* Chiếc khăn nghĩa tình.
Cuộc tử đạo của thánh Phêrô Tự là
một biểu hiện sâu xa mối tình thầy trò, mối tình cha con tinh thần trong giáo hội.
Ngày 31.07.1838, sau khi quân lính bắt được linh mục thừa sai Borie Cao, các
tín hữu sợ liên lụy nên làm ngơ như không quen biết. Nhưng thầy giảng Tự lẽo đẽo
theo đám lính, vừa khóc lóc vừa xin đi theo gót thầy mình. Quân lính thấy thế
sinh nghi, bắt thầy đưa đến trước mặt vị thừa sai. Cha Cao vì không muốn thầy bị
liên lụy, liền giả bộ không hề biết "người thanh niên" này là ai, sau
tình nguyện bỏ tiền ra để chuộc tự do cho anh ta.
Nhưng thầy Tự đã quyết tâm thực
hiện ý định của mình khi làm điều đó. Thầy tuyên bố thẳng, mình là đệ tử của
người bị bắt, và năn nỉ với ngài: "Xin cha cho con theo cha đến
cùng". Trước thái độ chí tình, vị linh mục xúc động, xé chiếc khăn quàng
làm hai, trao một phần cho người môn sinh, cũng là cộng tác viên đắc lực nhiều
năm qua và nói: "Cầm lấy, hãy cầm lấy nó làm bằng chứng cho lời thầy đã hứa".
Và thầy Tự đã giữ miếng vải đó suốt hai năm trời cho đến ngày tử đạo, trong đó
gần bốn tháng cùng giam với người cha tinh thần. Thầy đã ghi lại cuộc tử đạo
anh hùng của người cha yêu quý, để cùng với ngài theo chân Đức Kitô, vị Tôn sư
duy nhất đến đỉnh đồi Can-vê của mình.
Thánh Phêrô Nguyễn Khắc Tự Thầy Giảng Tử Đạo
* Xin
theo cha đến cùng.
Phêrô Nguyễn Khắc Tự sinh năm
1808 tại Ninh Bình thời vua Gia Long. Từ nhỏ cậu Tự đã được vào nhà Đức Chúa Trời,
rồi trở thành thầy giảng theo giúp cha già Quế. Khi cha già qua đời, thầy được
cử đến giúp linh mục Dumoulin Borie Cao. Trong bốn năm giúp cha Cao, thầy tỏ ra
rất nhiệt tình, hiền từ và tận tuỵ. Bốn năm cùng làm việc tuy chẳng lâu, nhưng
đã phát sinh một mối tình thân thiết đặc biệt giữa hai người. Chính sự gắn bó
đó đã đưa thầy Tự vào vòng lao lý khi muốn theo vị linh mục đến cùng.
Sau khi áp giải cha Cao và thầy Tự
từ Bố Chính về Đồng Hới, quan cho nhốt hai người riêng biệt. Nhưng nhiều lần cả
hai cùng với linh mục Khoa, Điểm và ông năm Quỳnh bị đưa ra tra khảo chung. Lần
đầu tiên thầy bị đánh 20 roi vì tội không chịu quá khoá. Hôm sau quan cho điệu
riêng thầy ra tra khảo: "Ngươi gặp đạo trưởng đã lâu chưa?". Thầy
đáp: "Được bốn năm". Quan hỏi tiếp: "Vậy ngươi gặp đạo trưởng ở
đâu?". Để tránh liên lụy đến mọi người thầy Tự nói: "Tôi gặp ông ấy ở
trên thuyền, và rồi chúng tôi ở chung với nhau". Quan tức giận quát lớn:
"Nói dối, tên này dám khai man. Lính đâu cho nó 30 roi". Thầy Tự đã
nhẫn nhục chịu đòn, không hề kêu ca một lời.
Những cuộc tra khảo, đòn vọt và
ép buộc quá khóa như thế cứ tái diễn nhiều lần trong suốt bốn tháng. Một hôm để
ép buộc cha Cao khai những nhà đã cho trú ẩn, quan lôi thầy ra đánh trước mặt
ngài, cũng may là người linh mục cũng nhanh trí khai tên những người đã chết, để
thầy bớt bị đòn vọt. Thầy Tự luôn kiên vững với niềm tin. Thầy vẫn khuyên nhủ
các tín hữu đến thăm, hãy chấp nhận thánh ý Chúa, trung thành vì đạo và cầu
nguyện cho nhau đủ sức chịu đựng đến cùng. Khi có thể thầy tận dụng hoàn cảnh để
dạy giáo lý và cắt nghĩa về đạo cho những bạn tù và những lính canh ngoại giáo.
Thêm vào đó, thầy siêng năng cầu nguyện, xin Chúa cho mình can đảm hy sinh vì
Chúa. Hai lần cha Ngôn đã khéo léo cải trang vào ngục thăm viếng và cho thầy rước
lễ.
Ngày 24.11.1838, thừa sai
Dumoulin Cao (bấy giờ đã nhận được sắc phong giám mục) cùng hai cha Điểm và
Khoa bị điệu đem ra xử tử. Cũng trong bản án đó, thầy Tự và một tù nhân khác,
ông năm Quỳnh được vua Minh Mạng phê như sau: "Tuy không phải là đạo trưởng,
nhưng hai kẻ này là mù quáng cố chấp không kém, nên cũng thuộc vào số những kẻ
đáng cho trẫm ghét bỏ. Do đó cả hai đều kết án xử giảo (xiết cổ cho chết),
nhưng chưa xử ngay".
Theo thừa sai Miche Mịch, nhà vua
trì hoãn việc xử vì muốn chờ ông Quỳnh, một người có uy tín lớn, nản lòng bỏ đạo.
Ba bốn bận các quan gởi sớ vào xin thi hành bản án, nhưng vua Minh mạng viết
thư yêu cầu nhẫn nại chờ đợi.
* Lãnh
phúc trên mảnh đất thấm máu người cha.
Thấm thoát gần hai năm trôi qua,
thầy Tự và ông năm Quỳnh vẫn vững vàng giữ trọn niềm tin của mình. Nhiều lần được
đưa ra trước công đường và bị tra tấn, cả hai người đều không thay đổi lập trường.
Cuối cùng vào tháng 07.1840, nhà vua cho lệnh thi hành bản án. Khoảng 100 binh
lính áp giải chứng nhân Chúa Kitô ra pháp trường Đồng Hới. Rất nhiều tín hữu
cũng như lương dân đi theo. Đến nơi thầy Tự hỏi cho biết chính xác chỗ trước
đây đã xử Đức Cha Cao, rồi vui vẻ quỳ ngay xuống đó để cầu nguyện. Hai người
con ông Quỳnh đến chào giã biệt thầy, thầy hứa sẽ cầu nguyện cho họ, và nhắn lời
chào giả biệt đến các tín hữu.
Giờ hành quyết đã điểm. Thầy Tự nằm
xuống cho lính thòng dây qua cổ. Được lệnh hai người lính cầm hai đầu dây cùng
xiết mạnh, đưa thầy giảng Tự 32 tuổi về hưởng phúc với Chúa Kitô, tại chính nơi
đầu người cha tinh thần thầy rơi xuống. Ông Quỳnh cũng bị xử giảo (xiết cổ) như
vậy. Hôm đó là ngày 10.07.1840.
Gần 60 năm sau, Đức Lêo XIII đã
suy tôn thầy giảng Phêrô Nguyễn Khắc Tự lên hàng chân phước ngày 27.05.1900.
Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển
thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét