Lời Chúa: Khi thấy những điều đó xảy
ra, anh em hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
“ Ha-lê-lui-a. Anh em hãy đứng thẳng
và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc. Ha-lê-lui-a.”
Phúc thay người được ở trong thánh điện
Họ luôn luôn được hát mừng Ngài
Phúc thay kẻ lấy Ngài làm sức mạnh
Càng tiến lên họ càng mạnh bước.
Ngày 28-11-1814-1835
Thánh Anrê Trần văn Trông Quân nhân Tử đạo
Thánh Anrê Trần Văn Trông sinh năm 1814 trong một gia đình
Công Giáo ở Kim Long, Phú Xuân (Huế). Cậu là con trai duy nhất trong nhà. Năm
lên 15 tuổi, cha cậu mất sớm, gia đình phải lâm vào cảnh mẹ góa con côi. Vì
thương mẹ và không muốn mẹ phải chịu khổ nhiều, nên Anrê Trông đành thu xếp
sách đèn, theo chân bà con lối xóm về họ Thợ Ðúc dệt tơ cho hoàng gia. Ảnh hưởng
sự giáo dục từ người mẹ hiền, cậu ngay thẳng thật thà, luôn chăm chỉ làm việc
và không ưa những chuyện gây gỗ, bất hòa. Mỗi buổi chiều, sau những giờ lao động
mệt mỏi, cậu thường vác cần câu đến ngồi bên bờ sông Hương xanh biếc, để được gần
gũi với thiên nhiên.
Năm 20 tuổi, Anrê Trông cảm thấy với đồng lương ít ỏi của
nghề thợ dệt tơ không đủ nuôi sống gia đình, cậu đành giã từ mẹ lên đường nhập
ngũ.
Sau tám tháng phục vụ trong quân đội, tháng 11 năm 1834, triều
đình ra lệnh những binh sĩ Công Giáo phải ra trình diện. Không chút e dè, Anrê
Trông cùng với 12 đồng đội cùng ở khu Thợ Ðúc đến ra mắt quan. Quan yêu cầu các
anh phải tuân lệnh nhà vua bỏ đạo và đạp lên Thánh Giá. Cả 13 chiến sĩ Công
Giáo đều cương quyết khước từ. Các quan bèn dùng biện pháp tra tấn dã man... Lần
lượt 12 người từ từ bỏ cuộc, chỉ còn một mình Anrê Trông vẫn trung kiên đến cùng.
Quân lính trói anh lại khiêng qua Thánh Giá, nhưng anh co chân lên quyết không
xúc phạm đến ảnh Chúa. Thế là từ trại lính, anh bị tống qua trại giam. Các quan
kết án tử hình, nhưng còn giam hậu, nghĩa là chưa xử tử ngay.
Suốt một năm bị giam trong ngục, Anrê Trông chịu nhiều điều
cơ cực khổ sở, nhưng niềm tin của anh qua những thử thách đó càng ngày càng vững
mạnh. Anh sốt sắng cầu nguyện và đặc biệt phó thác đời mình cho Ðức Mẹ, xin
Chúa vì lời Mẹ Maria chuyển cầu ban cho ơn trung tín đến cùng. Những món quà tiếp
tế nhận được, anh chia sẻ cho các bạn tù và lính canh ngục, nên được họ quí mến.
Cũng chính nhờ đó, anh có cơ hội đặc biệt để đi xưng tội, rước lễ và thăm mẹ.
Khi biết tin có cha Ngôn đang hoạt động ở Phú Xuân, Anrê
Trông liền xin viên cai ngục và cậu được phép về nhà một ngày dưới sự giám sát
của một người lính. Nhờ đã dò hỏi rõ nơi ở của vị linh mục, Anrê Trông và người
lính chèo thuyền đến bến đò kia vào giữa lúc trưa. Lúc đó, mọi người dân chài
đã lên bờ ăn uống nghỉ ngơi. Anh Anrê Trông liền bước qua thuyền của cha Ngôn,
đẩy thyền trôi nhẹ ra giữa dòng. Hai người nhỏ to tâm sự và anh quỳ xuống lãnh
phép lành tha tội. Xưng tội xong, anh ngỏ ý xin rước lễ, cha Ngôn hẹn anh sáng
hôm sau tại Kẻ Văn. Thế rồi anh và người lính tiếp tục chèo thuyền về Kim Long.
Hai người lên bờ và ngủ tại nhà mẹ một đêm. Tả sao cho xiết niềm vui của hai mẹ
con được tái ngộ trong hoàn cảnh bất ngờ này. Mẹ anh đã hết lời khích lệ động
viên anh kiên tâm vì đức tin.
Tảng sáng hôm sau, anh Anrê Trông và người lính gác vội vã
chèo thuyền đến điểm hẹn. Gặp lại vị "khách quí" là cha Ngôn, anh liền
quỳ xuống lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Cha Ngôn chúc lành: "Ước gì Mình
Thánh Chúa Giêsu Kitô sẽ gìn giữ con đến cuộc sống muôn đời". Anh thưa:
"Amen". Rồi trong niềm hân hoan vì hồng phúc mới lãnh nhận, anh vui vẻ
trở về trại giam như lời hứa với viên cai ngục.
Sau một năm giam tù, thấy không hy vọng gì Anrê Trông thay đổi
ý kiến, các quan quyết định ngày xử là 28/11/1835. Sáng hôm đó, người chiến sĩ
đức tin gặp được người anh họ mình. Anh ta hỏi có muốn ăn gì không? Anrê Trông
trả lời: "Em muốn ăn chay để dọn mình tử đạo", rồi nói tiếp:
"Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh.
Xin nhắn lời với mẹ em: Ðừng lo gì cho em cả, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện,
và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết".
Nhưng thực tế, người anh họ chưa kịp nhắn lại. Bà mẹ của Anrê Trông khi hay tin
con bị đem xử, liền vội vã ra đón con ở đầu chợ, nơi con sắp đi qua, gặp con,
bà chỉ hỏi một câu vắn tắt: "Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ
nần ai chăng, nếu có thì cho mẹ hay, mẹ sẽ trả thay con". Tấm lòng người mẹ
là thế đấy. Bà biết rõ con của mình đủ can đảm chịu mọi đau đớn, giờ đây bà chỉ
lo cho con về đức công bình.
Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục
đi sát bên con, bình tĩnh thêm lời khích lệ. Ðến nơi xử, sau khi quân lính tháo
gông xiềng, người chiến sĩ đức tin liền đón lấy, trao cho người lính cạnh bên
và nói: "Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm".
Mẹ anh đứng gần nên nghe rất rõ, nhưng bà chưa lấy kỷ vật đó làm đủ, bà còn muốn
đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa.
Chiêng trống nổi lên, lý hình vung gươm, đầu vị tử đạo 21 tuổi
rơi xuống. Bà mẹ của Anrê Trông chứng kiến ngay từ giây phút đầu tại pháp trường,
bà thỏa lòng dù rất khổ đau, bước ra đòi viên chỉ huy trao thủ cấp con bà.
Trong hạnh tích thánh Anrê Trông, người quân nhân xứ Huế, Ðức
Giáo Hoàng Lêô XIII ca tụng người mẹ của thánh Anrê Trông đã thể hiện lòng can
trường "theo gương Nữ Vương Các Thánh Tử Ðạo". Như Ðức Maria dưới
chân Thánh Giá dâng hiến người Con Yêu Dấu, bà mẹ đó cũng có mặt trong cuộc
hành quyết để hiến dâng người con trai duy nhất của mình. Bà đi bên cạnh con,
không than khóc không sầu buồn, trái lại còn bình tĩnh vui vẻ khuyên con hãy bền
chí đến cùng. Khi đầu Anrê Trông rơi xuống, bà mạnh dạn bước vào pháp trường
kêu lớn tiếng trước mặt các quan: "Ðây là con tôi, đứa con mà tôi đã cưu
mang dưỡng dục. Giờ này nó vẫn là con tôi, xin các ông trả lại tôi cái đầu của
con tôi". Nói xong, bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp đẫm máu của người
con yêu quí. Bọc trong vạt áo rồi ghì chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lặp đi lặp
lại: "Ôi con yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ nhé!" rồi bà
đem về mai táng trong nhà.
Ngày 27/05/1900, Ðức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn người chiến
sĩ anh hùng Anrê Trông lên hàng Chân Phước. Ngài cũng không ngớt lời ca ngợi mẫu
gương của bà mẹ hào hùng, đã họa lại gần trọn vẹn hình ảnh Ðức Maria, Nữ Vương
Các Thánh Tự Ðạo xưa trên đỉnh Canvê. Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Ðức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh.
Ngày 28/11 – Thánh James Marche, Linh mục (1394-1476)
Ngài sinh tại Marche, thuộc Ancona, Trung Ý, dọc theo biển
Adriatic. Sau khi đạt học vị tiến sĩ về giáo luật và dân luật tại ĐH Perugia,
ngài vào Dòng Phanxicô và sống khổ hạnh. Ngài ăn chay 9 tháng trong năm, mỗi
đêm chỉ ngủ 3 giờ. Thánh Bernardine Siena nói ngài đền tội vừa phải thôi.
Ngài học thần học với thánh Gioan Capistranô, thụ phong linh
mục năm 1420, đi rao giảng khắp nước Ý và ở 13 nước thuộc Trung Âu và Đông Âu.
Ước tính ngài đã làm cho khoảng 250.000 người trở lại đạo và giúp phổ biến lòng
sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu. Lời ngài giảng làm cho nhiều người Công giáo
canh tân đời sống và nhiều thanh niên gia nhập Dòng Phanxicô.
Cùng với các thánh Gioan Capistranô, Albertô Sarteanô and
Bernardine Siena, thánh James được coi là một trong 4 cột trụ của Phong trào
Observant của Dòng Phanxicô (theo đùng nghi lễ). Các tu sĩ này nổi tiếng giảng
hay.
Để đấu tranh chống ăn lời cao, thánh James thành lập Hội
montes pietatis (nghĩa đen là Núi Bác ái) – một tổ chức phi lợi nhuận cho vay
tiền và cầm đồ với mức lời thấp. Ai cũng phấn khởi với việc ngài làm. Khi đối mặt
ngài, 2 kẻ ám sát đã không dám giết ngài. Ngài được phong thánh năm 1726.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét