* Chiến sĩ truyền giáo.
Với gần nửa thế kỷ hăng say trong
việc truyền giáo tại Việt Nam và 43 năm giám mục cuộc đời thánh Ignatiô Y gắn
liền với giáo phận Đông Đàng Ngoài, nay là năm giáo phận Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc
Ninh, Lạng Sơn và Thái Bình. Hoạt động của ngài trải dài trên ba triều đại : Thời
Cảnh Thịnh với nhiều khó khăn từng khu vực giúp ngài nhận định được nhu cầu, để
đến thời Gia Long ngài phát triển giáo phận Đông với mức cực thịnh, đủ sức
đương đầu với những cơn giông tố bách hại thời Minh Mạng, và đó cũng là mùa gặt
phong phú "các Thánh tử đạo" của giáo phận. Số linh mục bản xứ, số tu
sĩ nam nữ, số giáo dân tăng nhanh mỗi năm đã là những chứng cớ hùng hồn nhất
cho chúng ta thấy nhiệt tình và tài lãnh đạo của ngài.
Ignatiô Y Delgado sinh ngày
23.11.1762 tại làng Villafeliche, tỉnh Saragozza, miền Aragon, Tây Ban Nha. Từ
thuở niên thiếu, Ignatiô Ychịu ảnh hưởng nhiều của các nữ tu Xitô. Say mê đọc
sách cậu nghiền ngẫm tối ngày những truyện tích của các dì, hơn nữa ngôi làng của
cậu từ núi đồi đến đồng cỏ, đất đai đến cây rừng đều ghi dấu những nữ tu áo trắng,
con cái thánh Bernadô này. Do đó cậu đã nuôi chí dấn thân phục vụ Chúa trong
đan viện.
Thế nhưng Chúa lại an bài cách
khác. Ngày kia có một người bạn có ý định đi tu dòng Đaminh rủ cậu cùng đi,
Ignatiô Y liền nhận lời. Sau đó cả hai đến gõ cửa tu viện Thánh Phêrô tử đạo ở
Cata laydud, thuộc tỉnh dòng Aragon. Cậu vào nhà tập khi 18 tuổi và khấn năm
1781. đang khi theo học tại đại học Orihuela, Delgado được biết việc truyền
giáo của dòng tại Đông Nam Á. Trong thư ngày 25.06.1780, cha chính Alonsô Phê ở
Việt Nam báo cáo số người và công việc, đã xin gởi thêm nhiều nhà truyền giáo
"nhân đức, thông thái và can đảm". Delgado thấy lòng mình sôi sục ý
muốn truyền giáo. Năm 1785,sau khi bàn hỏi các bề trên, thầy Delgado xin chuyển
qua tỉnh dòng Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi và được gởi tới Manila Phi Luật Tân để
tiếp tục học tập.
* Vị Giám Mục trẻ trung.
Năm 1787, thầy Delgado được thụ
phong linh mục. Năm sau trong số 15 tu sĩ tình nguyện đến Việt Nam, bề trên chọn
Delgado và một người nữa. Thế nhưng nước Việt khi đó đang có nội chiến, nên hai
vị thừa sai phải lưu lạc đến Macao, đến Malacca rồi lại trở về Macao. Cuối
cùng, năm 1790 cha mới đến được đất truyền giáo cùng với ba thừa sai khác,
trong đó có cha Henares Minh.
Tuy mới tới Việt Nam, nhưng mọi
người đã nghe đồn về tài năng và nhân đức của cha Delgado khi còn ở Manila, nên
đã quý mến cha cách đặc biệt . Sau vài tháng học tiếng Việt cha được cử coi sóc
chủng viện hai năm. Làm cha chính giáo phận hai năm, kiêm chức đại diện coi sóc
các cha dòng Đaminh. Sự khôn ngoan nhân đức của cha được xác nhận khi Đức Cha
Alonsô Phê đệ trình lên Toà Thánh xin đặc cha làm giám mục phó có quyền kế vị.
Đức Piô VI đã chính thức công nhận trong đoản sắc ngày 11.02.1794, nhưng mãi
tháng 09 năm sau nghi lễ tấn phong mới được cử hành trong niềm vui của toàn
giáo phận. Vị Tân giám mục khi đó mới 33 tuổi.
Các sử gia ghi nhận Đức cha
Ignatô Y đã thích ứng được với miền truyền giáo ngay từ những ngày đầu, từ khí
hậu, ngôn ngữ đến phong tục và những món ăn địa phương. Bốn năm coi chủng viện
và làm cha chính, giúp ngài hiểu rõ về tình hình địa phương cũng như các giáo
sĩ. Giờ đây với chức vụ mới, ngài là vị cộng tác đắc lực vả hữu hiệu của Đức
Cha Alonsô Phê trong việc quản trị và truyền giáo. Tháng 8-1798, khi vua Cảnh
Thịnh ra sắc chỉ cấm đạo, triệt hạ các nhà thờ bắt bớ các thừa sai linh mục và
thầy giảng, ép buộc các tín hữu bỏ đạo, Đức Cha Delgado liền viết thư luân lưu
cho các gíao sĩ thu cất các đồ thờ, nếu phải ẩn trốn thì đừng đi quá xa, để có
thể tiếp tục phục vụ các giáo hữu. Đặc biệt Đức Cha tin tưởng vào sức mạnh từ
trời cao khi kêu gọi các tín hữu ăn chay những ngày thứ tư, và đọc kinh cầu các
thánh mỗi ngày cầu xin ơn bình an.
Trong báo cáo gởi về cho tỉnh
dòng Mẹ, Đức cha viết : “ Các giáo sĩ phải ẩn trong hầm hố, trong rừng sâu hay
trên đồng vắng, nhưng vẫn lén lút cải trang về thăm các giáo hữu". Riêng
hai vị giám mục vẫn tiếp tục đi thăm viếng hết xứ này đến xứ khác trong giáo phận.
Một hôm Đức Cha Phê đi kinh lý tại khu vực Thị trấn kinh Bắc (Bắc Ninh) thì bị sốt
rét và qua đời tại Lai Ổn ngày 02.02.1799, trút hết gánh nặng Giáo phận cho Đức
cha Y. trong bài giảng lễ an táng. Đức Cha Y nhắc lại mẫu gương và lời kinh vị
tiền nhiệm thường đọc là : "Lạy Chúa xin hãy nung đốt con, cưa cắt con đừng
tha thứ cho con ở đời này, để con được thứ tha muôn đời". Đức Cha Y đã nối
tiếp truyền thống và mẫu gương đó, suốt đời chấp nhận gian khổ và không quản ngại
để phục vụ Chúa trong tha nhân.
* Khôn ngoan và can đảm.
Công việc Đức Cha quan tâm nhất
là đến thăm tất cả các họ đạo dù đường xá xa xôi trắc trở đến đâu. Từ đầu năm
1803, công tác này được san sẻ cho vị Tân giám mục Henares Minh (thụ phong ngày
09.01.1803). Lúc đó, đường xá miền Bắc không được như bây giờ, hai vị giám mục
đã phải đi hàng ngàn cây số đường mòn bờ đê, phải xuyên rừng leo núi … thế mà
không họ lẻ nhỏ nhất nào không được các vị đến thăm nhiều lần. Tại mỗi nơi các
ngài đưa ra chỉ thị cụ thể, sửa lại những lạm dụng, trừ diệt những thói dị đoan
và xoá bỏ tệ nạn cho vay nặng lãi.
Suốt thời đại Gia Long và những
năm đầu thời Minh Mạng, tuy còn một vài vụ bắt bớ ở địa phương, nhưng nói chung
đây là thời tương đối bình an nhất. Đức cha Y đã tận dụng giai đoạn này để tổ
chức giáo phận vững chắc hơn. Ngài quan tâm nhiều đến việc đào tạo linh mục bản
xứ, củng cố chủng viện nhất là tại Ninh Cường, Lục Thuỷ, Tiên Chu và Ngọc Đồng.
Số linh mục chỉ 10 năm sau đã tăng gấp đôi (năm 1810 có 54 linh mục Tây và Việt).
Là thành phần dòng Đaminh, đức cha được sự hộ trợ tích cực của tỉnh dòng Mẹ về
nhân sự trong giáo phận, thế nhưng chủ yếu ngài đào tạo linh mục triều, rồi sau
khi đã làm linh mục, nếu ai muốn rồi mới xin chuyển qua dòng. Ngoài 16 cha dòng
Việt cũ, thời Đức Cha Y có thêm 66 cha dòng người Việt, hỗ trợ công tác mục vụ
và truyền giáo, sát cánh với linh mục triều.
Suốt 20 năm thái bình, các tín hữu
được tự do tham dự kinh lễ mỗi ngày, nên được học hỏi về giáo lý kỹ lượng hơn
và sống đạo tốt hơn. Nhiều nơi tổ chức ghi lễ công khai và long trọng, lôi cuốn
các anh em lương dân đến dự rồi tìm hiểu và bỏ những thành kiến nghi kỵ với đạo.
Thí dụ trước đây họ thường trách người theo đạo là bỏ cha mẹ tổ tiên, nay mới
hiểu được trong đạo có những ghi lễ chôn cất, giỗ chạp cũng trang nghiêm và đầy
ý nghĩa. Dần dần số người xin theo đạo ngày càng đông. Chỉ trong 10 năm có hơn
10.000 người lớn xin rửa tội. Con số 114.000 tín hữu khi Đức Cha Y nhận quyền
giáo phận đã tăng lên 160.000 vào năm 1815, với gần 800 họ đạo.
Ý thức trách nhiệm mình đối với
tiền nhân, đức cha cho ủy nhiệm một số người và đích thân điều hành việc nghiên
cứu cuộc đời sự nghiệp hai linh mục tử đạo tại Hà Nội năm 1773 là cha Castañeda
Gia và Vinh Sơn Liêm. Năm 1818, Đức Cha hoàn tất hồ sơ xin phong thánh gởi về
Rôma.
Những năm đầu thời Minh Mạng, ôn
dịch hoành hành khắp nơi, có tỉnh chết hàng chục ngàn người, kinh tế kiệt quệ,
mọi người khiếp sợ, lương dân cũng như giáo hữu chạy vào nhà thờ xin nước
thánh, nhà vua không dám ra khỏi cung điện. Tiếp đến là mất mùa hạn hán và đói
khổ… Nhân cơ hội này Đức Cha Y cổ động các thừa sai và tín hữu thể hiện lòng
bác ái, săn sóc các bệnh nhân cứu trợ người túng thiếu… khiến mọi người kính nể.
* Giông tố mở màn.
Những chiếu chỉ cấm đạo 1825 và
1833 không được thi hành triệt để ở giáo phận Đông Đàng Ngoài, các quan có thiện
cảm với đạo, lại phò Lê hơn phò Nguyễn, nên báo cáo với vua cho có hình thức. Bất
ngờ ngày 17.04.1838, thầy Vũ Văn Lân, thầy giảng của cha Viên, về tòa giám mục
lãnh dầu thánh, mang theo sáu lá thư (cho hai Đức cha, hai linh mục thừa sai và
hai linh mục người Việt), bị phát hiện và bị bắt. Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh hí
hửng đưa sáu lá thư về khoe với vua. Tuần phủ Hưng Yên liền bị cách chức, Trịnh
Quang Khanh bị triệu về kinh khiển trách. Tướng Lê Văn Đức dẫn thêm hai ngàn
lính kinh đô ra hỗ trợ việc bắt đạo, bão tố bắt đầu bùng lên trên đất Nam Định.
Nhiều mật thám đã phái đi len lỏi khắp nơi. Hai chủng viện Ninh Cường, Lục Thủy
và nhiều nhà chung nhà phước tự rỡ xuống để tránh sự dòm ngó, các chủng sinh phải
giải tán, các nữ tu phải trở về gia đình, giáo hữu phải tự tìm chỗ ẩn. Hai Đức
Cha và hai thừa sai đến náu thân tại làng Kiên Lao.
* Con đường Thập Giá.
Kiên Lao là một làng lớn, nguyên
số tín hữu cũng lên đến 5.000 người. Các kỳ mục trong xứ thu xếp cho hai Đức
cha và hai thừa sai ở bốn nhà khác nhau. Gần chỗ Đức cha Ignatiô Y trốn có thầy
đồ Hy, các kỳ mục cẩn thận đến điều đình xin ông tạm thời dời chỗ dạy học. Thấy
lạ thầy đồ gạn hỏi các học sinh và biết được có người Âu Châu núp, liền đi báo
với các quan. Ngày 27.05.1838, khoảng 200 lính đến bao vây làng Kiên Lao dưới sự
chỉ huy của quan Lê văn Thế. Họ kiểm tra qua loa rồi bỏ đi. Các thừa sai tưởng
yên ổn nên sinh hoạt bình thường. Không ngờ ngay sáng hôm sau, quân lính trở lại
và bao vây đúng nhà các ngài đang ở ẩn.
Cha Jimenô Lâm và cha Hermosilla
Vong nhanh chân trà trộn vào đám đông chạy thoát. Đức Cha Henares Minh được đưa
đi trốn ở nhà khác (một tuần sau mới bị bắt). Còn Đức cha Y đã 76 tuổi, được
anh em tín hữu khiêng đi trên võng bị lính nhận ra, đuổi theo và bắt tại chỗ. Họ
trói Đức Cha nằm trong võng và cáng về đình làng, vừa đi vừa reo hò mừng rỡ,
quên cả việc bắt các thừa sai còn lại.
Viên quan hỏi Đức cha "Ông từ
đâu đến?". Ngài đáp : "Tôi ở nơi khác mới đến làng này, họ chẳng liên
hệ gì đến tôi". Quan nói : "Ông đã bị bắt, ông có thể tự vẫn như những
người dũng cảm khác thường làm". Đức Cha trả lời : "Chúng tôi không
được tự vẫn, vì đó là trọng tội. Nhưng nếu vì đạo, quan truyền giết tôi thì tôi
hết sức vui mừng". Chiều đến, đức cha được đưa về phủ Xuân Trường. Đêm đó
quan Lê Văn Thế truyền nhốt Đức Cha vào cũi gỗ, bốn phía có các hàng song như
cũi giam thú dữ, các song gỗ được đóng liền sát với nhau không thể thò tay ra
ngoài, trên nóc ông cho trổ một cửa nhỏ để đưa cơm nước cho tù nhân. Chiếc cũi
thấp tè, khiến người bị giam không bao giờ đứng thẳng được, đó sẽ là căn nhà của
đức cha từ nay cho đến chết.
Về phần Tổng Đốc Trịnh Quang
Khanh, khi nghe tin liền gởi 100 lính đến hỗ trợ, áp giải từ phủ về tỉnh Nam Định
11 giờ trưa, ngày 30.05, tất cả các quan tỉnh cùng 2000 lính đón chờ "con
mồi vĩ đại" mới bắt được. Cờ xí rợp trời, trống cái trống con, chiêng la
vang dội… thế là họ vô tình đón rước người anh hùng đức tin với nghi thức một
quân vương. Còn vị anh hùng, ngài quỳ gối cầu nguyện trong cũi, tay không rời
cuốn sách vẫn đem theo từ lúc bị bắt, có lẽ là cuốn sách nguyện.
Không thể kể cho xiết những nỗi
khốn cực đức cha phải chịu suốt 43 ngày bị giam trong cũi. Ăn uống thì thiếu thốn,
rồi những buổi tra hỏi, những lời sỉ nhục chửi bới, có người còn nhổ nước miếng
vào mặt. Sau những buổi hỏi cung, quân lính khiêng cũi ra bỏ ở cửa Tây của
thành. Mình ngài lúc nào cũng nhễ nhãi mồ hôi dưới sức nóng mặt trời hoặc lạnh
cóng vì sương đêm lạnh lẽo. Thế nhưng ngoài những lời khai về lý lịch bản thân,
đức cha không tiết lộ một người nào hay một vùng nào liên hệ. Thỉnh thoảng đức
cha lại nói với quan và lính rằng : "Các ngài chưa biết về đạo Chúa Giêsu,
nếu các ngài biết, hẳn các ngài sẽ theo đạo".
Ngày 14.06, Trịnh Quang Khanh gởi
bản án về hoàng cung, nhưng vua Minh mạng không châu phê, vì vua muốn vị thừa
sai nhận tội "làm mật thám". Dĩ nhiên ngài không thể nhận điều vu cáo
ấy được. Một hôm ngài nói với quan : "Tôi ở An Nam đã 48 năm, tôi có giấy
tờ của Tiên Đế (Gia Long) cho phép giảng đạo. Xin quan cứ dẫn tôi về triều
đình, nếu vua muốn nướng thịt tôi mà ăn thì tôi cũng chịu…Xin đừng để lâu kẻo
quân lính trông coi vất vả làm gì".
* Dẫn đến vinh quang.
Án xử lần thứ hai gởi vào kinh được
vua châu phê ngay, nhưng bản án chưa kịp về đến nam Định thì đức cha đáng kính
đã từ trần. Với tuổi già 76, cộng với sức yếu vì bệnh tật, một tháng rưỡi trong
cũi đã làm đức cha kiệt lực và an nghỉ trong Chúa ngày 12.07.1838, sau 43 năm
làm Giám Mục. Quân lính thấm dầu vào vải, quấn quanh ngón chân, đốt thử xem chết
thật chưa, rồi báo cho quan tổng đốc hay. Quan quyết định : "Cứ thi hành mọi
sự như án đã đề ra, để mọi người biết tội y nặng nề dường nào."
Quân lính liền khiêng cũi đức cha
ra pháp trường Bảy Mẫu, đưa thi thể ra ngoài, rồi chém đầu trước sự hiện diện của
quan giám sát và một vài tín hữu. Thi hài vị tử đạo được các tín hữu đem về an
táng tại nhà thờ một thánh đường đã bị phá hủy ở Bùi Chu. Thủ cấp đức cha được
treo nơi công cộng ba ngày, rồi ném xuống sông Vị Hoàng. Hơn ba tháng sau một người
đánh cá vớt được, đưa về an táng chung với thi hài của ngài.
Ngày 27.05.1900 Đức Lêo XIII suy
tôn vị giám mục dòng thuyết giáo Ignatiô Y lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988,
Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
hãng bay eva
vé máy bay đi mỹ giá rẻ
korean airline
vé máy bay khứ hồi đi mỹ giá rẻ
mua vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich