* V ì chính tôi đã tha thứ.
"Con ơi, hãy tha thứ. Đừng
tìm báo thù kẻ tố giác cha nhé". Đó là lời trăn trối cuối cùng của thánh
Emmanuel Lê Văn Phụng cho con trai trước khi bị xử chém. Noi gương Đức Kitô
trên Thập Giá xin Chúa cha tha những kẻ hành hạ mình, thánh nhân nài nỉ các bạn
hữu sống trọn vẹn giới luật bác ái Kitô Giáo : "Hãy tha thứ cho kẻ thù. Đừng
báo oán những kẻ tố giác hay kết án tôi, hãy tha thứ, hãy tha thứ vì chính tôi,
tôi đã thứ tha…" Cho đến muôn đời, mẫu gương và lời nói đó sẽ mãi mãi vang
vọng trong lòng người tín hữu Việt Nam.
* Xanh vỏ đỏ lòng.
Emmanuel Lê Văn Phụng sinh năm
1796 tại họ Đầu Nước, Cù Lao Giêng, tỉnh An Giang, thuộc trấn Châu Đốc, Nam Hà.
Nhìn bề ngoài, ông Phụng không mấy hấp dẫn, vì vóc dáng có vẻ gân guốc, lại hay
lớn tiếng với mọi người. Nhưng trái lại, nhờ tính cương trực, sự dứt khoát cũng
như lòng nhiệt thành với việc chung, ông được bà con tín nhiệm đề bạt làm
"câu" (Trùm) họ Đầu Nước. Đáp ứng lại sự tín nhiệm đó, ông Câu Phụng
đã góp sức tổ chức giáo họ thêm lớn mạnh ngay trong thời bách hại đạo dưới thời
vua Tự Đức.
Nhờ tài đức của ông, họ đạo đã
tái thiết được ngôi thánh đường khang trang, cất nhà cho các nữ tu và trở thành
khu trú ngụ khá an toàn cho các giáo sĩ. viên quan huyện địa phương một phần vẫn
nhận tài trợ của ông, một phần đã thấy rõ sinh hoạt tôn giáo không có gì nguy
hiểm, nên cho người báo tin trước khi phải kiểm tra theo lệnh trên, đủ thời giờ
để các tín hữu cất dấu ảnh tượng và các vật dụng tôn giáo.
* Tai họa bất ngờ.
Thế nhưng có điều ông Câu Phụng
không ngờ tới là món tiền thưởng của nhà vua vốn có một hấp lực với một vài
lương dân trong vùng. Những ngày này họ chia nhau theo dõi nhà ông, mỗi đêm họ
cử người leo lên cây xoài gần đó để quan sát, và họ đã toại nguyện. Cuối năm
1858, họ đã phát hiện một vị thừa sai ngoại quốc Pernot Định đang tạm trú tại
nhà ông Câu.
Đêm hôm đó, khi mọi người đã an
giấc, cha Pernot Định ra sân đi dạo để hít thở không khí trong lành và cầu nguyện
giữa khí mát trăng sao. Đêm thanh như có phép mầu làm tiêu tan đi những mệt nhọc
ban ngày và giúp cha hướng về Đấng Tạo Hóa cao thẳm, thầm ước mong các tín hữu
Việt Nam sẽ đông đúc như sao ở trên trời. Trước khi khép cửa để vào nhà ẩn nấp,
cha còn nói với lại : "Chào các bạn tinh tú nhé. Thực là tồi tệ cho những
ai bắt tôi phải sống thế này".
Thế là hai người rình rập hôm đó
mừng rỡ, họ vội vã kéo nhau đi báo cho quan trấn phủ Châu Đốc. Họ tố gíac ông
Câu Phụng chứa chấp Tây Dương Đạo Trưởng. Họ cũng không quên xin phái quan lãnh
binh đi bắt, chứ đừng báo quan huyện, vì quan này thông đồng với Công Giáo.
Sáng ngày 07.01.1859, ông Câu Phụng
chưa hay biết gì cả. Ngoài thừa sai Pernot Định, còn có cha Phêrô Quý (cha sở mới
họ Đầu Nước). Đang trọ tại nhà ông. hai linh mục vẫn dâng lễ như thường. Sau đó,
mới có người chạy về báo tin là quan quân Châu Đốc đi thuyền và đi bộ đang tiến
đến nhà ông. Ông Phụng liền cử người đưa hai cha đi trước, nhưng cha Quý nhất định
ở lại, vì nghĩ mình có thể trà trộn vào dân được, và tìm chỗ ẩn núp ngay trong
nhà.
Đến khi quan quân ập vào hạch hỏi
và dọa đánh chủ nhà, cha sở Quý tự ra trình diện. Thế là quân lính liền bắt
trói ông Câu Phụng, cha Quý và 32 giáo hữu khác áp giải về Châu Đốc. Trước mặt
quan, vì có người tố cáo, ông Câu khẳng khái xác nhận mình đã từng tiếp đón và
cho thừa sai nước ngoài trọ tại nhà mình. nhưng sau đó, dù tra tấn hay dụ dỗ
nhiều lần, ông nhất định không khai thêm chi tiết nào khác về các thừa sai, và
cương quyết không bỏ đạo.
* Kỷ vật cuối cùng.
Sau sáu tháng giam giữ, không hy
vọng gì các tù nhân đổi ý, các quan trấn Châu Đốc làm án gởi về kinh đô xin xử
giảo và vua Tự Đức châu phê liền. Ngày 31.07.1859, linh mục Phêrô Đoàn Công Quý
và ông Câu Lê Văn Phụng được đưa ra pháp trường Chà Và. Cả hai vị bình tĩnh,
cha Quý vừa đi vừa đọc kinh Mân Côi, còn ông Câu thì dặn dò các bạn hữu tha thứ
cho những kẻ hại mình.
Tại pháp trường, ông câu gặp các
con mình. ông đeo vào cổ con gái cô Anna Nhiên ảnh Thánh Giá và nói: "Con
ơi, hãy nhận lấy kỷ vật của ba. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ảnh
này quý hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện
sớm chiều con nhé".
Ông cũng dặn con trai, đừng chôn
cất rầm rộ, và nhớ chôn ông bên cạnh cha sở của mình. Tiếp theo, hai chứng nhân
của Chúa quỳ xuống cầu nguyện. Cha Quý giải tội cho ông Câu. Sau ba tiếng
chiêng vang, vị linh mục bị chém đầu, còn ông Câu Emmanuel bị xiết cổ bằng dây
thừng do hai người kéo.
Đức Piô X suy tôn hai vị tử đạo
lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Đặc biệt ông câu Emmanuel Phụng được
đứng trong số sáu vị đứng đầu danh sách 117 hiển thánh tại Việt Nam.
Nghĩa cử quảng đại tha thứ của
ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng trước giờ tử đạo đã là bài giảng hùng hồn nhất về
sự bao dung của đức bác ái Kitô giáo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét