* Đồng tử đạo tiên khởi của đất Việt.
Ngày 22-01-1745, trên đường ra
pháp trường ở ngoại ô Thăng Long, hai vị linh mục đồng hành: Cha Phanxicô Tế và
cha Matthêu Đậu. Số phận hai nhà thuyết giáo này cho đến nay vẫn gắn liền với
nhau. Hai người bạn thân với biết bao điểm tương đồng: từ đồng hương là Tây Ban
Nha đến đồng dòng tu thánh Đaminh, tỉnh hạt Đức Mẹ Mân Côi. Rồi cả hai cùng đến
giảng đạo tại giáo phận Đông Đàng Ngoài, cùng bắt ở Lục Thủy, đồng lao cộng khổ
với nhau ở trong tù. Thế mà trên đường ra pháp trường, một vị tươi cười, cha
Phanxicô Tế vì sắp được tử đạo, một vị vẻ mặt rầu rỉ, cha Matthêu Đậu chỉ bị án
chung thân và đi tiễn chân bạn mình. Vậy là sắp phải chia tay nhau mãi mãi!
Khi đoàn hành hình đi ngang qua
hoàng cung thì dừng lại. Một viên quan đại diện nhà vua đến loan tin: "Đạo
trưởng Đậu cũng phải chịu án chém đầu". Niềm mong ước của cha Đậu được toại
nguyện, và nhờ bản án đó, hai cuộc đời hai ông chứng nhân đức tin đã nối chặt
không bao giờ tách rời được nữa: đồng sinh đồng tử và cuối cùng đồng phúc vinh
quang giữa hàng ngũ các thánh tử đạo anh hùng. Và đặc biệt, nhờ bản án đó cha
Matthêu Đậu được thành vị thánh đồng tử đạo tiên khởi trên đất nước Việt Nam.
* Viễn đông vẫy gọi.
Matthêu Alonso Liciniana Đậu sinh
ngày 26-10-1702 (trước thánh Phanxicô Tế bảy tuần) tại Nava Del Rey, Tây Ban
Nha. Đáp lại tiếng Chúa kêu mời, cậu Alonso đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho Đức
Kitô trong tu viện Santa Cruz do chính thánh Đaminh lập ở Ségovia (năm 1218),
thành phố còn lưu dấu nhiều di tích của thánh Tổ Phụ. Tại đây Alonso Liciniana
Đậu đã tuyên khấn, học thần học và thụ phong linh mục. Thời gian này tỉnh hạt
Đaminh Đức Mẹ Mân Côi phái người đến các tu viện cổ động và tìm người truyền
giáo ở Viễn Đông. Tình hình vùng truyền giáo quá thiếu người. Thí dụ tại Bắc Việt
không kể Đức Cha Sextri Tri, dòng chỉ còn bốn vị. Năm 1728, ba linh mục gởi đến
đây đã bị đắm tàu chết hết (1). Cha Alonso Liciniana Đậu và 23 tu sĩ tây Ban Nha
đã đáp lời mời đi tàu đến Manila vào tháng 11 năm 1730. Tháng hai năm sau, cha
cùng với hai linh mục Phêrô Ponsgrau Bằng và Micae Pajares lâm bệnh phải trở về.
Hai vị còn lại đến Trung Linh ngày 18-01-1732 trong niềm vui lớn lao của giáo
phận Đông Đàng Ngoài.
Trên một giáo phận rộng lớn với
nhân sự quá ít oi, cha Matthêu Đậu phải di chuyển và phục vụ nhiều nơi. Sau thời
gian học tiếng ở Trung Linh, cha truyền giáo ở Sơn nam Thượng, hoạt động trong
các huyện Trung Đông, Tiên Lữ, Thần Khê (Hưng Yên), rồi các huyện Thanh Quan,
Vũ Tiên (Thái Bình) và sang cả Nam Chân, Giao Thủy, Xuân Trường (Nam Định ).
Các giáo xứ lớn được cha coi sóc là Trung Lao, Tiên Chu, Kẻ Hệ và Lai Ổn. Sức
khoẻ của cha không được tốt lắm, dáng người mảnh khảnh, ốm yếu nhưng cha đã vượt
qua mọi gian khổ và luôn kiên trì hoạt động không ngơi nghỉ.
* Cuộc thử thách.
Tháng 11-1743 đang ở Lai Ổn, thấy
tình hình không mấy bình an, cha liền di chuyển qua Lục Thủy Hạ, trú trong nhà
ông trùm Độ. Chẳng may trong làng có người bỏ đạo tên Đạt biết được và đi tố
cáo quan. Sáng ngày 29-11 quân lính đến vây làng Lục Thủy, ập vào nhà đang lúc
cha đang cử hành thánh lễ. Các giáo hữu sợ hãi chạy tán loạn. Cha Đậu vì bất ngờ
cũng hoảng hốt bỏ chạy, tay ôm bình thánh và rước hết bánh thánh. Nhưng không kịp
nữa rồi, quân lính đuổi theo và bắt cha lại và đánh đập cha cách tàn bạo. Họ
xúm vào vật cha xuống đất, kẻ bức tóc, xé áo, kẻ nhổ râu, xỉ vả chế diễu. Một
người lính cầm giáo đâm sượt ngang qua hông, máu chảy loang đỏ trên bộ áo dòng
trắng, khiến cha tưởng giờ chết sắp đến, miệng thầm kêu lên cực trọng
Giêsu-Maria. Cùng bị bắt với cha có ba thầy giảng Đaminh Sĩ, Đaminh
Đậu, Ignatio Quý và hai giáo hữu
trong xứ. Tất cả được giải lên quan trấn thủ Sơn Nam, bấy giờ là Lê Văn Phượng.
Quan chỉ giữ lại cha Đậu và thầy Quí, còn tất cả được trả về tự do.
Sau ba lần ra tòa, với nhiều cách
thức nạt nộ, đe dọa, dụ dỗ hoặc tra tấn, quan trấn thủ không thể làm cha Đậu và
thầy Quí chối bỏ Đức Tin. Ngày 21-12 quan hỏi cha có biết lệnh vua cấm giảng đạo
khống ? Cha đáp: "Chính vì cấm tôi mới phải lẩn trốn chứ". Quan liền
thảo bản án trảm quyết cha Đậu, còn thầy Quí bị phát lưu thảo tượng (chăn voi)
suốt đời. Nhưng sau đó nhờ sự can thiệp của một viên quan thiện cảm với đạo, án
của cha được đổi thành chung thân, còn thầy Quí được tha bổng sau khi nộp cho
quan một món tiền. Ngày 30-05-1744, quân lính áp giải cha về Thăng Long và giam
chung với linh mục Phanxicô Tế đã bị bắt từ năm 1737, đã có án trảm quyết,
nhưng vì tình hình chính trị nên chưa bị đem đi xử.
* Cùng sống cùng chết cùng vinh phúc.
Thật tả sao cho xiết niềm vui
thiêng liêng được gặp lại nhau của hai anh em cùng dòng, lại cùng tuổi trong cảnh
tù tội này. Từ nay các vị không còn cô độc nữa. Hai anh em chia sẻ cho nhau những
tâm tư thao thức, ôn lại những kỷ niệm, trao đổi bàn bạc việc tông đồ và cùng
nhau cầu nguyện. Chỉ sau vài ngày chỉ một ít tiền bạc, cha Đậu cũng được tự do
đi thăm và giúp đỡ các tín hữu trong vùng. Vào lễ Chúa Ba Ngôi năm 1744, cha Tế
dâng lễ, cha Đậu gíup lễ.
Nhưng một khung cảnh đẹp đáng
nghi nhớ hơn, và có lẽ là trường hợp duy nhất trong hạnh các Thánh tử đạo, đó
là ngày 04-06 năm ấy, lễ mình thánh Chúa, sau sáu tháng tù không có cơ hội, nay
cha Đậu được dâng một thánh lễ âm thầm nhưng ấm cúng trong tù với sự tham dự của
130 giáo hữu Thăng Long. Bảy tháng tù ở kinh đô đã trôi qua thật êm ả, hai vị
Linh Mục vẫn tiếp tục loan báo Tin Mừng, giải tội, rửa tội, sức dầu và an ủi
khích lệ các tín hữu. Riêng cha Đậu trong bảy tháng đã rửa tội 55 người, trong
đó có 22 người lớn và rửa tội cho 620 hối nhân.
Ngày 22-01-1745 có lệnh đưa cha Tế
đi xử trảm. Án của cha Đậu vẫn như cũ là án chung thân, cha buồn rầu hết sức và
năn nỉ xin phép quan cho đi tiễn chân bạn đến pháp trường. Khi đi ngang qua
hoàng cung, đoàn người dừng lại, một viên quan sau khi đọc bản án của cha Tế và
đọc tiếp: "Matthêu cũng là đạo trưởng Hoa Lang đã bị kết án chung thân nay
bị kết án xử trảm."
Thế là cuối cùng cha Đậu được toại
nguyện. Tại pháp trường quân lính chặt tháo xiềng xích ở chân tay hai cha, vô
tình làm chảy máu rất nhiều. Các tín hữu đến tận nơi hôn xiềng xích và xin các
cha cây Thánh Giá ở tay làm kỷ vật đang bị trói vào cọc. Hai linh mục bị chém
cùng một lúc trong sự thương cảm của những người đến dự, dù giáo hay lương. Có
sử liệu ghi nhận: một cụ bà Phật tử ở đó lâm râm cầu Trời khấn Phật cho hai cha
thoát chết. Khi đầu hai vị tử đạo rơi xuống đất, nhiều người khóc nức nở và
xông vào thấm máu hoặc tìm vật kỷ niệm.
Cha Bề trên dòng Phêrô Ponsgrau Bằng,
người đã đến Việt Nam cùng ngày với cha Đậu, cử hai thầy giảng Điều và Luận,
cùng ít giáo hữu tìm cách rước thi hài các tôi trung đức tin về làng Lục Thủy.
Giáo hữu ba xứ Bùi Chu, Trung Linh, Trung Lễ gặp nhau và tranh quyền an táng
các ngài ở nhà thờ mình. Cha chính phải can thiệp để họ vui lòng nhường cho nhà
chung. Mấy ngày sau, Đức cha Hilario Hy dâng lễ tạ ơn, có các cha dòng và rất
đông đảo giáo dân tham dự.
Đức Giáo Hoàng Piô X suy tôn hai
cha Phanxicô Federich Tế và Matthêu Linciniana Đậu lên bậc Chân Phước ngày
20.05.1906. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn các ngài
lên hàng Hiển Thánh.
Ngày 22/01-1702-1745 Thánh phanxicô Federich Tế Linh mục dòng Đaminh Tử
đạo
* Thánh tử đạo tiên khởi trên đất Việt.
Bốn mươi ba tuổi đời, mười năm
truyền giáo trên đất Việt, trong đó gần 8 năm bị giam cầm, cuộc đời truyền giáo
của Thánh Phanxicô Tế có vẻ không được thuận lợi, nhưng chính những năm tù này
đã làm nên sự nghiệp của thánh nhân. Nhờ bối cảnh đặc biệt vị Linh Mục dòng
thuyết giáo đã tiếp tục thi hành xú mệnh của mình ngay tại kinh đô Thăng Long.
Cha vẫn đi thăm viếng và trao ban bí tích cho các giáo hữu, rửa tội cho nhiều
tân tòng. Rêng năm 1744, cha giải tội cho 1745 người, rửa tội 73 người( trong
đó 32 người lớn) và xức dầu cho nhiều bệnh nhân. Thành quả đó của một "tù
nhân" đủ cho mọi người thấy nhiệt tâm, tài năng và sự khéo léo của vị
thánh Tử Đạo đầu tiên trên đất Việt.
* Tuổi xuân và khát vọng.
Phanxicô Gil de Federich sinh
ngày 14-12-1727 tại Tortosa, Tây Ban Nha, quê hương của biết bao vị đại thánh
và những vị thừa sai nổi tiếng. Được thừa hưởng truyền thống đạo đức đó, từ
niên thiếu ngài nhận ra tiếng Chúa mời gọi sống đời dâng hiến, và đã xin gia nhập
dòng Đaminh. Sau một năm tập đầy lòng nhiệt thành đạo đức tu sĩ Federich tuyên
khấn trọng thể tại tu viện Santa Catalina thành Barcelona khi mới 16 tuổi.
Sau nhiều năm học tập chăn chỉ,
ngày 29-03-1072 tại Tortosa, thầy Federich được thụ phong linh mục, rồi bổ nhiệm
làm giáo sư triết lý kiêm giáo sư các tu sĩ sinh viên. Thế nhưng ước nguyện
thâm sâu của tân linh mục là được đi truyền giáo ở phương xa. Hai năm sau cha
xin chuyển sang tỉng dòng Đức Mẹ Mân Côi, là tỉnh dòng đặc trách việc truyền
giáo ở Viễn Đông. Cha xuống tàu, đến trụ sở tỉnh dòng tại Phi Luật Tân năm
1733.
Cha giám tỉnh Diego tại Manila rất
quý trọng khả năng đức độ của cha Federich, nên đã chọn cha làm thư ký và phụ
tá cho mình. Trong công việc tham gia điều hành tại trụ sở, những tin tức ở các
vùng truyền giáo ngày càng thúc đẩy cha thực hiện khát vọng truyền giáo. Những
vần thơ cầu nguyện với Đức Maria của cha nói lên tâm tình đó:
"Lạy thánh Mẫu cao vời nhân
ái
Tấm lòng con điên dại đáng thương
Ngày đêm nung nấu can trường
Tình bao la Mẹ, đâu phương đáp đền
Trong tâm tưởng con hằng mong ước
Khắp muôn phương loan báo Tin Mừng
Giờ con gặp cảnh sầu thương
Như thuyền neo bến, trùng dương
xa vời."
Cuối cùng ước mơ cao đẹp này đã
được thành tựu. Ngày 28-08-1735, cha Phanxicô đặt chân lên đất Việt Nam. Bấy giờ
là thời vua Lê Ý Tông (1735-1739) và Uy Nam Vương Trịnh Giang (1729-1740).
* Trên cánh đồng truyền giáo.
Sau một thời gian ngắn học ngôn
ngữ và phong tục, cha Federich Tế đã đến để phục vụ nhiều nơi. Mới đầu ở huyện
Trực Ninh (Nam Định) rồi Vũ Tiên (Thái Bình), sau đảm nhiệm hai giáo xứ Kẻ Mèn,
Bắc Trạch : tiếp đó qua huyện Giao Thủy coi họ Lục Thủy và Quất Lâm.
Một hôm ở Quất Lâm cha đang giải
tội, bỗng giáo dân chạy vào báo tin lương dân đang lùng bắt người. Cha Tế vẫn cầu
nguyện giây lát, rồi cứ tiếp tục giải tội. Sự bình tĩnh và bầu khí thiêng thánh
của việc trao ban bí tích Hòa giải đã cứu cha. Những người vây bắt đứng ngây
người một lát rồi rủ nhau giải tán.
* Mối giây oan nghiệt …
Mới được hai năm hoạt động ngắn
ngủi, cha Tế đã bị bắt ngày 03-08-1737. theo sử sách, một nhà sư tên Tình vốn
ghét đạo Công Giáo, lại muốn tìm cách đòi tiền. Nhà sư đã đến xin phép quan huyện
Giao Thủy, rồi đưa người đến vây bắt các trưởng ở làng Trung Linh. May là các
Linh Mục ở đây biết trước nên trốn đi hết , nhưng sau đó nghe tin có đạo trưởng
Âu Châu ở họ Lục Thủy, nhà sư đem quân đến vay ngay lúc cha Tế vừa dâng thánh lễ
xong. Để nguyện đường khỏi bị xúc phạm và giáo hữu khỏi bị liên lụy, cha tự
nghuyện ra nộp mình, cha nói : "Các ông tìm bắt tôi, thì chính tôi đây,
xin hãy tha cho các giáo hữu của tôi."
Khi nghe tin cha Tế bị giam giữ tại
làng Thủy Nhai, giáo hữu của cha gom góp tiền đến gặp sư Tình xin chuộc nhưng
nhà sư chê ít và giữ cha tại nhà riêng mười ngày. Thấy thế giáo hữu lên tỉnh
trình quan và hứa sẽ hậu tạ nều vị linh mục được giải thoát. Quan trấn thủ Sơn
Nam liền phái lính về Thuỷ Nhai bắt cả sư Tình lẫn cha Tế. Vị sư này nhanh chân
chạy thoát, lên tận kinh đô tố cáo với vua rằng : "Quan Trấn Thủ đã ăn hối
lộ và làng Lục Thủy chứa chấp Tây Dương đạo trưởng." Khi hay tin quan trấn
biết không thể tha cha Tế được nữa, nên đành áp giải cha về Thanh Long. Dọc đường
cha lên cơn sốt rét trầm trọng, nhưng khi lên tới nơi cha vẫn phải mang gông và
bị tống giam vào ngục.
* Năm tù đầu tiên và bản án.
Sau khi khỏi bệnh cha Phanxicô Tế
được đưa ra tòa hai ngày liền. Các quan đối xử tử tế với cha, nhưng dân chúng
có người la ó, buông những lời khiếm nhã, có kẻ lấy que bẻ vụn làm thành hình
Thánh Giá ném vào cha. Cha bình tĩnh nhặt lên hôn kính và cất Thánh Giá vào
túi. Trong ngục cha được linh mục Nghi giả làm thầy lang vào thăm bệnh, giải tội
và trao mình thánh chúa. Suốt một năm cha Nghi cùng cháu của bà Kính vẫn ra vào
thăm và tiếp tế. Qua những chứng nhân này, mọi người biết cha Tế luôn kiên nhẫn,
bình tĩnh không trách cứ than van, và nhiều lần còn tỏ ý muốn được tử đạo.
Ngày 10-07-1738, cha Tế bị đưa ra
toà cùng với nhà sư Tình. Quan trấn Sơn Nam Hạ khi áp giải cha về kinh đô đã tố
cáo nhà sư đã chứa chấp cha mười ngày trong nhà. Để chạy tội vị sư này xin được
đạp lên Thánh Giá, minh chứng mình không ủng hộ đạo Công Giáo. Về phần cha Tế
khi bắt cha bước qua Thánh Giá, cha trả lời : "Tôi không thể phạm tội nặng
ấy được". Các quan hỏi về ý nghĩa ảnh tượng Thánh Giá. Cha đáp : "Ảnh
này tượng trưng cuộc Tử Nạn con Thiên Chúa giáng sinh cứu chuộc loài người."
Các quan nói tiếp : "Nhưng luật triều đình cấm giảng đạo này". Cha trả
lời : "Chẳng ai có quyền cấm giảng đạo Thiên Chúa đã truyền loan báo cho mọi
dân mọi nước. Ai cấm tức là cướp quyền củaa Thiên Chúa."
Các quan nghị án một lát, rồi
tuyên án trảm quyết đạo trưởng Federich Tế, kết án sư Tình và con trai phải
phát lưu chăn voi. Ngày 12-09, bản án được chúa Trịnh Giang phê chuẩn, nhưng vì
nhà sư chạy chọt chống án ở nhiều nơi, nên bản án chưa được thi hành.
* Lời chúa không thể bị trói buộc.
Thời gian sau đó vì tình hình
chính trị bất ổn, bản án của cha Tế bị lãng quên: Trịnh Doanh đảo chánh lật đổ
anh, chiếm phủ chúa và tự phong là Minh Đô Vương (1740-1767) rồi Lê Hiển Tông
lên ngôi lấy hiệu là Cảnh Hưng (1740-1786) giặc Lê Duy Mật nổi lên ở Thanh Hóa
: dư đảng của nhà Mạc cũng nổi loạn ở Thượng Du… những biến cố dồn dập đó làm
vua quan bận rộn đến nổi quên mất "tử tội" của mình.
Lợi dụng hoàn cảnh đó cha Tế khéo
léo xin phép, có khi mất tiền để được đi lại trong thành Thăng Long để thăm viếng
các tín hữu, trao ban Bí Tích và giảng đạo cho lương dân. Có gia đình hai chị
em bà Gạo là ngoại giáo đã vào xin quan cho cha Tế đến tá túc tại nhà mình. Chị
bà Gạo mắc bệnh nan y, không thuốc nào chữa nổi sau nhờ lời nguyện của cah Tế
được khỏi bệnh nên xin được rửa tội ngay. Còn bà Goạ một thời gian sau mới xin
tòng giáo lấy tên thánh Rosa. Hai chị em sống đạo rất gương mẫu.
Thấy cha Tế ra vào ngục dễ dàng
như thế. Đức Giám Mục Loger Gia ngỏ ý muốn đặt cha làm chính xứ Kẻ Chợ (Thăng
Long). Nhưng cha từ chối vì không chắc được dễ dàng mãi. Cha nói : "Một tù
nhân không thể chăm sóc ai được."
Từ ngày 30-05-1744, cha Tế có
thêm một cộng sự viên đắc lực nữa. Đó là Linh Mục Matthêu Alonso Liciniana Đậu
cũng dòng Đaminh, bị bắt cách đó 6 tháng được áp giải về Thăng Long và cùng bị
giam một nơi niềm vui mừng xúc động dạt dào tả sao cho hết. Hai nhà thuyết giáo
thăm hỏi nhau an ủi, khích lệ và bàn bạc với nhau, biến Thăng Long thành môi
trường truyền giáo, hợp tác với nhau làm mục vụ tông đồ.
* Giờ phút vinh quang.
Sau hơn bảy năm tù và bảy tháng
được sống chung với người đồng chí hướng. Ngày 22-01-1745, cha Tế bị đem đi xử.
Cha tỏ vẻ hân hoan cám ơn và từ biệt anh em bà Gạo, tạm biệt cha Liciniana Đậu
và một số ân nhân, Rồi thanh thản tiến ra pháp trường. Riêng cha Đậu chịu bị án
chung thân, xin phép quan đi theo đưa tiễn. Thế nhưng khi đi ngang qua hoàng
cung, cha Đậu cũng được tin mình cũng bị xử trảm với linh mụ bạn.
Hai vị chứng nhân nhìn nhau sung
sướng, cả hai cùng tạ ơn Chúa vì từ nay hai người không bao giờ phải xa lìa
nhau nữa, tại pháp trường giáo hữu cũng như lương dân có mặt rất đông và tỏ
lòng thương tiếc, cảm thông. Lý hình vừa chém rơi đầu hai vị, nhiều người oà
lên khóc và ùa vào thấp máu, hoặc lấy vật gì làm thánh tích.
Theo ý Đức Cha Hilario Hy, thi
hài của hai cha được đưa về an táng tại nhà chung Lục Thủy. Vài ngày sau Đức
Cha tổ chức thánh lễ tạ ơn long trọng có đông đảo các cha dòng đến tham dự.
Ngay khi đó mọi người tin tưởng vào hai đấng đã được lãnh triều thiên tử đạo,
và bắt đầu chuẩn bị lập hồ sơ xin phong thánh.
Ngày 20-05-1906, các ngài được Đức
Piô X suy tôn lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II suy tôn các ngài lên hàng Hiển Thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét