Thánh
Mátthêu Lê Văn Gẫm Thương gia Tử đạo
Matthêu Lê Văn Gẫm,
Sinh năm 1813 tai Gò Công, Biên Hòa, Giáo dân, Thương gia, bị xử trảm ngày 11
tháng 5 năm 1847 tại Chợ Ðũi dưới đời vua Thiệu Trị, được phong Chân Phước ngày
27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 11/05.
* Liều thân vì đại nghĩa.
Năm 1844, theo lời yêu
cầu của Đức cha Cuénot Thể, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XVI chia giáo phận Đàng
Trong thành hai giáo phận: Giáo phận Đông gồm các tỉnh miền Trung, và giáo phận
Tây gồm các tỉnh Miền Nam và Campuchia. Giáo phận tây được giao cho Đức cha
Lefèbvre Nghĩa, khi đó đã bị trục xuất và đang ở Singapour. Phải đưa Đức cha về
giáo phận, đó là điều mong ước của toàn thể tín hữu và hàng giáo sĩ ở Nam Việt.
Thánh Matthêu Gẫm đã đứng ra đảm nhiệm công tác này, dù đã lường trước được những
nguy hiểm đến tính mạng. Và thực tế, ngài đã bị bắt và đã hy sinh vì sứ mạng
này. Tấm gương sáng ngời của thánh nhân sẽ muôn đời sống mãi trong lòng các tín
hữu Việt Nam yêu mến Giáo Hội mình.
* Người gia trưởng gương mẫu.
Matthêu Lê Văn Gẫm chào
đời năm 1813 thời vua Gia Long, tại họ Tắt, thuộc làng Long Đại, xứ Gò Công, tỉnh
Biên Hòa (nay thuộc quận 9, TPHCM). Là con đầu lòng trong một gia đình năm anh
em trai và một em gái út, Matthêu Gẫm đã thừa hưởng nơi thân phụ, ông Phaolô Lê
Văn Lại và thân mẫu, bà Maria Nguyễn Thị Nhiệm, một truyền thống đạo đức thâm
sâu.
Năm 15 tuổi, cậu Gẫm
xin phép cha mẹ gia nhập chủng viện Lái Thiêu để tu học linh mục. Nhưng chỉ một
tháng sau, song thân đã đến xin cậu về. Vì là anh cả một đàn em nhỏ dại, cậu đã
vâng lời cha mẹ về phụ giúp gia đình lao động kiếm sống. Và Chúa đã hướng dẫn cậu
theo lối khác. Khoảng 20 tuổi, chàng thanh niên vạm vỡ ấy kết hôn với một thiếu
nữ thuộc họ Thành, làng Long Điền, Bà Rịa (Nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Đồng
Nai). Hai vợ chồng sống với nhau rất êm ấm thuận hòa và sinh dạ được bốn người
con.
Trong nghề thương mại
thường phải xa nhà, một lần kia Matthêu Gẫm sa ngã, theo đuổi mọt thiếu nữ
khác. Nhưng khi nghĩ lại, ông cương quyết từ bỏ mối tình ngang trái. Để bù lại,
ông tỏ ra yêu vợ nhiều hơn, và chú tâm vào việc giáo dục con cái, nhất là về đời
sống đạo đức. Trong bốn người con thì con trưởng và con út qua đời vì bệnh, người
thứ hai ra cản việc đốt nhà thờ Cầu Ngang nên bị giết, còn người thứ ba bị bắt
vì đạo và chết thiêu trong khám đường cùng với nhiều người khác tại Bà Rịa ngày
07.01.1862. Hai người con sẵn sàng chết vì đức tin, quả là bằng chứng rõ rệt về
đường lối giáo dục đức tin của ông.
* Người thương gia quảng đại.
Vì có thuyền riêng và
rành nghề sông biển, công việc buôn bán của ông Matthêu Gẫm càng ngày càng phát
đạt. Ông quảng đại giúp đỡ các giáo sĩ, và được các thừa sai tín nhiệm. Trong
chương trình của cha Lợi, quản lý nhà chung Bà Rịa thì thỉnh thoảng ông lại làm
một chuyến qua Hạ Châu (Singgapour) hay Pénang (Mã Lai) để đón các thừa sai và
các chửng sinh Việt Nam du học về nước, hoăc chuyển các đồ thờ tự và sách báo đạo.
Một số chuyến đi về êm xuôi, nhưng rồi công việc bại lộ, và các quan địa phương
để ý theo dõi ông rất gắt.
Năm 1846, vì nhu cầu của
giáo phận, ông nhận lời với cha Lợi sang Singapour đón Đức cha Đaminh Lefèbvre
Nghĩa, cha Duclos Lộ và ba chủng sinh về Sài Gòn. Như có linh cảm chuyến này
khó thoát, nên ông đến từ giã cha mẹ nội ngoại, dặn dò vợ con kỹ càng ước vọng
của mình rồi lên đường. Chuyến đi được êm xuôi. Ngày 23.05, thuyền nhổ neo quay
về thì gặp bão tố, và mất thêm bốn ngày trốn chạy một tàu cướp biển, nên ông chễ
hẹn. Ngày 06.06, ông Gẫm mới vào đến cửa Cần Giờ, ông trùm Huy họ Chợ Quán đã
chờ ở đó sáu ngày để chuyển người mà không gặp, nên đã chở về nhà.
Vì biết mình là đối tượng
bị theo dõi, ông Gẫm đã cẩn thận neo thuyền chờ thêm hai ngày, đến khi không thấy
ai ra đón, mới quyết định đánh liều đi sâu vào Sài Gòn. Vừa thoát qua một đồn
canh, ông gặp một chiếc thuyền tuần tiễu, ông nhanh trí hối lộ cho họ 10 nén bạc
để thoát thân. Năm người lính trên thuyền này, sau một hồi tranh luận, sợ chuyện
bị bại lộ, nên quay thuyền lại và rượt theo để trả tiền rồi bắt thuyền ông. Ông
Gẫm kêu gọi các anh em trên thuyền hợp lực, định chống trả, nhưng Đức cha Nghĩa
không đồng ý, vì cho rằng trái với tinh thân nhân hậu của Kitô giáo.
* Khổ giá và vinh quang.
Sáng ngày 08.06.1846, với
sự yểm trợ của một số lính trên thuyền khác mới tới, quan lính nhà vua áp tải
thuyền ông Gẫm về Bến Nghé. Đức cha Nghĩa và cha Lộ bị giam ở Công Quán. Cha Lộ
qua đời trong tù ngày 17.07.1846, còn vị Giám mục thì được giải ra kinh đô Phú
Xuân. Tại đây vua Thiệu Trị lên án xử trảm, sau đổi thành án trục xuất về
Singapour, sau ngài lại tìm cách vào Việt Nam. Ông Matthêu Gẫm tự nhận là người
chủ mưu nên bị biệt giam ở Sài Gòn.
Vài ngày sau, các quan
đưa ông ra tòa lấy khẩu cung và kêu gọi quá khóa. Dù bị đòn đánh đau đớn, ông Gẫm
vẫn hiên ngang chịu đựng, không khai một ai, cũng không chịu bước qua Thánh
Giá. Trước tòa, ông khai tên là Lê Văn Bửu, còn bản án lại ghi tên Lê Văn Bối.
Sau 20 ngày, các quan làm án gửi về kinh đô xin xử chém, nhưng nhà vua chần chừ
đến năm sau mới quyết định.
Trong thời gian chờ vua
phê án, ông Gẫm phải mang gông xiềng nặng nề, nhưng lúc nào cũng giữ được bình
tĩnh vui vẻ. Ông nói : "Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được
chết vì đạo là điều tốt lắm". Cha Thán ba lần cải trang vào thăm giải tội
và trao Mình Thánh. Cha Phan Văn Minh (tử đạo ngày 03.07.1853) cũng vào thăm và
khích lệ. Các tín hữu Chợ Quán, Thị Nghè, An Nhơn và họ Lăng (Chí Hòa) cũng rủ
nhau đến thăm viếng người anh hùng của giáo phận. Thân phụ ông Gẫm và người em,
ông đội Phaolô Bằng, vì liên hệ gia đình cũng bị bắt giam tại Biên Hòa. Thân mẫu
ông và các em khác trốn tránh quanh vùng Thủ Đức cũng vào ngục thăm ông một vài
lần.
Sau bảy tháng ông Gẫm bị
giam, bản án được vua Thiệu Trị châu phê, nhưng vì trùng vào dịp cuối năm, vua
ra lệnh dời qua tết mới thi hành. Sau tết, một vài viên quan ở trấn Gia Định có
cảm tình với người thương gia hiền lành, viện cớ chính vị giám mục cũng không bị
xử tử, làm đơn xin vua giảm án của ông Gẫm thành án lưu đày chung thân. Nhưng
tháng 03.1847, khi quân đội triều đình giao tranh và thua quân Pháp ở Đà Nẵng,
nhà vua quyết định không ân xá gì nữa.
Ngày 11.05.1847, ông Lê
Văn Gẫm được đưa đến pháp trường "Da Còm", tên một cây đa tróc gốc cằn
cỗi ở đó (nay là xứ Chợ Đũi, khi đó còn thuộc xứ Chợ Quán), các vị tín hữu và
lương dân hiện diện rất đông. Ba người em của vị anh hùng đức tin, là Tôma Trọng,
Phaolô Bằng và Anrê Nguyện, cũng có mặt trong cuộc xử anh mình. Ông đội Bằng và
ông Trùm Phước phải xô đẩy đám đông để đưa cha Thán đến gần giải tội lần cuối
cùng cho anh mình. Ông đội cũng tặng đao phủ ba quan tiền đề anh ta chém thật gọn,
giúp anh mình đỡ đau đớn.
Thế nhưng nghe tiếng
chiêng trống, và thấy thái độ thương tiếc của nhiều người tham dự, viên đao phủ
không giữ được bình tĩnh phải chém đến ba nhát, đầu vị tử đạo đạo mới lìa khỏi
cổ. Các người en vị tử đạo và các tín hữu ùa vào, ráp đầu vị chứng nhân với
thân mình, khâu lại, thay áo trắng, lấy khăn xanh quấn quanh cổ ngài, rồi đặt
lên võng khiêng về an táng tại họ Chợ Quán.
Năm 1870, bà nhiệm,
thân mẫu vị tử đạo thuật lại ở tòa điều tra phong thánh rằng : "Hai vợ chồng
chúng tôi nghe con chết thì chẳng còn thảm thiết gì, một vui lòng mà rằng : chết
vậy đặng làm thánh".
Ngày 27.05.1900, Đức
Lêo XIII suy tôn ông Matthêu Lê Văn Gẫm lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét