Lời Chúa: Đức Giê-su chọn lấy mười hai ông và gọi là
Tông Đồ.
“ Ha-lê-lui-a. Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi
hát mừng, tuyên xưng Ngài là Đức Chúa. Lạy Chúa, bậc Tông Đồ đồng thanh ca ngợi
Chúa. Ha-lê-lui-a.”
Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa
Không trung loan báo việc tay Người làm
Ngày qua mách bảo cho ngày tới
Đêm này kể lại với đêm kia.
Ngày 28/10 –
1765-1798 Thánh Gioan Đoàn Viết Đạt linh mục tử đạo
Hiến Mạng vì Đoàn Chiên
“Người mục tử nhân lành hiến mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10:11b). Đó là lời Đức
Giêsu đã được Thánh Gioan Đạt đem ra thực hiện một cách tuyệt hảo. Đang khi
quân lính truy bắt, cha có thừa cơ hội trốn thoát, nhưng vì thương các tín hữu
đang bị tra khảo, thấy quân lính tàn nhẫn đánh đập họ vì mình, cha đã tự nguyện
ra trình diện.
Gioan Đạt mở mắt chào đời năm 1765 tại làng Khê Câu, huyện Bình Lục, Thanh Hóa,
địa phận Tây Đàng Ngoài. Mồ côi cha từ nhỏ, cậu Đạt xin phép mẹ để hoàn toàn hiến
thân cho Chúa dưới sự chăm sóc đầy tình thương của cha Loan xứ Đồng Chuối. Năm
18 tuổi, cậu xin vào chủng viện, sau đó đi xứ một thời gian. Đến năm 1798 thầy
mới thụ phong linh mục.
Cha Gioan Đạt được phái đến xứ Hảo Nho, Thân Phú. Vị tân linh mục hết sức lo lắng
cho các tín hữu nên được mọi người yêu quý. Cha chính địa phận Tây Đàng Ngoài
nhận xét: “Cha Đạt có nhiều nhân đức, nhất là đức tuân phục và khó nghèo. Cha
luôn chu toàn mọi bổn phận, nên Đức cha và các vị thừa sai đều quý mến. Lời cha
giảng có sức mạnh đặc biệt, có sức thuyết phục lòng người”.
Mới thi hành tác vụ
linh mục được sáu tháng, vua Cảnh Thịnh ra sắc chỉ bắt đạo gắt gao hơn trước.
Quan trấn ra lệnh cho quân lính tầm nã các tín hữu, nhất là các đạo trưởng. Cha
Đạt phải trốn lên rừng một thời gian. Khi thấy tình hình có vẻ lắng dịu, cha
thường lẻn về giáo xứ ban các bí tích.
Một hôm cha vừa hoàn tất thánh lễ an táng tại tư gia, thì quân lính ập đến.
Giáo hữu đưa cha ra sau nhà, và chỉ lối cho cha thoát thân. Thế nhưng cha không
đành lòng bỏ rơi họ ra đi. Vì khi đó, lính đã tìm thấy chén thánh và áo lễ, nên
đang tra tấn chủ nhà, ông trùm Mới và một số tín hữu khác. Như Đức Giêsu xưa
yêu cầu quân Do Thái để các tông đồ được an toàn, cha cũng tự nguyện ra trình
diện. Ngài nói: “Vẫn biết tôi có thể trốn thoát, nhưng như thế anh chị em sẽ
khổ nhiều”.
Quân lính trói cha lại, rồi đánh đập tàn nhẫn cùng với thầy Tâm và ba vị trong
ban chức giáo xứ. Các giáo hữu ở đó định cậy đông người dùng sức mạnh giải vây
cứu cha, nhưng cha biết ý, cản họ lại: “Cứ để tôi vâng theo Thánh ý Chúa, anh
chị em ở lại bình yên, kiên trung giữ đạo, và nhớ cầu nguyện cho tôi được vững
vàng đến cùng”. Trên đường áp giải cha về Thanh Hóa, khi ngang qua làng Kẻ Dừa,
có người cầm nón đưa cha đội, nhưng quân lính không cho.
Chứng Tá Trong Tù
Hai tháng tù tại Đình Đang, cha Đạt làm mọi người bỡ ngỡ, vì thấy cha trong
hoàn cảnh đó mà vẫn bình tĩnh vui vẻ. Khi các tín hữu đến thăm và khóc thương,
cha nói chuyện vui cho họ bớt ưu sầu và an ủi khích lệ họ. Cha nói: “Tử đạo là
phúc cao trọng, An Nam ta chưa được mấy người. Nếu được tử đạo, tôi mừng lắm”.
Lương dân sống gần trại giam cũng cảm mến thương cha. Một thiếu phụ lòng ngay
đưa cha một chai độc dược để kết liễu cuộc đời khổ đau trong tù ngục. Cha từ
chối và giải thích cho bà biết: “Người Công giáo chân chính, dù trong hoàn cảnh
nào cũng không chấp nhận việc tự tử”. Đặc biệt cha còn cảm hóa được cả đám lính
canh ngục. Mới đầu họ hay làm khó dễ, cứ mỗi lần đổi ca gác, họ lại bắt các tín
hữu đút lót tiền, nếu không họ sẽ hành hạ tù nhân. Sau thấy được lòng bác ái
yêu thương của cha Đạt, đám lính canh đã có thiện cảm và dễ dàng hơn với các
tín hữu. Một lần cha bênh vực cho một người lính ăn cắp nải chuối giáo dân gởi
vào cho cha. Lần khác, cha nói với họ rằng: “Khi nào tôi được phúc trên trời,
tôi sẽ chẳng quên anh em dưới thế”.
Ông Thiềng cai ngục, tỏ lòng quý mến cha cách đặc biệt. Khi gặp riêng, ông nói
với cha rằng: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ
lắm, ngặt vì cụ sắp bị kết án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ cỗ quan tài để biểu
lộ lòng tôi quý cụ”.
Nhiều lần, cha Đạt và các tín hữu bị lôi ra quỳ trước tòa, tay chân mang xiềng
xích, cổ đeo gông. Ông Hoàng Đệ là em vua Cảnh Thịnh, đích thân chủ tọa phiên
tòa. Ông bắt các anh hùng đức tin chối đạo hoặc đạp lên thánh giá, và dù đã áp
dụng nhiều hình thức tra tấn dã man, nhưng ông vẫn hoàn toàn thất bại. Có hôm
ông yêu cầu cha Đạt cắt nghĩa tấm ảnh phán xét chung, rồi nói cha đạp lên tấm
ảnh đó, thì sẽ được tha. Nhưng cha cúi xuống, cầm lấy ảnh và hôn kính cách sốt
sắng.
Hiến Lễ Dâng Thiên Chúa
Trung tuần tháng Mười, ông Hoàng Đệ gọi cha Đạt ra công đường tuyên án xử tử.
Ông tưởng nghe bản án, cha sẽ kinh sợ và đổi ý, không ngờ cha lại tỏ ra hân
hoan khác thường. Về trại giam, cha thuật cho các bạn tù nghe án xử như một tin
mừng đến với cha. Cha Huấn xứ Bạch Bát giả làm cụ đồ bạn cũ đến thăm, giải tội
và đem cho cha Mình Thánh Chúa.
Đúng ngày hành xử, trời bỗng đổ cơn mưa như trút. Cha Đạt, cổ đeo gông nặng
trĩu, phải lẽo đẽo chạy theo lính dưới cơn mưa tầm tã tiến ra pháp trường Trinh
Hà. Tại đây, giáo dân đã trải chiếu hoa, cha bình tĩnh quỳ xuống cầu nguyện.
Khi các quan cho phép, tín hữu ùa đến bên cha lãnh phép lành cuối cùng. Cha
khuyên họ:
“Là Kitô hữu, chúng ta phải vâng lệnh vua quan trong những điều hợp lý, nhưng
trước hết, phải tôn trọng lề luật Chúa”.
Một hồi chiêng nổi lên, mọi người phải lui ra xa. Lý hình vung gươm kết liễu
cuộc đời vị linh mục trẻ đầy nhiệt huyết và can đảm. Giáo hữu và lương dân đều
xúm lại thấm máu vị chứng nhân đức tin. Đó là ngày 28.10.1798, khi cha Đạt mới
33 tuổi, với chưa đầy một năm phục vụ trong chức linh mục.
Đời sống cha Gioan Đạt là mẫu gương sáng ngời về tình yêu. Yêu lý tưởng, cha
hiến thân tu hành, yêu anh em, cha tự nguyện nộp mình, và yêu Thiên Chúa, cha
hiến tế chính mạng sống vô giá không thương tiếc. Thi hài vị tử đạo được đưa về
an táng tại nhà thờ Phúc Nhạc (Phát Diệm).
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Gioan Đạt lên bậc Chân Phước ngày
27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên
hàng Hiển thánh.
Ngày 28/10-Các thánh Simon và Giuđa, Tông đồ
Thánh Matthêu và thánh Máccô gọi ngài là Tađêô. Phúc âm
không nhắc riêng tới ngài, chỉ nhắc chung đến các tông đồ. Các học giả cho rằng
ngài không là tác giả của Thư Giuđa. Ngài trùng tên với Giuđa Iscariốt, nên được
gọi là Tađêô cho khỏi lộn.
Ngài được nhắc đến trong 4 danh sách các tông đồ. Ngài có biệt
danh là “nhiệt thành” (Zealot). Thực ra Zealot là quá khích, đó là một giáo
phái Do Thái đại diện cho chủ nghĩa yêu nước cuồng nhiệt của Do Thái. Với họ, lời
hứa trong Cựu ước nghĩa là người Do Thái sẽ được giải phóng và độc lập.
Thiên Chúa là vua của họ, và việc nộp thuế cho đế quốc La Mã
là điều phỉ báng Thiên Chúa. Chắc chắn một số người quá khích là những người thừa
kế của Macabê, thực hiện lý tưởng tôn giáo và độc lập. Nhưng nhiều người là bản
sao của những kẻ khủng bố thời hiện đại. Họ tấn công và giết người, tấn công cả
người hợp tác là ngoại bang. Trách nhiệm của họ là nổi loạn chống đế quốc La
Mã, kết thúc bằng việc hủy hoại Đền thờ Giêrusalem năm 70.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét