Lời Chúa: Tất cả những ai đang vất vả,
hãy đến cùng tôi.
“ Ha-lê-lui-a. Kìa Chúa đến đến cứu độ
dân Người; phúc thay ai sẵn sàng nghênh đón Chúa. Ha-lê-lui-a.”
Chúa là Đấng từ bi nhân hậu
Người chậm giận và giàu tình thương
Người không cứ tội ta mà xét xử
Không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
Ngày 10/12/ 1774-1840
Thánh Simon Phan Đắc Hòa Y Sĩ Tử đạo
Simon Phan Ðắc Hòa, Sinh năm 1774
tại Mai Vĩnh, Thừa Thiên, Giáo dân, Y Sĩ, bị xử trảm ngày 12/12/1840 tại An Hòa
dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII đã suy tôn y sĩ Simon Phan Đắc Hòa lên bậc
Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài
lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 12/12.
"Ai có thể làm chúng tôi xa
lìa được lòng mến Chúa Kitô ? Phải chăng là gian truân, cùng khổ, đói rách, bắt
bớ, gươm giáo" (Rm.8,35).
Cái khốn khổ mà Simon Hòa phải chịu
kể từ khi bị bắt vì đức tin cũng tương tự như thế : Hơn 20 lần bị tra khảo rất
dữ dội. Lúc thì bằng đòn vọt, khi thì bằng kìm lạnh, lúc khác thì bằng kẹp nung
lửa… khiến da thịt ông bị thối rữa vì các vế thương dầy mủ máu. Rồi trách nhiệm
tình thương đối với gia đình : người vợ và 12 đứa con, có đứa mới sanh được vài
tháng, chưa được diễm phúc thấy mặt cha một lần.
Thế nhưng ngay trong trường hợp
này, chân lý của các vị tử đạo vẫn luôn luôn đúng : Đối với các ngài, đau
thương không phải là dấu chỉ của thất bại. Đau thương cũng không phải là mục
đích, nhưng đau thương chính là thử thách các chứng nhân phải vượt qua, để có
thể đạt được chân phúc vĩnh cửu. Và thái độ của Simon Hòa cũng như thái độ
chung của các vị tử đạo vẫn là: "Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng
nhờ Đấng yêu mến chúng ta" (Rm.8, 37).
Phan Đắc Hòa sinh trong một gia
đình ngoại giáo tại làng Mai Vĩnh, xã Mông thôn, tỉnh Thừa Thiên năm 1774. Thuở
bé, cậu tên là Thu. Cha mất sớm, mẹ đưa chị em Hòa đến tá túc và làm công ở
làng Lưỡng Kim, sau đó đến giúp một gia đình Công Giáo ở làng Nhu Lý, tỉnh Quảng
Trị.
Sống với người Công Giáo, nhìn thấy
những gương sáng và được nghe nói về những điều cao đẹp của đạo mới này, cậu
Hòa đem lòng cảm mến và xin phép mẹ cho mình theo học lớp giáo lý và gia nhập đạo.
Khi ấy cậu mới chỉ là một thiếu niên 12 tuổi, cậu đã chọn thánh Simon làm bổn mạng.
Yêu mến Chúa Kitô, cậu bé không dừng ở đó, mà còn muốn theo sát, phục vụ Chúa
Kitô trong đời tu trì. Cậu đã vào chủng viện một thời gian, nhưng qua các cha bề
trên, Simon Hòa nhận ra ý Chúa muốn cậu sống và làm chứng tá về Ngài ngay giữa
lòng đời.
Tuy không đạt được ước mơ, Simon
Hòa vẫn thường xuyên liên lạc với chủng viện và các cha Bề trên. Sau khi lập
gia đình và trở thành cha của 12 người con, Simon Hòa cố gắng chu toàn trách
nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, xứng đáng là ngày gương sáng tiêu biểu
cho mọi gia đình trong làng. Sống đời giáo dân, ông Hòa hành nghề y sĩ :
"Lương y như từ mẫu". Nhiều người được ông chữa lành bệnh, nên dân
chúng đồn đãi với nhau đến với ông rất đông. Nhờ đó ông có nhiều cơ hội giúp đỡ
người nghèo khó. Nếu dư dả chút ít, ông liền đem đóng góp vào công việc từ thiện,
xây cất thánh đường…
Với đời sống đạo đức, ông lang y
Hòa được đề cử làm Trùm họ. Trước mặt mọi người, ông đã thực thi chức năng một
cách tốt đẹp: Ai ăn ở bất xứng, biếng trễ, ông tìm cách sửa chữa, hoặc răn đe dỗ
dành, hoặc giải thích khuyên can. Ai cờ bạc rượu chè, ông nghiêm khắc sửa dạy.
Thế nhưng ai cũng yêu mến chứ không oán ghét gì ông, bởi họ biết ông làm thế vì
thương yêu họ và vì trách nhiệm, chứ không phải vì tư lợi. Ngoài ra, ông Simon
Hòa còn sẵn sàng bênh vực, giúp đỡ người già nua tuổi tác, yếu đuối, các cô nhi
quả phụ. Ông thấy thấm thía ý nghĩa của phúc thật tám mối, nhận ra hình ảnh
Chúa Kitô nơi người khác, nhất là người nghèo khó. Có lần ông đích thân cúi xuống
vực một người nằm kiệt sức bên đường, vác lên vai, đưa đến trạm canh, rồi cho
người đem cơm nước để nuôi kẻ bất hạnh.
Khi vua Minh mạng ra chiếu chỉ cấm
đạo, Ông Trùm lang Hòa có dịp bày tỏ lòng can đảm của mình : ông sẵn sàng cho
các linh mục ngoại quốc ẩn náu trong nhà, mặc dù biết rằng việc chứa chấp này
đe dọa đến tính mạng của mình, cũng như của gia đình. Đức cha Cuénot Thể cũng
trọ một thời gian tại nhà ông. Ông nhiệt thành lo liệu sắp xếp cho các linh mục
có nơi trú ẩn. Nếu nhà mình không ổn, ông gởi các nhà ở nơi tương đối bình an
hơn. Tối ngày 13.4.1840, khi đang trên thuyền Đức cha De la Motte Y đến làng
Hòa Ninh, thuyền ông bị các quan phát hiện đuổi theo. Quân lính bắt ông và Đức
cha Y đưa về huyện Dương Xuân, rồi giải về Qủang Trị giam hai tháng, và cuối
cùng điệu về Huế.
Suốt thời gian bị giam, lưoưng y
Hòa không những đã giúp đỡ anh em bạn tù bằng việc bốc thuốc chữa bệnh, ông còn
khuyến khích họ trung thành với Chúa đến cùng. Cũng chịu khổ hình như mọi tù
nhân, có khi còn hơn nữa, nhưng ông Simon vẫn kiên vững niềm tin. Các lần đòn
đánh với vô số vết thương không làm ông nản chí, trái lại, ông còn lấy làm vui
thỏa vì được hiệp thông với Đức Kitô chịu đóng đinh.
Ông Simon Hòa bị tra khảo đến 20
lần, có lẽ vì các quan tưởng dùng bạo lực, ông sẽ phải cung khai tung tích các
vị thừa sai, nhưng "dã tràng xe cát biển đông". Họ đã không đạt được
ý nguyện, lại còn phải nghe ông thuyết giảng về chân lý đạo. Thế là họ trả đũa
bằng đánh đập, bằng kìm kẹp và tra tấn dã man… cho tới khi người thày thuốc từ
bi gục ngã không thể gượng dậy nổi. Nhưng niềm tin của lương y sĩ Hòa không thể
ngã gục. Ông can đảm chịu mọi hình khổ đớn đau. Hơn nữa, ông quyết tâm hiến
dâng mạng sống mình để làm chứng về đạo, dù phải hy sinh những điều thân thương
qúi báu nhất đời. Khi các con đến thăm, ông khuyên nhủ :
"Cha yêu thương các con và hắng
chăm sóc các con. Nhưng cha phải yêu Chúa nhiều hơn, các con hãy vui lòng vâng
ý Chúa, đừng buồn làm chi. Các con ở với mẹ, thương yeu nhau, và chăm sóc việc
nhà. Từ đây cha không thể lo cho các con được nữa. Chúa muốn cha chịu khổ, cha
xin vâng trọn".
Quả thật nỗi lòng y sĩ Simon Hòa
lúc đó:
"Yêu kính Chúa, nặng tình
nhà,
Trăm cay nghìn đắng, vẫn cam một
lòng".
Năm 1840, vua Minh Mạng châu phê
án xử trảm quyết, bêu đầu ba ngày. Khi điệu ông Hòa đi xử, các quan còn cố bắt
ông quá khóa, dụ dỗ ông bỏ đạo, hay ít là cầm lấy ảnh quẳng đi để ông được tha,
nhưng ông vẫn một lòng kiên quyết tuyên xưng niềm tin của mình.
Vị lương y lang Nhu Lý đã vượt
qua thử thách cuối cùng. Ông đã toàn thắng trong niềm tín thác vào Thiên Chúa
ngày 10.12.1840 tại Cổng Chém, gần chợ An Hòa.
Đức Lêo XIII đã suy tôn y sĩ
Simon Phan Đắc Hòa lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Ngày 10/12 – Chân phước Adolph Kolping, Linh mục (1813-1865)
Hồi thế kỷ XIX, tại Đức nổi lên hệ thống nhà máy đã thu hút
nhiều người tuôn về các thành phố, và họ gặp những thử thách mới đối với đức
tin. LM Adolph Kolping là người hướng dẫn mục vụ cho họ, hy vọng họ không bị mất
đức tin Công giáo như đã xảy ra với nhiều công nhân khác ở Âu châu được công
nghiệp hóa.
Ngài sinh tại làng Kerpen, làm thợ đóng giày vì gia đình khó
khăn. Sau đó ngài đi tu và thụ phong linh mục năm 1845, ngài hướng dẫn các công
nhân trẻ ở Cologne, thành lập ca đoàn, năm 1849 hội này phát triển thành Hội
Công nhân Trẻ (Young Workmen’s Society), một chi nhánh của hội này bắt đầu tại
St. Louis, Missouri, năm 1856. Sau 9 năm, có hơn 400 Gesellenvereine (công
đoàn) được thành lập trên khắp thế giới. Ngày nay nhóm này có hơn 400.000 thành
viên ở 54 quốc gia.
Thường được gọi là Hội Khôi Bình (Kolping Society – quen gọi
là Gia Đình Khôi Bình), chú trọng việc thánh hóa đời sống gia đình và chân giá
trị của việc lao động. LM Kolping hoạt động để cải thiện điều kiện sống cho
công nhân. Ngài và thánh Gioan Bosco ở Turin đều quan tâm làm việc với giới trẻ.
Ngài nói với những người theo ngài: “Nhu cầu của thời đại sẽ dạy các bạn biết
phải làm gì. Điều đầu tiên tìm được trong cuộc sống và điều cuối cùng cần nắm
giữ là đời sống gia đình, đó là điều quý giá nhất mà người ta không nhận ra”.
Ngài và chân phước Gioan Duns Scotus được an táng tại
Minoritenkirche, thuộc Cologne. Cơ quan điều hành Hội Khôi Bình quốc tế đặt tại
đây. Các thánh viên Khôi Bình đã tới Rôma từ Âu châu, Mỹ châu, Phi châu, Á châu
và Úc châu để dự lễ phong chân phước cho LM Kolping năm 1991, dịp kỷ niệm 100
năm Tông thư Rerum Novarum (Tân Sự, nói về trật tự xã hội) của ĐGH Leo XIII. LM
Kolping cũng có công góp phần chuẩn bị cho tông thư đầy tính cách mạng xã hội
này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét