Giuse Du (Joseph Marchand), Sinh
năm 1803 tại Passavaut, Besancon, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận
Ðàng Ngoài, bị xử hình bá đao ngày 30/11/1835 tại Thợ Ðúc dưới đời vua Minh Mạng.
Đức Lêo XIII đã suy tôn linh mục Marchand Du lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900.
Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính
vào ngày 30/11.
* Người tử hùng bá đao.
Trong 117 thánh tử đạo Việt Nam,
cuộc tử đạo của thánh Marchand Du mang màu sắc bi tráng nhất. Với gần ba tháng
trong chiếc cũi chật hẹp, và những cuộc tra tấn chết đi sống lại, ngài là vị
duy nhất bị án bá đao, nghĩa là bị cắt xẻo 100 nhát trước khi bị chặt ra làm bốn
phần, còn thủ cấp bị nghiền nát đổ xuống biển.
Tuy nhiên, chúng ta không nên quá
nhấn mạnh đến những đau thương trong cuộc tử nạn, mà quên mất chứng từ đời sống
của thánh nhân : sự nhiệt tâm truyền giáo, lòng yêu mến các tín hữu và chí
cương quyết chỉ phục vụ Tin Mừng.
Thánh Giuse Marchand Du Lm Tử đạo
* Mong ước tuổi xuân.
Đầu thế kỷ XIX, tại làng
Passavant, nước Pháp, nhiều người đã phải ngạc nhiên khi thấy hành vi của một cậu
bé chưa đầy mười tuổi : sau giờ học, cậu rủ các bạn hữu về nhà, khiêng bàn, trải
khăn làm bàn thờ, trang hoàng hoa nến, đặt cây Thánh Giá, rồi bắt trước các cử
điệu như khi linh mục dâng lễ Missa cho các bạn xem. Đó là cậu bé Giuse
Marchand.
Mở mắt chào đời ngày 17.8.1803 tại
làng Passavant, tỉnh Doubs. Ngay từ niên thiếu, dân làng đã thấy rõ ước muốn trở
thành linh mục của cậu. Sau khi rước lễ lần đầu, cậu xin cha mẹ đi tu, nhưng vì
gia đình làm nghề nông túng nghèo, thiếu người lao động, nên cha mẹ cậu tìm
cách trì hoãn cho cậu đổi ý. Tuy nhiên, Marchand đã không thay đổi ý định, cậu
kiên quyết hoàn thành mộng ước tuổi xuân, và cuối cùng bên người đổi ý là song
thân của cậu. Năm 18 tuổi, Marchand gia nhập chủng viện giáo phận Besacon. Năm
1828, sau khi lãnh chức phó tế, thày Marchand xin chuyển sang Hội Thừa Sai
Paris. Độ nửa năm, thầy được thụ phong linh mục (04.4.1829), sau đó một tháng
thì đáp tàu đi Macao đến Việt Nam giảng đạo.
* Nhà du thuyết nhiệt tâm.
Tháng 3.1830, cha Marchand vào tới
Việt Nam, và lấy tên mới là Du. Sau một thời gian học tiếng và phong tục Việt
Nam tại Lái Thiêu, cha du được cử tới Pnom-Pênh để coi sóc các tín hữu Việt Nam
tại đây (khi đó đất Campuchia thuộc giáo phận Đàng Trong). Thế rồi ít lâu, cha
được gọi về Lái Thiêu coi sóc các chủng sinh, đồng thời phụ trách 25 giáo họ, với
khoảng 7000 tín hữu thuộc tỉnh Bình Thuận.
Trong thư đề ngày 13.6.1832 gởi về
quê nhà cha viết : "… 25 giáo họ cách nhau rất xa. Muốn chu toàn bổn phận,
con không thể bỏ phí một giây nào… từ năm giờ sáng đến chín giờ tối, nhiều ngày
chẳng có lúc nào rảnh rỗi cả. Con chỉ có thể dành chút thời giờ chu toàn việc đạo
đức riêng lo cho phần rỗi mình, còn thì luôn luôn phải làm việc để thánh hóa kẻ
khác… Con chỉ tiếc một điều là không thể tận tụy hơn được nữa, để vừa giúp giáo
dân, vừa giúp lương dân, lại cón phải bắt buộc di chuyển bằng thuyền, nên không
thể đi mọi nơi, hầu dẫn về đoàn chiên Chúa Giêsu những con chiên bất hạnh lạc
đường…".
Cha Du mới đi hết 25 giáo họ này
được hai lần thì ngày 16.1.1833 vua Minh Mạng ra chiếu chỉ lùng bắt các giáo sĩ
Âu Châu. Đức cha Tabert Từ, cha Cuénot Thể và các thừa sai dẫn theo các chủng
sinh trốn qua Thái Lan. Chỉ mình cha Du nhất nhất quyết ở lại, ẩn tránh ở miền
Lục Tỉnh, giúp các họ Cái Nhum, Cái Mơn, Bãi Xan, Giồng Rùm, và trú ngụ tại Mặc
Bắc, Vĩnh Long.
* Tôi chỉ biết một điều là giảng đạo.
Lê văn Khôi thực ra có họ Nguyễn,
từng nổi loạn ở Cao Bằng, sau ra đầu thú, được Tả quân Lê Văn Duyệt nhận làm
con nuôi, mới đổi qua họ Lê. Lợi dụng việc vua Minh Mạng xử tệ với Tả quân (khi
đó đã thất lộc cho đánh trên mộ 100 trượng), Lê văn Khôi liền lấy cớ phò cháu
đích tôn của vua Gia Long, con hoàng tử Cảnh tên là Đản. Việc bại lộ, khôi bị bắt.
Đến 05.7.1833, ông với khoảng 30 bạn tù vượt ngục, giết một vài quan, thả các
tù nhân khác, rồi chiêu binh chiếm Phiên An (sài Gòn) và miền Lục Tỉnh.
Lê Văn khôi tuy ngoại đạo, ngưng
đã khôn khéo hứa hẹn bãi bỏ các lệnh cấm đạo của vua Minh Mạng, nên một số tín
hữu theo ông. Để có thể quy tụ nhiều người Công Giáo hơn ủng hộ mình, Lê Văn
Khôi cho mời cha Du về Sài Gòn, cha từ chối. sau vì một số tín hữu Chợ Quán nói
: "Nếu cha không chịu về, sợ quan giận mà chém hết bổn đạo trong thành. Ở
đó bổn đạo cũng đông lắm…". Thế là cha Du đành lòng về xứ Chợ Quán ở nhà
thờ cha Phước, nhưng rất ít khi ở nhà, cha lo đi thăm các gia đình tín hữu. Lê
văn Khôi nhiều lần mời, cha vẫn không chịu vào trong thành.
Khi quân triều đình vây thành Gia
Định, Khôi cho quan đem voi ra Chợ Quán bắt ép cha Du phải vào thành. Cha Phước
và nhiều tín hữu cũng theo vô. Trong thành, tướng Khôi xử đãi cha khá rộng rãi,
có nhà riêng để dâng lễ hàng ngày, các tín hữu có thể tụ tập ở đó để đọc kinh,
nghe giảng và lãnh các bí tích. Khôi có ý mua chuộc để cha tiếp sức, nhưng trước
sau cha chỉ nói : "Tôi chỉ biết việc đạo, còn nghề giặc giã binh lính, tôi
không rành".
Một hôm cha được mời vào dinh
nguyên soái. Một xấp thư kêu gọi dân chúng và tín hữu nổi dậy chống nhà vua để
trên bàn. Tướng khôi xin cha ký tên. Vị linh mục thấy rõ đã đến lúc tỏ rõ lập
trường của mình, liền đứng dậy cầm xấp thư, ném tất cả vào lửa. Dầu vậy quân của
Khôi không dám làm gì cha, vì sợ các tín hữu trong đội quân sẽ chống lại.
Sau hơn hai năm vây hãm, ngày
08.9.1835 quân chiều đình đã chiếm lại được thành Phiên An. Cha Du vừa cử hành
thánh lễ xong thì bị bắt, bị đánh đập và bị nhốt vào cũi nhỏ, dài một mét (1m),
rộng bảy tấc (0.7m), cao tám tấc (0.8). Đó sẽ là "nhà ở" của cha cho
đến ngày xử tử, căn nhà mà chủ nhân chỉ có thể ngồi khom lưng suốt ngày đêm.
Số người bị tàn sát lên đến 1994,
trong đó có 66 tín hữu (chỉ có 20 nam, còn bao nhiêu là phụ nữ và trẻ em), cha
Phước cũng bị xử lăng trì (chặt chân tay, rồi chẻ thân hình làm bốn). Cha Du được
đưa ra xét xử
- Giặc đã đem thầy vào thành, thầy
không làm gì để chúng giúp chúng sao?
- Tôi chỉ lo việc giảng đạo mà
thôi…
- Giảng đạo là giống gì ?
- Là đọc kinh, làm lễ và dạy dỗ bổn
đạo.
- Thầy có biết làm thuốc mê để dỗ
lòng ngụy cho nó theo không?
- Tôi chỉ biết có một việc là giảng
đạo mà thôi.
Sau hai cuộc tra vấn nữa, cha Du
bị giam trong cũi và bị áp giải về kinh đô cùng với tổng Trắm, đồ Hoành bốn
Bang, phó Nhã và con trai Lê văn Khôi là Lê văn Viên mới bảy tuổi. Đoàn người vế
tới Phú Xuân ngày 15.10, cha du bị gaim trong ngục Võ Lâm gần tòa Tam Pháp.
* Đàng sau bản án phản loạn.
Hôm sau 16.10, cha Du bị đưa ra
tòa Tam Pháp. Các quan cố ép cha nhận tội giúp Khôi làm loạn. Nhưng cha khẳng định
: "Tôi chỉ lo cầu nguyện cùng Chúa và làm lễ thôi". Quan hạch hỏi: -
Có phải người gửi thư vô Xiêm, cùng gửi thư cho quân Gia Tô trong Đồng Nai, biểu
nó đến giúp ngụy không ?
Cha Du trả lời : "Ông Khôi
có yêu cầu tôi viết thư, song tôi không chịu viết, một nói cho ông ấy hay : Đạo
tôi cấm làm như vậy và tôi thà chết chẳng thà làm theo lời ông ấy. Dầu thế ông
Khôi còn đêm mấy bức thư ra, biểu tôi ký tên vào, thì tôi lấy mấy cái thư ấy mà
đốt đi trước mặt ông ấy".
Để bắt cha nhận tội, tối hôm sau,
các quan dùng đủ cực hình kìm kẹp : Họ cho nung đỏ kìm sắt và cho kẹp hai lần
vào hai đùi cha, rồi giữ nguyên cho tới khi kìm nguội. Một lần như vậy mùi thịt
cháy xông lên khét lẹt, chính quân lính cũng phải quay mặt đi. Vị anh hùng đức
tin hai lần ngất xỉu, nhưng vẫn giữ nguyên lời khai cũ. Họ đành nhốt cha vào
cũi lại, rồi đưa về ngục.
Để tạo chứng gian buộc tội cha,
các quan dỗ con trai Lê văn Khôi, hứa trả tự do nếu khai rằng "Ông thày
Tây" giúp cha em khởi nghĩa. Nhưng cậu bé bảy tuổi ấy không biết nói dối,
cậu nói cha Du hoàn toàn vô can, dầu cha cậu có hứa hẹn, khuyên dụ nhiều phen.
Cuối cùng, các quan đành xoay qua
"tội giảng đạo". Họ nhắc đến chiếu chỉ nhà vua, và hứa ân xá nếu cha
bước qua Thánh Giá. Cha Du cám ơn quan và tuyên bố sẵn sàng chịu cực hình, chứ
không thể thất trung với Chúa. họ lại tiếp tục nhốt cha trong cũi. Sáu tuần lễ ở
kinh đô đã trôi qua như thế. Các tín hữu ghé vào thăm và tiếp tế cho cha, đều
thuật lại rằng : "Cha Du vẫn luôn vui vẻ và thường cầm cuốn sách nhỏ để đọc
đêm ngày".
Thừa lệnh vua Minh Mạng, bản án
cuối cùng được viết như sau : "Tây dương ma Sang kêu là danh Du, Gia Tô đạo
trưởng, phò ngụy Khôi, nhận tội viết thư xin Hồng Mao (nước Anh) và Xiêm La
(Thái Lan) sang giúp ngụy thần. Lệnh xử bá đao".
* Chết vì lý do tôn giáo.
Sáng sớm 30.11.1835, bảy phát
súng thần công nổ vang kêu gọi mọi người đến tham dự cuộc xử án. Cha Du, ba vị
tướng của Khôi và em Lê Văn Viên được đưa ra khỏi cũi (phó Nhã đã chết trong ngục),
mọi người chỉ được đóng khố, rồi dẫn đến cửa Ngọ Môn trình diện và phục lạy vua
năm lạy. Vua Minh Mạng tỏ vẻ giận dữ ném chiếc cờ hiệu xuống đất. Đó là dấu
không ân xá lần cuối, năm tội nhân được đưa ra pháp trường. Riêng cha Du, theo
mật lệnh, được đưa vào tòa Tam Pháp tra khảo một lần nữa. Đọc nội dung cuộc tra
khảo này, chúng ta thấy quan quân không đá động gì đến lý do chính trị cả !
Năm người lính cầm năm kìm nung đỏ
kẹp vào bắp vế cha. phía sau là năm người lính khác cầm roi để năm lý hình
không được phép nương tay. Ba lần kìm kẹp, thân thể cha Du có đủ 15 vết bỏng.
Song song với cuộc tra tấn là mẫu đối thoại sau :
- Tại sao Gia Tô móc mắt mấy người
gần chết?
- Không có, không bao giờ tôi thấy
điều đó.
- Tại sao mấy người kết hôn lại
phải đến các thày đạo trước bàn thờ ?
- Họ đến để thày cả chúc phúc và
chứng nhận trước mặt các tín hữu ở đó.
- Khi làm yến tiệc trong nhà thờ,
bay làm những sự quái gở lắm phải không ?
- Không, chẳng có những điều quái
gở.
- Vậy sao có thứ bánh dùng làm
bùa mê thuốc lú để phát cho những đứa đã xưng tội mà làm nó mê đạo đến thế?
Cha Du kiệt sức không thể trả lời
được nữa. Lính dọn cho tử tội bữa ăn sau cùng, nhưng cha không dùng chi cả, chỉ
lo cầu nguyện với Chúa. Sau đó, lính đưa các tử tội đến pháp trường tại họ Thợ
Đúc bên sông Hương, cách kinh thành một dặm đường.
* Chết như một tội nhân.
Năm cây cọc đã cắm sẵn. Lính trói
năm tử tội, cha Du bị trói vào cây cọc thứ hai. Ngài bị án "Phản loạn"
và sẽ chết giữa những người phản loạn. Dân chúng bị đuổi lùi ra xa 30 thước. Cứ
mỗi tử tội lại có ba lý hình, một cầm kìm, một cầm đao, còn một lo đếm số cho đủ
100 lát cắt. Trước đó, lính đã nhét vào miệng tội nhân và cột chặt, để không ai
có thể kêu la được nữa.
Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp
da trên trán cha Du lật xuống che mặt, rồi cắt từng mảnh hai bên ngực, sau
lưng, tay chân. Quá đau đớn, vị chứng nhân giẫy giụa, quằn quại, ngước mắt lên
trời cao rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa đời. Tiếp theo quân lính cắt đầu của
ngài, cởi dây, bổ thân mình làm bốn, và ném xuống biển chung với bốn tử tội
kia. Còn thủ cấp cha, được đưa đi bêu ở nhiều nơi, rồi được trả về kinh đô, bị
bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.
Ngày 30.11.1835 cũng là ngày kính
thánh Anrê. Các thánh lễ hôm đó đều đọc lại đoạn sách Isaia (Is. 52,7): "Đẹp
thay bước chân người rao giảng Tin Mừng" như lời chúc tụng vị thừa sai đã
hoàn tất sứ mạng tông đồ của mình. Giáo Hội đã rất thận trọng khi nghiên cứu hồ
sơ cha Marchand Du, căn cứ vào các buổi tra khảo, nhất là cuộc thẩm vấn cuối
cùng, Giáo Hội khẳng định ngài đã hiến mạng sống vì đức tin.
Đức Lêo XIII đã suy tôn linh mục
Marchand Du lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển
thánh.