* Niềm tin yêu cao quý
“Quá khóa đi ! Ta
thương và giảm nhẹ án cho !”
Quá Khóa ? Làm sao cha
Hưởng có thể Quá Khóa được ? Vì sợ hình phạt dành cho người phản bội đạo Chúa?
– Vâng. Vì trách nhiệm của một vị đạo trưởng ?- Vâng. Nhưng không phải chỉ có
thế. Quá khóa, đó là chối bỏ niềm tin cao quý nhất của người tín hữu, chối bỏ cả
ý nghĩa cuộc đời mục tử của mình.
Quan án không hiểu được
cha. Các người lính không thể hiểu cha. Những người đồng đạo cảm thông và kính
mến cha. Nhưng có ai cùng cảnh ngộ với cha chăng ? Ngay từ ấu thơ đã phải chịu
cảnh bất hạnh nhất của một con người :Mồ côi cha mẹ. Lâm vào cảnh lam lũ vất vả
để kiếm sống, con người bất hạnh đó luôn luôn khát khao tình thương của người
cha, sự âu yếm của người mẹ, một nỗi khát khao lớn lao không một tấm lòng trần
gian nào có thể lấp đầy. Cuối cùng, người con mồ côi ấy đã khám phá ra Thiên
Chúa chính là Người Cha yêu thương vô bờ bến, và đã dâng hiến trọn đời mình, trọn
đời linh mục cho Tình Thương cao cả ấy.
Biết nói sao đây ? Cha
Hưởng chỉ biết đơn sơ trả lời quan án :” Bẩm quan lớn, có bao giờ con cái dẫm đạp
lên đều cha mẹ mình chăng?”
Thế là một lần nữa cha
phải trả giá cho ý nghĩa cuộc đời linh mục, và lần này thì bằng một giá cao nhất
là chính mạng sống của mình.
* Tuổi xanh gian khổ.
Cậu bé Laurenso Nguyễn
Văn Hưởng sinh năm 1802, tại xã Tụy Hiền, xứ Kẻ Sải, tổng Trinh Tiết tại Hà Nội.
Gia đình nghèo, mồ côi cha mẹ ngay từ nhỏ. Cậu Hưởng phải đi chăn trâu cho ông
chú ngoại giáo tên là Thang. Thấy cậu hiền lành, ông rất quý mến và đối xử như
con ruột. Tình thương của ông chú thật đáng quý, nhưng chẳng thể bù đắp được nỗi
bất hạnh do thiếu tình yêu cao quý của cha mẹ ruột, bởi vì chỉ có tình yêu của
cha mẹ mới thực sự bao la mà ca dao Việt Nam thường ví:
Công
Cha như núi Thái Sơn
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Cậu Hưởng muốn dâng
mình cho Chúa để tìm kiếm một tình thương trọn vẹn hơn, nên đến xin cha Duyệt,
chánh xứ Sơn Miêng giúp đỡ. Sau ba năm được cha xứ nuôi dưỡng ăn học, cậu được
gửi vào học tại chủng viện Vĩnh Trị, thụ giáo với cha chính địa phận Tây Đàng
Ngoài.
Khi vua Minh Mạng ra lệnh
cấm đạo nghiêm ngặt, chủng viện Vĩnh Trị phải giải tán. Cậu về quê làm thuốc
viên bán quanh làng Độ Nhật, và cũng để thăm viếng giúp đỡ nhiều người. Nhân dịp
này, ông chú khuyên cậu nên ở nhà lập gia đình. Ông còn hứa nhường lại gia sản
cho cậu. Một quan Tổng có họ hàng với cậu cũng hứa giúp đỡ tận tình. Nhưng cậu
Hưởng vẫn cương quyết theo lý tưởng tu trì. Ông chú tức giận đuổi cậu ra khỏi
nhà, và cậu liền trở về chủng viện Vĩnh Trị.
* Tất cả vì danh Chúa
Mãn khóa học, cậu Hưởng
được gia nhập bậc thầy giảng, đi giúp xứ Kim Sơn, xứ Bạch Bát,.Trong suốt tám
năm trời, thầy Hưởng luôn làm việc tận tụy, sống giản dị, khiêm tốn và bác ái.
Sau đó, Đức cha gọi thầy về học thêm thần học và truyền chức linh mục cho thầy.
Cha Hưởng trở nên một linh mục nhiệt thành, làm phó xứ Giang Sơn hai năm, rồi
sang xứ Lạc Thổ, Yên Lộc, Bạch Bát. Ở đâu cha cũng tỏ ra là vị linh mục siêng
năng, nhiệt tâm giảng dạy tín hữu, thường xuyên viếng thăm những bệnh nhân.
Năm 1855, cha bị bắt
trên đường đi thăm kẻ liệt. Khi ấy, cha đang ở trên thuyền thì mấy gia nhân của
phó tổng Tùy với gậy gộc la ó rượt theo, cha liền bảo người lái đò chèo qua bờ
bên kia sông rồi bỏ đi. Cha tự nguyện nộp mình, và không muốn người khác phải
liên lụy.
Bị bắt, cha không coi
đó là một tai họa, nhưng là thánh ý Chúa muốn cho mình thông phần vào cuộc tử nạn
của Đức Ki-tô, và nhắn với cha già Chất cùng bổn đạo đừng chạy tiền chuộc.
Sau ba ngày bị giam ở
huyện Yên Mô, cha được giải về tỉnh Ninh Bình. Quan tỉnh thấy cha có nét chân
tu nên hứa :” Nếu ông đạp lên Thánh Giá, ta cho đến trụ trì ở chùa Non Nước”.
Cha đáp :” Tôi không biết gì về Thần Phật, làm sao ở chùa được?”. Quan yêu cầu
cha đọc kinh bên đạo, cha đọc Mười Điều Răn. Quan lại thắc mắc về tin đồn rằng
:” Tại sao các ông khoét mắt người bệnh, và không thờ kính tổ tiên ?” Cha Hưởng
bình tĩnh giải thích cho quan :” Xin quan đừng nghe những lời đồn đãi sai lạc,
chúng tôi chỉ xức dầu trên mắt mũi, tai miệng và tay chân để xin Chúa tha các tội
mà bệnh nhân đã dùng chúng để phạm tội. Còn với tổ tiên, chúng tôi hằng cầu
nguyện bằng các việc lành, chỉ có điều chúng tôi không cúng quả, vì biết rằng
cha mẹ chẳng thể trở về ăn uống thứ gì được nữa”.
Với các tín hữu đến
thăm, cha an ủi họ:” Chúng con phải mừng cho cha, vì cha được chịu khổ vì chúa
Giê-su”.
* Chính trực đến cùng.
Sau nhiều lần dụ dỗ
không được, các quan Ninh Bình làm án xin vua cho xử trảm. Trước đó, vì các
quan đã nhận mười nén bạc của giáo hữu, nên tìm cách giảm nhẹ án cho cha. Họ đề
nghị cha khai mình chỉ là một tín hữu thôi, nhưng cha nhất định không chịu khai
man che giấu chức vụ linh mục. Cha viết thư cho Đức cha Retord Liêu :
“Xin Đức cha đừng chạy
tiền chuộc con làm chi, con sẵn lòng hy sinh để làm chứng đạo chúa Giê-su là đạo
thật. Xin Đức cha cầu nguyện cho con được vững vàng cho đến cùng”.
Cuối cùng vị linh mục
được mãn nguyện. Trước kia, cha đã cương quyết từ chối lời đề nghị của ông chú,
bây giờ cha lại vui mừng đón nhận bản án tử hình. Cha hân hoan chờ đợi bản án
như chờ đợi vòng tay Chúa Cha yêu dấu đang rộng mở đón chờ người con yêu. Đúng
ngày thi hành bản án, cha Khoan vào ngục thăm, giải tội và trao Mình Thánh lần
cuối cùng. Cha Hưởng vui vẻ ra pháp trường nằm trên võng giáo hữu đã thuê sẵn.
Cha cầm sách nguyện kinh Thần vụ lần cuối….
Đầu cha rơi xuống, cha
Laurenso Hưởng đã vượt qua cuộc đời trần thế để về sum họp với Cha trên trời
ngày 27-04-1856. Các tín hữu đã an táng thi hài chứng nhân Chúa Ki-tô tại Vĩnh
Trị.
Đức Thánh Cha Pi ô X
suy tôn Chân Phước cho cha Laurenso Nguyễn Văn Hưởng ngày 02-05-1909. Vào ngày
19-06-1988 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn cha lên bậc Hiển thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét