
được khải hoàn với ngành lá vạn tuế. Các ngài đã chấp nhận "thua" để
được "thắng", chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc muôn đời, với một
thái độ hiên ngang đến nỗi chính lý hình cũng phải ngỡ ngàng kính nể.
Thái độ kiên cường đó không chỉ
giành riêng cho hàng giám mục, linh mục, tu sĩ, mà ngay cả những giáo hữu nghèo
nàn, chất phác như trường hợp thánh Vinh Sơn Dương. Dưới ánh sáng của đức tin,
ông Đương không hề sợ hãi nao núng khi chịu chết vì danh Chúa Kitô. Vinh Sơn
Dương đã nằm xuống, nhưng danh tính ông sẽ mãi mãi lưu truyền đến thiên thu.
Ông Vinh Sơn Dương sinh quán tại
làng Doãn Trung, sau gọi là Phương Viên, thuộc xứ Kẻ Mèn, tỉnh Thái Bình, giáo
phận Trung (nay là giáo phận Thái Bình). Ông lập gia đình và sinh được ba người
con. Ngoài việc canh tác ruộng nương như mọi người nông dân khác, ông còn còn
giữ thêm chức vụ thu thuế trong làng nữa. Cũng vì chức vụ này ông bị "quan
tâm đặc biệt" hơn các giáo hữu khác trong thời bách hại.
Trong vòng chỉ trong 15 năm, vua
Tự Đức đã lần lượt ra đến tám chiếu chỉ cấm đạo ngày càng gay gắt, và rộng rãi
hơn. Tháng 08-1861 với chiếu chỉ Phân sáp, nhà vua đã động viên cả guồng máy
quan quân cho đến những người dân ác cảm với đạo. Khi cho phép quan quân và người
ngoại giáo được tịch thu tài sản, cũng như bắt các tín hữu về làm đầy tớ trong
nhà, nhà vua đã đẩy họ vào tình cảnh bi đát nhất chưa từng có. Thế nhưng nhà
vua đã lầm. Những giáo hữu tầm thường nhất, dù chỉ còn hai bàn tay trắng vẫn giữ
được trái tim sắt đá, vẫn đủ sáng suốt can đảm để không bao giờ tuân lệnh độc
đoán của nhà vua.
Khoảng cuối tháng 09-1861, ông
Vinh Sơn Dương cùng với nhiều giáo hữu khác bị bắt và bị phân sáp vào làng Mỹ
Nhuệ, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Suốt chín tháng bị giam giữ tại đây với
bao hình khổ dữ dằn, bao sỉ nhục mắng nhiếc, ông Vinh Sơn Dương đã vui vẻ chấp
nhận tất cả để giữ lòng trung tín với Chúa Giêsu, quyết không chà đạp lên Thánh
Giá.
Cuối cùng, ngày 06-06-1862, ông
Vinh Sơn Dương đã lãnh bản án thiêu sinh. Sau giờ hành quyết, các giáo hữu đã
chôn cất vị anh hùng đức tin ngay nơi lãnh phúc tử đạo. Ít lâu sau, thi hài ông
Dương được cải táng và rước về mai táng tại nhà thờ thánh Vinh Sơn, nơi quê
hương của Ngài, chính vợ ông, bà Anrê Tịnh, hiện diện trong ngày xử án, sau
cũng đến làm chứng cho chồng với giáo quyền để lập hồ sơ phong thánh.
Thế là sau 18 thế kỷ của lịch sử
Kitô Giáo, một người nông dân Việt Nam lại bị thiêu sống như hàng loạt các tín
hữu thời sơ khai tại hý trường Rôma thời bạo chúa Nêrôn. Có điều ánh lửa thiêu
đốt ông Vinh Sơn Dương không lịm tắt đi nơi vùng quê của đất nước Việt Nam,
nhưng sẽ bừng lên tỏa sáng khắp năm châu.
Ngày 29-04-1951, danh xưng ông
Vinh Sơn Dương trở lên bất diệt, khi Đức Piô XII long trọng suy tôn ông lên bậc
Chân Phước tại Vương Cung Thánh Đường thánh Phêrô. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét