Ðức Cha Thể (Etienne Théodore
Cuénot), Sinh năm 1802 tại Belieu, Besancon, Pháp, Giám mục Hội Thừa Sai Paris,
địa phận Ðông Ðàng Trong, chết rũ tù ngày 14/11/1861 tại Bình Ðịnh dưới đời vua
Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kínhvào ngày
14/11.
Cuộc đời thánh Giám mục Cuénot Thể
với 32 năm phục vụ Giáo Hội Việt Nam, 26 năm trong chức vụ Giám mục, gắn liền với
những trang sử đẹp nhất, giữa một giai đoạn khó khăn nhất thời bách hại. Nhiệt
tâm truyền giáo của ngài như ngọn thủy triều dâng tràn đến mọi nơi. Với tài đức
khéo léo, ngài đã đào tạo một đội ngũ linh mục xuất sắc và hàng ngàn thầy giảng,
nữ tu hăng say. Với châm ngôn "Để tín hữu vững tin, phải đào tạo những
tông đồ truyền giáo", nên dù cho bao linh mục, tu sĩ, giáo dân của ngài bị
tàn sát, giáo phận Đàng Trong của ngài vẫn phát triển mạnh mẽ, đủ sức tách làm
bốn giáo phận. Số linh mục, tu sĩ, tân tòng gia tăng nhanh mỗi năm, sẽ mãi mãi
là bằng chứng của nhiệt tâm và tài tổ chức của ngài.
Stêphanô Théodore Cuénot sinh
ngày 08.02.1802 tại Sous Réamont thuộc Bélieu nước Pháp. Lớn lên cậu vào chủng
viện Besancon, trung tâm huấn luyện của cha Réceveur, và thụ phong linh mục
ngày 24.09.1825. Tuy thế, hoài bão chính của tân linh mục là đi truyền giáo.
Năm 1828, cha Cuénot xin gia nhập hội Thừa Sai Paris, và năm sau được cử đến Việt
Nam. Ngày 31.5.1829, cha đến Kẻ Vĩnh, giáo phận Đàng Ngoài. Ngày 24.07, cha vào
Miền Nam.
Mới đầu cha được gửi đến Lái
Thiêu để học thêm tiếng Việt, đồng thời dạy các chủng sinh ở đó. Bốn năm dạy ở
chủng viện, tuy là thời gian ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để cha hiểu nhiều về
phong hóa địa phương, gắn bó với các cộng tác viên trong tương lai. Năm 1833,
vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo trên toàn quốc, triệt hạ các nhà thờ, tập
trung các thừa sai và bắt các tín hữu phải bỏ đạo. Vì mới lần đầu va chạm với
bách hại, các tín hữu khi đó chưa giám chứa chấp các vị thừa sai. Đức cha
Tabert Từ liền quyết định đưa các vị di tản qua Thái Lan. Cha Thể phụ trách việc
di tản 15 chủng sinh. Sau hơn một tháng rưỡi hành trình vất vả, đoàn người đã đến
Thái Lan và được vua Thái tiếp đón nồng nhiệt.
Thời gian đó, Thái Lan và Việt
Nam đang có chiến tranh, nên vua Thái Lan muốn nhờ các vị thừa sai kêu gọi dân
Công Giáo chống lại vua Minh Mạng. Dĩ nhiên là Đức cha Tabert Từ không thể nào
chấp nhận, ngài cương quyết từ chối. Điều đó làm Thái Hoàng nổi giận và thay đổi
cách cư xử. Nhà vua ra lệnh bắt giam ba linh mục và các chủng sinh Việt Nam.
May là nhờ tài ăn nói thuyết phục của cha Thể, vua mới nương tay và cho họ đến ẩn
náu tại chủng viện Pénang (Mã Lai) năm 1834. Cha nói:
"Bằng mọi giá phải lo cho họ.
Như tôi (một thừa sai) chết, người ta có thể gửi người khác thay thế chậm lắm
là một năm. Một linh mục, chủng sinh Việt Nam nằm xuống, phải mất hai ba chục
năm mới có người thay thế được".
Cũng năm đó, vì không ủng hộ Thái
Lan đánh Việt Nam, Đức cha Tabert Từ lại phải chạy đến Singapour.
Tuy sống cách xa nghìn dặm, Đức
cha, cha Thể và các vị thừa sai vẫn hướng tâm hồn về Giáo Hội Việt Nam đang lâm
cảnh máu chảy đầu rơi, vừa thương xót vừa thán phục, các ngài tìm cách trở lại
miền đất truyền giáo này. Năm 1835, Đức cha Tabert có quyết định mới. Khi thấy
trên mảnh đất Lạc Hồng chỉ còn hai thừa sai và 10 linh mục Việt Nam, Đức cha liền
đáp tàu sang Pénang, truyền chức Giám mục cho cha Thể, chọn làm phụ tá mình, và
cử vị tân Giám mục cấp tốc trở về giáo phận.
Trở lại Việt Nam trong những ngày
bách hại khốc liệt, sự hiện diện của Đức cha Thể quả là niềm an ủi lớn lao cho
các tín hữu. Đặt trụ sở tại Gò Thị, tỉnh Bình Định, Đức cha thấy mình không thể
đi thăm hết các họ đạo được, ngài liền viết thư luân lưu gửi đến khắp nơi để cổ
võ tinh thần đạo đức của giáo hữu. Từ nay tất cả các biến cố trong giáo phận :
Những cuộc càn quét của quân lính, những chứng nhân bị bắt giam, những cuộc tử
đạo, cho đến những thành quả tông đồ, đều được người cha chung giáo phận cảm
thông, viết thư khen ngợi, ủy lao hay khích lệ. Nhờ đó, các linh mục và giáo hữu
đều thấy thêm can đảm.
Việc Đức cha bận tâm nhất là số
các linh mục phục vụ. Ngoài hai linh mục đã theo ngài về từ Thái Lan, năm 1835,
Đức cha truyền chức cho 10 thầy giảng. Năm sau, ngài xin Hội Thừa Sai thêm sáu
linh mục. Là người sáng suốt nhìn xa trông rộng, Đức cha cho tái lập hai chủng
viện, một ở Huế trao cho cha Candalh Kim và một ở miền Nam trao cho cha
Lefèbvre Nghĩa. Đồng thời Đức cha cũng gọi các nữ tu dòng Mến Thánh Giá trước
đây đã phải phân tán về gia đình (250 dì) trở lại sống chung và hoạt động trong
18 nhà phước.
Ngày 31.07.1840, Đức cha Tabert Từ
qua đời tại Calcutta (Ấn Độ), Đức cha Thể chính thức làm đại diện Tông tòa. Năm
sau ngài tổ chức lễ tấn phong cho tân Giám mục Lefèbvre Nghĩa làm phụ tá. Lợi dụng
tình hình lắng dịu hơn, ngài tổ chức Công Đồng Gò Thị (1841) gồm ba thừa sai và
13 linh mục Việt trong giáo phận (1). Công Đồng dưới sự điều khiển của Đức cha
Thể, đã đưa ra những nguyên tắc sáng suốt để đào tạo một lớp linh mục bản xứ
đông đảo và nhiệt thành. Nếu việc mở chủng viện khó khăn, mỗi thừa sai có trách
nhiệm dạy sáu bảy thầy, rồi gửi qua Pénang học bảy năm. Họ sẽ về Việt Nam thụ
phong linh mục và làm việc. Cách tổ chức ấy trong thực tế đã cung cấp cho giáo
phận Đàng Trong một số khá đông linh mục thông thái và đạo đức.
Dù hoàn cảnh khó khăn, Đức cha vẫn
quan tâm đến việc nâng cao kiến thức và nhân đức cho hàng giáo sĩ, mỗi năm ngài
gởi cho các linh mục những bài học hỏi về tín lý, luân lý. Các cha sẽ diệt bài
nộp trong kỳ tĩnh tâm hàng năm. Sau đó, chính Đức cha đọc, sửa bài và gửi thư
nhắn nhủ cho từng linh mục. Đối với giáo hữu, Đức cha chủ trương rằng
"Phương pháp tốt nhất để đức tin của các giáo hữu vững vàng là đào tạo họ
thành những tông đồ truyền giáo". Thực vậy, nhờ giải thích cho các khác về
giáo lý, các giáo hữu ngày càng xác tín hơn về niềm tin của mình. Hơn nữa, họ tự
thấy nghĩa vụ làm gương cho anh em tân tòng về đời sống đạo và tinh thần can đảm
giữ vững đức tin.
Đối với những giáo hữu vì sợ hãi
đã xuất giáo, đạp lên Thánh Giá, Đức cha sẵn lòng thay mặt Chúa tha thứ. nhưng
ngài xin họ nhận một điều kiện là hứa giúp cho một lương dân theo đạo Công
Giáo. Bên cạnh đó, hàng năm Đức cha làm thống kê báo tin xứ đạo nào có nhiều
tân tòng hơn, khiến các xứ thi đua làm việc tông đồ. Đặc biệt phải nói đến lòng
can đảm của các nữ tu Mến Thánh Giá. Các chị chia nhau, cứ hai người một, đi hết
các làng mạc, phát thuốc men cho bệnh nhân, và khi có thể, rửa tội cho trẻ em sắp
chết. Năm 1835, khi Đức cha mới về Việt Nam, số trẻ em ngoại giáo được rửa tội
là 133 em, thì năm 1841 là 1800 em và năm 1843 là 8273 em. Năm 1844, số trẻ em
gia đình Công Giáo được rửa tội là 5056 thì số người lớn trở lại và rửa tội là
1007, nghĩa là 20 phần trăm.
Nhiều giáo hữu sẵn sàng bỏ tiền bạc,
cong sức nuôi dùm trẻ em những người quá nghèo, chỉ với điều kiện là cho em gia
nhập đạo. Lòng bác ái sâu xa ấy quả là bài giảng hùng hồn về sức sống của Giáo
Hội. Nhiều người thiện chí, và đôi khi cha mẹ các em cũng xin trở lại vì những
bài giảng sống này.
Một công trình lớn lao khác của Đức
cha Thể là công cuộc truyền giáo cho các dân tộc thiểu số miền Thượng du, đặc
biệt là dân tộc Bahnar. Chính Đức cha cử nhiều đợt người theo dõi, khích lệ và
đưa ra những chỉ đạo thích hợp để anh em Thượng nhận Anh Sáng Tin Mừng.
Những thành công lớn lao của Đức
cha đã được Tòa Thánh công nhận năm 1844 khi phân chia giáo phận Đàng Trong
thành hai giáo phận Đông (Quy Nhơn) và Tây (Sài Gòn). Tiếp theo đến năm 1850, lại
chia làm bốn là Nam Vang, Sài Gòn, Bắc (Huế) và Quy Nhơn. Từ đây Đức cha Thể chỉ
coi sóc giáo phận Đông Đàng Trong, nhưng lại ở trong tình hình bách hại mới gay
gắt hơn nhiều.
Trong 10 năm liền, nhờ sự che chở
của các tín hữu và các nữ tu Mến Thánh Giá, Đức cha và các linh mục thoát khỏi
cuộc truy lùng. Thế nhưng các ngài phải thay đổi chỗ ở liên tục, nhiều đêm ngủ
ngoài trời "đêm sao", có lúc phải vào rừng sâu hay đầm lầy, chịu đói
chịu khát, chịu khí hậu thất thường và nhiều lần suýt chết trong khi thăm viếng
bệnh nhân hay giải tội cho người hấp hối. Thế mà trong thời gian này, Đức cha
duy trì thường xuyên mối liên lạc với tòa Thánh. Đặc biệt khi được hỏi về tín
điều Đức Mẹ Vô Nhiễm, ngài đã trao đổi với các linh mục trong giáo phận, rồi gửi
thư bày tỏ lòng kính mến Đức Maria của dân Việt cho Tòa Thánh. Cuối thư Đức cha
viết :
"Xin Đức Thánh Cha cho được
hiệp thông trong lời cầu nguyện cùng với tất cả các Giám mục khác trong ngày Đức
Thánh Cha long trọng công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội".
Năm 1861, chiếu chỉ "phân
sáp" của vua Tự Đức làm Giáo Hội Việt Nam một phen điêu đứng. Đức cha Thể
đã khuyên các thừa sai trong giáo phận đi tản vào Sài Gòn, nhưng chính ngài
tình nguyện ở lại, ngài đưa ra một phương châm bất hủ : "Dù chỉ còn một thừa
sai chẳng làm được gì ngoài việc đọc kinh thần vụ, thì nguyên việc hiện diện của
vị đó đủ để nâng đỡ niềm tin và sinh hoạt của tín hữu rồi".
Từ tháng 10, Đức cha phải bỏ Gò
Thị trốn từ nhà này sang nhà khác. Ngày 24.10.1861, ngài đang ẩn ở nhà bà
Madalena Huỳnh Thị Lựu thì quân lính bao vây nhà bà…
Đức cha và hai chú giúp lễ kịp trốn
xuống hầm, nhưng vì vừa dâng lễ xong chưa kịp cất giấu đồ lễ. Vì chứng cớ ấy mà
quân lính thề phá nhà, nếu không tìm thấy đạo trưởng Tây Dương. Mọi người trong
nhà đều bị tra tấn, bà Lựu bị đánh đòn 17 roi. Sau hai ngày và một đêm ở dưới hầm,
Đức cha và hai chú giúp lễ khát khô cả cổ. Vả lại vì quân lính chẳng bỏ đi, nếu
chưa bắt được Đức cha, nên ngài tự ra nộp mình. Vừa thấy ngài, quân lính chồm tới
trói tay chân ngài lại như một con thú. Nhưng viên chỉ huy nhân đạo hơn, cho cởi
trói và mời ngài ngồi chiếu nói truyện với ông ta.
Hôm sau, Đức cha bị nhốt trong
cũi đưa về tỉnh. Hai chú giúp lễ, bà Lựu và hai người lân cận cũng bị mang gông
giải đi (sau này tất cả cùng bị xử tử tháng 12). Bà Lựu vừa cho con bú vừa ra
pháp trường, rồi hôn con lần cuối trao lại cho bà ngoại. Tháng 10 năm đó, miền
Trung bị lụt, nước dâng lên đến lưng, nên ngồi trong cũi chật chội, Đức cha
cũng bị ngập nước. Do đó, khi đến nhà giam thì Đức cha lâm trọng bệnh. Chứng kiết
lị làm sức khỏe ngài càng đuối dần, vì thế ngài chỉ phải ra tòa một lần. Quan hỏi:
- Tại sao ông sang nước tôi?
- Thưa, để giảng đạo Thiên Chúa.
- Ông ở đây bao lâu rồi?
- Ba mươi bốn năm.
- Ông đã ở những đâu?
- Thưa, trước hết là Bình Định rồi
Phú Yên, Bình Thuận và lại trở về Bình Định.
- Ông biết gì về chiến tranh
không?
- Thưa, không biết gì cả. Tôi đến
đây chỉ để giảng đạo, khi nơi này khi nơi khác thế thôi. Quan hành hạ thế nào
tôi cũng đành chịu, chứ tin tức chiến tranh tôi hoàn toàn không biết gì cả.
Trở về với chiếc cũi của mình,
cơn bệnh khắc nghiệt chỉ trong vòng ba tuần lễ đã làm Đức cha kiệt sức và thở
hơi cuối cùng ngày 14.11.1861, kết thúc 32 năm truyền giáo không một ngày bình
an.
Hôm sau, ngày Đức cha qua đời, bản
án trảm quyết từ Huế mới đến Bình Định. Thấy ngài đã từ trần, quan Trấn thủ
Bình Định không cho chém nữa, truyền đem đi chôn, những tín hữu đang bị tù xin
phép mua cho Đức cha một áo quan xứng đáng, nhưng Trấn thủ không chấp thuận.
Nhưng sau đó, triều đình lại gửi ra một bản án mới ghi thế này : "Tây
dương đạo trưởng Thể đã lấn lút trong nước ta 40 năm nay. Y đã giảng đạo và lừa
dối dân chúng. Bị bắt và tra hỏi, y đã thú nhận mọi tội lỗi. Lẽ ra phải đem
chém đầu y bêu lên giữa chợ, nhưng vì y đã chết trong tù, ta truyền phải quăng
xác y xuống sông".
Chiếu theo bản án ấy, quan Trấn
thủ cho đào mồ Đức cha lên để liệng thi hài Đức cha xuống sông. Mặc dù Đức cha
Cuénot Thể không đổ máu vì đức tin, nhưng căn cứ vào bản án và muôn ngàn nỗi
truân chuyên ngài đã chịu vì đạo, Giáo Hội tôn kính Đức cha với tước hiệu tử đạo.
Ngày 02.05.1909, Đức Piô X nêu
danh Đức cha Stêphanô Théodore Cuénot Thể đứng đầu danh sách 20 vị tử đạo tại
Việt Nam được suy tôn lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
đại lý vé máy bay eva tại tphcm
các hãng máy bay đi mỹ
phòng vé máy bay korean air
đặt vé máy bay đi mỹ ở đâu
đặt vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich