Lời Chúa: Con cái đời này khôn khéo
hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.
“ Ha-lê-lui-a. Ai giữ lời Đức Ki-tô dạy,
thì nơi kẻ ấy, tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Ha-lê-lui-a.”
Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi
Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa
Và giờ đây Giê-ru-sa-lem hỡi
Cửa nội thành ta đã dừng chân.
Ngày 07/11-Thánh Điđacô, Tu sĩ (1400-1463)
Ngài là nhân chứng sống của Thiên Chúa “những gì thế gian
cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những
gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh”
(1 Cr 1:27).
Ngài sinh tại Tây Ban Nha, vào Dòng Phanxicô và sống ẩn tu một
thời gian. Ngài có tiếng về hiểu được đường lối Chúa, ăn chay đền tội nghiêm nhặt,
nhưng hào phóng với người nghèo đến nỗi các tu sĩ khác không bằng lòng với cách
bác ái của ngài.
Ngài tình nguyện đi truyền giáo ở đảo Canary và làm việc
hăng say ở đó. Ngài được bầu làm bề trên ở đó.
Năm 1450, ngài được cử tới Rôma để tham dự lễ phong thánh
cho nữ tu Bernardine Siena. Khi về Tây Ban Nha, ngài hoàn toàn sống tĩnh lặng.
Ngài cho các tu sĩ thấy sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Khi hấp hối, ngài nhìn Thánh giá và nói: “Ôi gỗ thánh, ôi
đinh quý giá! Các ngươi được sinh ra để chịu gánh nặng ngọt ngào, và xứng đáng
mang Thiên Chúa và Vua Trời” (Marion A. Habig, O.F.M., Sách các thánh Dòng
Phanxicô, tr. 834).
San Diego, thành phố thuộc bang California (Hoa Kỳ), theo tiếng
Tây Ban Nha nghĩa là Thánh Đidacô. Ngài được phong thánh năm 1588.
Ngày 07-11-1743-1773
Thánh Jacintô Castaneda Gia Linh mục dòng Đaminh tử đạo
Henricô Gia
(Henricus Castaneda),Sinh năm 1743
tại Javita, Tây Ban Nha, Linh Mục dòng Ða Minh, thừa sai người Tây Ban Nha,
địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 07/11/1773 tại Ðồng Mơ dưới đời
Chúa Trịnh Sâm, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính
vào ngày 07/11.
|
Cuối năm 1773, tin tức linh mục Castaneda tử
đạo đã về tới quê hương ngài ở Tây Ban Nha. em trai thánh nhân là Clêmentê
biết trước tiên, đã hết sức thận trọng khi báo tin cho mẫu thân. Bà sốt sửng
hỏi: "Tại sao Jacintô của mẹ lại chết. Anh ấy chết bệnh hay bị
giết?". Clêmentê chợt nghĩ anh mình mới 30 tuổi, sợ mẹ buồn lên anh hỏi
lại: "Vậy mẹ muốn anh ấy chết cách nào?. Bà đáp: "Mẹ mong vì đức
tin mà Jacintô con mẹ bị giết". Clêmentê liền nói : "Thưa mẹ, chính
vì đức tin, người ta đã chém đầu anh ấy". Ngay chiều ngày hôm đó, bà mẹ
đến nhà thờ dòng Đaminh để cùng các tu sĩ hát lên lời tạ ơn TE DEUM.
Jacintô Castanede sinh ngày 13.10.1743 tại
Jativa, thuộc giáo phận Valencia, Tây Ban Nha. Cậu được trời phú cho một
khuôn mặt xinh đẹp đặc biệt. Nhiều người so sánh cậu đẹp như thiên thần trong
các tranh của nhà danh họa Tây Ban Nha Murille (1862). Hơn thế nữa, chàng
thanh niên tuấn tú ấy lại có một tâm hồn cao quý, đã sớm quyết tâm dâng hiến
cuộc đời phục vụ Thiên Chúa và truyền giảng Tin Mừng cho thế giới. Để thực
hiện lý tưởng cao cả đó, cậu đã gia nhập dòng Đaminh tại tu viên thánh
Philipphê ở Valencia.
Lòng nhiệt thành truyền giáo đã đưa thày
Jacintô đến Phi Luật Tân năm 1762. Sau khi thụ phong linh mục, cha tình
nguyện đi loan báo Tin Mừng ở Trung Hoa. Dầu Trung Hoa đang cơn cấm cách, cha
đã đến nơi vào tháng 04.1766 cùng với cha Lavilla giảng đạo ở Phúc Kiến. Sau
ba năm nhiệt thành phục vụ, ngày 18.07.1769 hai vị linh mục bị bắt giữ 15
ngày ở Phú An, rồi gần hai tháng với 14 cuộc thẩm vấn ở Phúc Kiến, cuối cùng
các ngài bị trục xuất về Macao.
Không nản chí và cũng không chùn bước, tại
Macao, gặp hai cha dòng khác từ Manila tới để đi Việt Nam, cha Castaneda và
Lavilla liền xin bề trên cho phép đồng hành sang Việt Nam. Sau đó, bốn vị
cùng đáp tàu đến Bắc Việt ngày 23.02.1770. Cha Gia ở lại Trung Linh học tiếng
Việt và phong tục Việt trong sáu tháng, rồi được cử đi truyền giáo ở khu Lai
Ổn, Kẻ Diền, phủ Thái Ninh. Cha tự thuật như sau : "Hiện nay với sự cộng
tác của hai linh mục bản xứ. Quả thật, tôi không đủ sức cáng đáng hết những
việc phải làm".
Vì 60 làng có đạo mà cha Gia phụ trách ở rải
rác cách xa nhau, nên cha phải liên tục di chuyển hết làng này đến làng khác,
và chẳng bao lâu, sức khỏe cha giảm sút mau lẹ. Dù vậy, cha vẫn cố gắng đến
thăm từng họ đạo. Giáo hữu rất yêu mến cha, nhưng luơng dân cố lập mưu bắt
cha để được tiền chuộc hoặc tiền thưởng. Do đó, nhiều lần cha phải đổi chỗ để
thoát khỏi những cặp mắt đang rình rập.
Ba năm truyền giáo đã trôi qua, ngày
12.07.1773, sau khi ban bí tích cho một bệnh nhân ở Lai Ổn, cha Gia và thày
Tân về Kẻ Diền bị lọt vào vòng vây của quan phủ Thần Khê. Để đánh lạc hướng,
thày Tân nhanh trí chèo thuyền quan bên kia sông Luộc, rồi lập tức quay lại
cùng cha trốn vào ở làng Gia Đạo. Không ngờ người gia chủ đi báo với quan để
lãnh thưởng nên cả hai đều bị bắt.
Qua trung gian chánh tổng Xích Bích, quan
đòi 3 ngàn tiền chuộc. Cha đáp : "Quan muốn tha thì tha chứ tôi không có
tiền chuộc. Tôi sẵn sàng chịu mọi gian khổ kể cả cái chết". Sau nhiều
ngày hành hạ cha đủ cách, quan phủ không còn hy vọng đòi tiền chuộc nữa, mới
cho giải nộp lên quan Trấn thủ Sơn Nam ở Phố Hiến (Hưng Yên), và cha Gia bị
tống giam vào ngục.
Giữa tháng 10.1773, cha hân hoan gặp một tù
nhân mới, linh mục Vinh Sơn Liêm bị bắt ngày 02.10 tại Lương Đống, cũng bị
Chánh tổng Xích Bích giam giữ 12 ngày trước khi giải lên. Thật là niềm vui
lớn, hai anh em cùng dòng từ nay sẽ đồng hành với nhau trong ngục tù cũng như
trong vinh quang tử đạo. Ngày 20.10, quan Trấn truyền đóng gông hai cha có
ghi chữ "Hoa Lang Đạo Sư"(1), rồi trao cho quan phủ Thần Khê áp
giải lên Thăng Long.
Tại kinh thành Thăng Long, hai linh mục dòng
Thuyết Giáo có nhiều cơ hội trao đổi về giáo lý với các quan. Cuộc trang luận
nổi tiếng nhất được mệnh danh là "Hội Đồng Tứ Giáo", giữa đại diện
bốn tôn giáo: Khổng giáo, Lão Giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo. Ba đề tài
được đưa ra: Người ta bởi đâu mà có ? Sống ở đời này để làm gì ? Và chết rồi
đi đâu ? Cha Gia với kinh nghiệm giảng đạo ở Phú Kiến, đã thành thạo trưng
dẫn những điển tích, châm ngôn của Trung Hoa, khiến viên quan tổ chức, chú
của Chúa Trịnh Sâm, phải hết sức khâm phục.
Chính Đô Tĩnh Vương Trịnh Sâm cũng thích hỏi
hai cha nhiều chi tiết về đạo. Một hôm, ông yêu cầu cha Gia cử hành vài nghi
lễ cho các quan xem, cha liền mặc áo lễ, cắt nghĩa lễ phục và trình bày giáo
lý cho các quan. Sau đó, cha đặt tượng Thánh Giá trước ngài Tĩnh Đô Vương,
quỳ xuống hôn kính sốt sắng và đọc kinh bằng tiếng Việt các kinh Ăn Năn Tội,
kinh tin Kính, kinh Lạy Cha. Tiếp đó, cha nâng cao ảnh Đức Mẹ và đọc kinh Lạy
Nữ Vương. Cử chỉ và lời kinh của cha gây nhiều xúc động cho những người hiện
diện. Nhưng số phận của cha đã được định đoạt trong chiếu chỉ của phủ chúa
rồi. Có điều bản án đến sớm hơn vì bà mẹ chúa Trịnh Sâm.
Nguyên do bà mẹ của Tĩnh Đô Vương rất sùng
đạo Phật. Khi nghe tin có hai linh mục trẻ tuổi, thông thái lại điển trai và
ăn nói văn hoa, liền yêu cầu được gặp mặt và nói chuyện. Thế là hai vị được
dẫn đến trước mặt Thái Tôn. Rồi một hồi trao đổi thân mật, bỗng nhiên bà hỏi:
"Nếu các thầy nói chỉ có đạo các thầy là đạo thật, vậy những người không
theo đạo, chết đi về đâu ". Cha Liêm điềm nhiên trả lời : "Bẩm bà,
sa hỏa ngục ạ !"(2). Câu trả lời của vị linh mục làm Thái Tôn nổi giận,
không thèm nghe giải thích thêm, đòi xử tử hai ông đạo sư ngay lập tức. Từ
đó, hai cha bị cách ly, không cho gặp ai nữa. Ngày 04.11.1773, sau một buổi
nghị án, chúa Trịnh Sâm tuyên án trảm quyết cả hai vị.
Ngày 07.11.1773, quan quân điệu hai vị tông
đồ đến pháp trường Đồng Mơ thi hành bản án. Trên đường, hai vị cùng thầm thĩ
cầu nguyện xin Chúa thứ tha mọi lỗi lầm, đọc kinh Tin Kính và hát "Salve
Regina" (Kinh Lạy Nữ Vương). Hai chứng nhân Chúa Kitô cùng lãnh triều
thiên tử đạo. Cha Jacintô khi ấy mới 30 tuổi, với sáu năm truyền giáo ở Trung
Hoa và Việt Nam. Nhưng máu ngài đổ ra đã vun tưới cho hạt giống Tin Mừng âm
thầm trổ bông.
Thi hài hai vị tử đạo được an táng trọng thể
ở nhà thờ Trung Linh. Ngày 13.11.1775, trong diễn văn trước Hồng Y đoàn, Đức
Piô VI đã nhắc đến chiến thắng vinh quang của hai vị.
Ngày 20.05.1906, Đức Piô X đã suy tôn hai
chứng nhân anh hùng lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
|
Ngày 07-11- 1732-1773
Thánh vinhsơn Phạm Hiếu Liêm Linh mục dòng Đaminh Tử đạo.
* Hội Đồng Tứ Giáo.
Đọc lại chuyện các anh hùng tử đạo, chúng ta thấy các ngài
làm chứng cho Chúa Kitô hai lần: bằng mạng sống và bằng lời nói. Các vị đã nói
để tuyên xưng niềm tin của mình, có vị giải thích những dư luận sai lầm, có vị
cắt nghĩa giáo lý. Nhưng chuyện hy hữu nhất trong chuyện 117 thánh tử đạo Việt Nam, là
linh mục Vinh Sơn Liêm và một
linh mục bạn, cha Jacinto Gia, đã tranh luận suốt ba ngày với đại diện ba
tôn giáo lớn ở nước ta khi đó, là Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo.
Con người bởi đâu mà có ? Sống ở
đời để làm gì ? Và chết rồi đi về đâu ? Đó là ba vấn đề lớn của cuộc nhân sinh,
đã được đem ra trao đổi trong Hội Đồng Tứ Giáo. Những lời lẽ nhã nhặn và sáng sủa,
những phân tích sâu sắc về lịch sử với các trích dẫn chính xác kinh điển của Khổng
Tử, Lão Tử và Phật Giáo, đã được ghi lại trong cuốn “Hội Đồng Tứ Giáo” từng tái
bản tới 14 lần tại Sài Gòn (1), sẽ mãi mãi nhắc chúng ta nhớ đến cha Vinh Sơn
Liêm, tác giả cuốn sách, là người tham gia cuộc trao đổi, và là linh mục Việt
Nam tử đạo đầu tiên.
* Vinh Sơn Hòa Bình.
Vinh sơn Phạm Hiếu Liêm mở mắt
chào đời năm 1732 tại Thôn Đông, làng Trà Lũ, Phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam Hạ.
Thân phụ cậu, ông Antôn Doãn, là một thân hào trong thôn. Thân mẫu cậu, bà
Maria Doãn, một người mẹ đạo đức, đã hết mình với việc giáo dục con cái. Năm 12
tuổi, cậu Liêm vào tu trong nhà Đức Chúa Trời ở Lục Thủy. Qua sáu năm học tập,
cậu đã tỏ ra là người thông minh đạo đức, nên được các cha đòng Đaminh thời đó
đang phụ trách giáo phận Đông Đàng Ngoài để ý. Cha chính Espinnoza Huy đã chọn
cậu vào số các thanh niên hưởng học bổng của Tây Ban Nha, gởi đi du học Manila
(Phi Luật Tân) tại trường Juan de Letran.
Sau ba năm học thành công xuất sắc,
thầy Liêm xin gia nhập dòng Đaminh và lãnh tu phục ngày 09.09.1753. Năm sau, thầy
tuyên khấn trọng thể cùng với ba tu sĩ đồng hương (2) và lấy biệt hiệu là VINH
SƠN HÒA BÌNH (Vincente de la Paz). Tiếp đó, thầy Vinh Sơn học thêm bốn năm thần
học và được thụ phong linh mục năm 1758.
Thụ phong linh mục rồi, cha Liêm
liền chuẩn bị trở về phục vụ quê hương. Ngày 03.10 năm đó, khi giã từ các giáo
hữu và thân hữu để xuống tàu hồi hương, cha không thể giấu nổi niềm xúc cảm với
bao lưu luyến những bạn bè quen thuộc trong tám năm qua. Về đến Trung Linh ngày
20. 01.1759, cha đã không cầm nổi nước mắt, vì vui mừng được gặp lại cha chính
Huy ra đón tận bến đò, được tái ngộ cùng thân quyến, đồng bào, xóm làng, và nhất
là giáo hữu đang nôn nao đón chờ ngày “vinh quy” của vị linh mục du học hải ngoại.
* Người loan báo Tin Mừng.
Về Việt Nam, trước hết cha Vinh
Sơn được bổ nhiệm làm giáo sư chủng viện Trung Linh. Cha đã đem hết tài trí và
nhiệt thành truyền đạt cho các chủng sinh những kiến thức cha đã thu thập được.
Nhưng nguyện vọng của linh mục Vinh Sơn
Hòa Bình lại là loan báo Tin Mừng bình an cho anh em. Và chẳng bao lâu, cha rời
chủng viện dấn thân vào cánh đồng truyền giáo. Cha lần lượt đảm nhiệm các xứ Quất
Lâm, Lục Thủy, Trung Lễ, Trung Linh, Trung Lao, và từ khi cha Jacinto Gia bị bắt,
cha kiêm luôn cả vùng Lai Oån.
Hoạt động tông đồ của cha không
chỉ hạn hẹp trong các giáo xứ, mà còn mở rộng đến các làng ngoại giáo, bất chấp
những khó khăn nguy hiểm của thời cấm cách, nhất là từ thời chúa Trịnh Sâm
(1767 - 1782). Tại bất cứ nơi nào, cha cũng luôn nhiệt tình yêu thương, giúp đỡ
mọi người, nên ai cũng hết lòng thương mến. Cha khích lệ mọi người thêm can đảm,
cha an ủi những người buồn sầu, và không nề hà bất cứ điều gì vì lợi
ích thiêng liêng của họ.
Dầu thành công trong công tác,
cha Liêm không bao giờ tự mãn với chính mình. Trong các thư của cha, ta còn đọc
được: “Xin Đức cha và cha bề trên cầu nguyện cùng Chúa cho con, khi dâng lễ và
trong kinh nguyện, để mỗi ngày con được hòan thiện hơn, vui lòng đón nhận những
khốn khó theo ý Chúa”. Một ông hoàng, em thứ sáu của chúa Trịnh Doanh trước khi
từ trần đã lãnh bí tích Thánh tẩy nhờ công của các vị thừa sai, cha Liêm đón nhận
tin đó như niềm vui của Giáo Hội Việt Nam, và loan báo cho bề trên Giám tỉnh ở
Manila (3).
* Lời chứng giữa công hội.
Năm 1773, cha Vinh Sơn Liêm đang
đi giảng cho họ Lương Đống, chuẩn bị mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Các quan nghe tin,
liền cho ông Điều Cam đem quân vây bắt cha tại nhà ông Nhiêu Nhuệ ngày 02.10.
Sau một trận đòn chí tử, họ trói cha và hai cậu giúp lễ Matthêu Vũ, Giuse Bích,
rồi đem nộp cho Chánh tổng Xích Bích. Viên Chánh tổng giam cha 12 ngày không thấy
các tín hữu đưa tiền chuộc, sau đó mới chịu giải lên Phố Hiến nộp cho quan trấn.
Ở đây cha Liêm gặp một linh mục cùng dòng, cha Castaneda Gia đã bị giam ở đó.
hai anh em sung sướng cùng nhau chia sẻ ngọt bùi trong cảnh tù tội.
Ngày 20.10 quan trấn bắt hai cha
mang chiếc gông có ghi bốn chữ “Hoa Lang Đạo Sư”, rồi trao cho quan phủ Thần
Khê giải hai cha và hai cậu giúp lễ về
kinh đô Thăng Long, ra mắt chúa Trịnh Sâm. Chính tại đây đã diễn ra Hộ Đồng Tứ
Giáo.
Có một quan lớn là chú của chúa
Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Mẹ của quan lớn, bà Thượng Trâm, quê xứ Hải Dương, vốn
có đạo. Nhiều lần bà khuyên con tòng giáo. Quan lớn liền nảy ra sáng kiến triệu
tập đại diện bốn tôn giáo để trình bày về đạo của mình. quan nói: “Lòng ta chuộng
sự thật muốn biết đạo nào là đạo chính để thờ phượng”. Cuộc trao đổi kéo dài ba
ngày, mỗi ngày một vấn đề về nguồn gốc con người, mục đích cuộc đời và đời sau
của mỗi người. cha Liêm và cha Gia đại diện đạo Thiên Chúa đã khéo léo trình
bày đến nỗi quan lớn phải trầm trồ khen ngợi. Nhưng vì biết Phủ Chúa vẫn cấm đạo,
nên quan vẫn ngần ngại chưa theo (4).
Sau đó ít bữa, hai cha có cơ hội để nói về đạo với Thái
Tôn, mẹ của Chúa Trịnh Sâm. Bà vì tò mò, đã cho vời các ngài vào. Không nói rõ
nội dung buổi nói chuyện ra sao, nhưng cuối cùng Thái Tôn hỏi: “Nếu chỉ có đạo
các thày là đạo thật thì những người không theo đạo ấy, chết rồi đi đâu?”. Cha
Liêm đáp: “Bẩm bà, sa hỏa ngục ạ”.(5) Nghe thế, Thái Tôn Dương Hậu đùng đùng nổi
giận, bà dùng uy tín ép con là Tĩnh Đô Vương phải xử tử hai vị linh mục. Do đó,
ngày 04.11, Tĩnh Đô Vương đã lên án trảm đã lên án trảm quyết hai cha, hai cậu
giúp lễ bị kết án lưu đầy, đến khi nộp 100 quan tiền chuộc thì được trả tự do.
Ngày 07.11, hai cha bị đem đi xử,
dân chúng đi xem rất đông. Khi đoàn người dừng trước hoàng cung, một viên quan
đọc bản án. Theo phong tục thời đó, lúc này vua có thể ân xá cho tội nhân. một
viên quan khác lớn tiếng nói: “Hoa Lang Đạo đã bị nghiêm cấm, nhưng cho đến
nay, chưa người dân Việt nào bị xử tử vì đạo này (6) nên vua đại xá cho tên
Liêm”. Nghe thế cha Liêm vội lên tiếng thưa rằng:
“Cha Gia bị án trảm quyết vì lẽ
gì thì cũng phải lên án trảm quyết cho tôi vì lẽ đó. Cha Gia là đạo trưởng, tôi
cũng là đạo trưởng. Nếu luật nước không kết án tôi thì cũng không được kết án
cha Gia. Vì tôi là công dân nước Việt, lẽ ra tôi phải giữ luật nước hơn ngài. Nhưng nếu giết cha Gia, còn tôi lại tha, án của vua không
công bằng. Yêu cầu tha thì tha cả hai, giết thì giết cả hai. Thế mới là án công
bình”.
Dầu sao thì bản án vẫn không thay
đổi. Hai vị anh hùng đức tin đã vui mừng đọc kinh Tin Kính và hát kinh Lạy Nữ
Vương trên đường ra pháp trường Đông Mơ. Những nhát gươm định mệnh, chứng tá
tuyệt hảo cho Đức Kitô. Thi hài các ngài được rước về an táng tại Trung Linh.
Ngày 20.05.1906 Đức Thánh Cha Piô
X suy tôn các ngài lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Riêng thánh Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm,
nhiều trường học đã nhận ngài làm Bổn Mạng, trong đó có trường cao đẳng Juan de
Letran ở Phi Luật Tân. Thánh nhân quả là ánh vinh quang của dân tộc Việt nơi hải
ngoại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét