Lời
Chúa: Đến ngày phán xét, thành Tia, thành Xi-đôn và đất Xơ-đôm còn được xử
khoan hồng hơn các ngươi.
Ha-lê-lui-a.
Ngày hôm nay, anh em chớ cứ lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa. Ha-lê-lui-a.
Những
ai nghèo hèn, xem đấy mà vui lên,
người
tìm Thiên Chúa, hãy nức lòng phấn khởi.
Vì
Chúa nhận lời kẻ nghèo khó.
chẳng
coi khinh thân hữu bị gian cầm.
Ngày 14/07 – Chân phước Kateri Tekakwitha (1656-1680)
Chín năm sau khi các tu sĩ Dòng Tên là
Isaac Jogues và John de Brébeuf bị Huron và Iroquois Indians tra tấn tới chết,
một bé gái tênKateri Tekakwitha sinh ra tại Auriesville, New York, gần nơi hai
vị tử đạo kia. Kateri Tekakwitha là chân phước đầu tiên của Bắc Phi.
Mẹ ngài theo Kitô giáo, bị Iroquois bắt và
cống làm vợ của trưởng tộc Mohawk, một con người trơ tráo nhất và hung dữ nhất
trong Ngũ quốc (Five Nations, 5 nước). Tekakwitha là con thứ tư, cha mẹ và em
trai mất vì bị bệnh đậu mùa. Dịch bệnh này còn khiến mặt bà biến dạng và gần bị
lòa mắt. Bà được người chú bác nuôi dưỡng. Người chú bác này thay cha bà làm
trưởng tộc, ông ghét sự xuất hiện của những “người áo chùng đen” (blackrobes, tức
là các nhà truyền giáo), nhưng ông không thể làm gì vì hiệp ước hòa bình đã ký
với Pháp quốc buộc cho các nhà truyền giáo có mặt ở các làng mạc có người Công
giáo bị bắt giữ. Bà được đánh động bởi lời của 3 nhà truyền giáo ở với người
chú bác của bà, như bà sợ người chú bác ngăn cấm. Bà cương quyết không chịu kết
hôn với Mohawk, và lúc 19 tuổi, bà can đảm gia nhập Công giáo. Bà được rửa tội
vào lễ Phục sinh với tên thánh là Kateri (Catarina).
Bà bị coi như nô lệ. Vì không chịu làm việc
ngày Chúa nhật nên hôm đó bà không được nhận khẩu phần ăn. Bà tiến bộ nhanh
trên đường nhân đức. Bà nói với một nhà truyền giáo rằng bà thường suy niệm về
chân giá trị của người được rửa tội. Bà được đánh động bởi tình yêu Thiên Chúa
đối với con người và thấy được nhân phẩm của người khác. Bà luôn gặp nguy hiểm
vì bà gia nhập đạo, và đời sống thánh thiện của bà khiến nhiều người chống đối.
Nhờ lời khuyên của một linh mục, bà trốn đi và phải đi bộ suốt 200 dặm (1 dặm
là 1,6 km) để đến một làng Công giáo của người Ấn Độ ở St. Louis, gần Montreal.
Trong vòng 3 năm, bà tiến bộ trên đường
nhân đức theo sự linh hướng của một linh mục và một phụ nữ lớn tuổi người
Iroquois, hoàn toàn tận hiến cho Chúa trong những giờ cầu nguyện lâu, trong việc
bác ái và chuyên cần ăn năn đền tội. Lúc 23 tuổi, bà khấn giữ mình đồng trinh,
một hành động chưa từng thấy đối với phụ nữ Ấn độ. Bà thường vô rừng cầu nguyện
mỗi ngày một giờ, thế nên bà bị người ta cho là bí mật đi hẹn trai!
Bà qua đời vào chiều thứ Tư Tuần Thánh.
Các nhân chứng nói rằng khuôn mặt hốc hác của bà bỗng biến sắc và nhìn như người
khỏe mạnh. Những vết nhăn và cả những vết rỗ (do đậu mùa) đều biến mất và miệng
bà tươi cười. Bà được CP GH Gioan-Phaolô II tôn phong chân phước năm 1980.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét