Mộ Phần Linh Mục Gioan Đoàn Trinh Hoan Tử đạo.
Đức Ki-tô đã chết để cứu độ nhân loại, thánh Gioan Đoàn Trinh
Hoan đã ý thức cuộc tử đạo là cách noi gương Chúa tuyệt hảo nhất, cha Hoan đã tự
nguyện đón nhận nó, cha Hoan bị bắt ngày 03 thánh 01 năm 1861, vào dịp lễ Hiển
Linh, dưới thời vua Tự Đức cấm đạo, mặc dù bị tù ngục tra tấn khổ sở. cha Hoan
dẫn nhiệt thành giúp đỡ các tín hữu bị gian cầm, như lúc chưa bị bắt, thật cảm
động trước một vị linh mục già, mình mang xiềng xích gông cùm, cực nhọc lần bước
đến từng người giáo hữu sắp bị giết vì đạo, để an ủi, khích lệ và ban bí tích
cho họ, trong suốt 05 tháng bị gian cầm, cha luôn làm như thế. Ch đến ngày ra
pháp trường lãnh nhận triều thiên tử đạo
Gioan Đoàn Trinh Hoan sinh năm 1798, tại họ Kim Long, Phú
Xuân, Huế, trong một gia đình đạo hạnh, cần mẫn siêng năng. Nhờ ảnh hưởng đạo đức
của cha mẹ, cậu đã muốn dâng mình cho Chúa ngay từ nhỏ, được sự giúp đỡ và hướng
dẫn của người cậu là cha Kiệt, rồi cậu gia nhập chủng viện và được gởi đi du học
ở Pênăng (tức Mã Lai) để tu luyện làm linh mục. Học xong thần học thầy Gioan
Hoan về nước được lảnh nhận chức linh mục tại Sài Gòn.
Từ ngày thụ phong linh mục, cha Gioan Hoan hết lòng phụng sự
Chúa và nhiệt thành phục vụ Gióa Hội, trong 26 năm linh mục, cha đem hết tài
năng sức lực lo cho các tín hữu, và rao giảng Tin Mừng cho lương dân. Thấy cha
hăng sai hoạt động tông đồ, Đức Cha sai cha đi giúp nhiều họ đạo, như Kẻ San, Bảy
Trời, Mỷ Hương vvv… Tới đâu, cha cũng phục vụ đắc lực và kết quả khả quan. Cha
có biệt tài ăn nói rất duyên dáng, nên mọi người đều có cảm tình và quí mến
cha.
Ngoài việc phục vụ, cha còn tận tâm cổ động ơn thiên triệu,
đào tạo thầy giảng, huấn luyện thanh thiếu niên, và gởi vào chủng viện học tập
làm linh mục, vì cha thấy ông việc giảng đạo hết sức khẩn thiết và lớn lao, mà
không có người đảm nhận, đứng như lời Chúa Giê-su nói: “ Lúa chín đầy đồng, mà
thợ gặt lại ít” Là một linh mục nhiệt tâm với nước Chúa, cha không thể không
băn khoăn, lo lắng cho có nhiều thợ gặt lành nghề để phục vụ cánh đồng truyền
giáo, đó cũng là nỗi bức xúc của những ai có lòng đạo đức kính mến Chúa.
Để chuẩn bị mừng lễ Hiển Linh, đầu năm 1861 cha đến họ đạo
Sao Bùn, ở trọ trong nhà ông Trùm Phượng, để thăm viếng, giải tội và dâng thánh
lễ cho giáo dân, các quan ở đây biết tin cha đến, đang đêm họ cho binh lính đến
bao dây nhà ông trùm Phượng bắt cha. Cha vội vàng chạy ra sông tìm đường trốn,
thế là cha bị bắt giải về Đồng Hới, lúc đó cha đã 63 tuổi.
Trong thời gian 05 tháng bị giam cầm tại đây, nhiều lần cha bị
đưa ra tra tấn đánh đập rất dã man, có những lần bị binh lính lấy kềm sắt nung
đỏ kẹp vào bắp thịt, buộc cha bước qua Thánh Giá và khai tên những người có đạo.
Nhưng cha cương quyết giữ vững đức tin và nhất đinh không khai báo, dù bị khổ
hình đau đớn đến tận xương thịt, cha cũng rán sức chịu đựng và hết lòng giúp đỡ
các tín hữu cùng cảnh tù ngục, những người bị chiến dịch bắt đạo tháng 10 năm
1859, đã gom nhiều chức sắc trong các giáo xứ, vì nhà vua trù tính kế hoạch làm
áp lực với quân Pháp, để họ triệt thoái các tàu ở cửa Hàn. Nhờ tài xã giao lịch
thiệp cha Hoan đã chiếm được thiện cảm của đám lính canh, hằng ngày cha dùng
nhiều thời giờ để an ủi, khích lệ các tín hữu trung thành bền đỗ theo Chúa, và
giải tội cho họ. Mỗi khi được nhận Mình Thánh Chúa do các linh mục ở ngoài gởi
vào, cha đều phân chia cho họ, nhờ đó họ được sức mạnh can đảm hy sinh vì Chúa.
Ngày 25 tháng 05 năm 1861 cha nhận được bản án trảm quyết,
hôm đó cha thức suốt đêm, để thăm viếng khích lệ các bạn tù. Cha Hoan nói; “ Giờ
cuối cùng của tôi không còn xa, phần anh em những người con yêu quý, anh em còn
ở trên trần gian đau khổ này, anh em hãy trung tín đến cùng. Xin anh em cũng cầu
nguyện cho tôi được hoàn thành theo ý Chúa một cách trọn vẹn” và sáng hôm sau
cha được dẫn ra pháp trường, khi nghe đọc bản án. Cha nói: “ Con tạ ơn Chúa, vì
Ngài cho con được phúc đổ máu vì danh Chúa”. Quan hỏi cha có muốn trói vào cột
không. Cha đáp: “ Không cần, tôi sẽ quỳ yên không nhúc nhích. Nếu tôi không tự
nguyện nhận cái chết, tôi đã chẳng đến đây, xin cho tôi được vài phút để cầu
nguyện” sau đó cha ngước mắt lên trời tạ ơn Chúa, giơ tay giải tội cho ông Phượng
và ra dấu sẵn sàng.
Khi cha cỏi áo thấy hai mảnh “ Áo Đức Bà” cha đeo phất phới
trước ngực, một người lính tưởng là thứ gì quý giá thì xin. Cha nói: “ Cái này
tôi không thể cho ai được, đây là hình ảnh của Đức Nữ Vương và là Bà Chúa của
tôi” viên lý hình thấy thái độ dũng cảm của cha, biết cha vô tội nên nhờ lý
hình khác, anh lý hình không quen đã phải chém đến 3 nhát, sau đó dùng gươm cứa
đứt miếng da còn xót lại.
Noi gương Thánh Đoàn Trinh Hoan tử đạo, hằng ngày hy sinh chịu
khó rao giảng đạo Chúa, trong hoàn cảnh thuận tiện cũng như lúc khó khăn, bằng
lời cầu nguyện việc hy sinh và gương sáng dời sống.
Đức Thánh Cha Piô X phong chân phước cho cha ngày 02 tháng 05
năm 1909 và ngày 19 tháng 06 năm 1988 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã suy tôn
cha lện Hiển Thánh.
Trùm Họ Matthêu Nguyễn Văn Phượng Tử đạo
Lúc lý hình sắp chém đầu Thánh Nhân, 2 người con trai và 1
con gái là chị Thủ đã chạy ra ôm chằm lấy ông, thương khóc thảm thiết, những
người có mặt chứng kiến cảnh đó, ai cũng bùi ngùi cảm động không thể cầm được
nước mắt, thật là một cảnh chia ly vĩnh biệt
rất đau đớn. Nhưng ông trùm đã can đảm giã từ con cái, sẵn sàng hy sinh
tình phụ tử thân thương vì lòng kính mến Chúa, để tôn vinh Danh Thánh Chúa, ông
nói với các con: “ Các con của cha ơi đừng buồn đừng khóc làm chi, cha đã gặp vận
hội may mắn. Anh em chúng con hãy sống hòa thuận, yêu thương đùm bộc lẫm nhau.”
Hẳn ông không quê lời Chúa dạy: “ Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng
với Thầy.” Theo lời Chúa phán trên, thánh Matthêu Phượng thật xứng đáng với
Chúa, xứng đáng làm môn đệ Chúa, xứng đáng nhận triều thiên tử đạo. Thánh Nhân
sẵn sàng hy sinh vĩnh viễn con cái, để chịu chết vì Danh Chúa.
Matthêu Phượng sinh khoảng năm 1808 tại họ Kẻ Lái tỉnh Quảng
Bình, cha mẹ là người đạo đức sốt sắng, nên cậu nhờ ảnh hưởng của gia đình mà
có lòng đạo sâu xa, cậu rất mến mộ học hỏi gióa lý, siêng năng tham gia thánh lễ,
xưng tội rước lễ, như khi mới lên 10 tuổi, cậu phải mồ côi cha và 2 năm sau mồ
côi luôn cả mẹ. Cảnh đứa con mới 12 tuổi mà mồ côi cha mẹ thật thảm thương !
Nhưng cậu Phương không ngã lòng, cậu dẫn tin tưởng Chúa, trông cậy Chúa, biết rằng
không bao giờ Chúa bỏ cậu, chim chóc ngoài trời kia Chúa không để cho chết đói,
huống gì cậu là con của Chúa, cậu quyết tâm lo tự lập sinh sống. Cậu học nghề
thuốc với một thầy lang tên là Nhu, ông là người ngoại đạo, như rất có lòng
nhân hậu, thấy cậu mồ côi ông thương giúp, dạy dỗ chỉ bảo tận tình, cha cậu nhiều
bài thuốc quí.
Sau khi học nghề thuốc, cậu Phượng đến ở giúp việc cha Điểm.
Năm ấy cậu 22 tuổi, cha cưới vợ cho cậu ở xứ Sáo Bùn, từ đó cậu về sống theo
quê vợ, và chuyển sang nghề buôn bán, vợ chồng làm ăn ngày một phát đạt sung
túc, và sinh được 8 người con, trong đó cô thủ dâng mình cho Chúa trong dòng Mến
Thánh Giá, mặc dù bận lo mua bán, ông dẫn chăm sóc giáo dục con cái hết sức chu
đáo, đặc biệt ông dạy con bằng gương sáng đời sống hằng ngày, muốn con cái làm
việc gì tốt lành, ông phải làm gương cho chúng noi theo. Nhờ đó, các con ông sống
đạo đức và lương thiện.
Dưới thời Minh Mạng cấm đạo, ông là một trong những tông đồ
hoạt động nhiệt thành nhất trong họ đạo Sáo Bùn, nên được giáo dân chọn làm
trùm họ. Trong lúc thiếu vắng linh mục, ông dạy đạo và rửa tội cho trẻ em cũng
như người lớn, ông khích lệ đồng bào sốt sắn thờ phượng Chúa, ông khuyên bảo
người lương gia nhập đạo Chúa. Mỗi khi có linh mục đến ông tiếp đón về nhà, tận
tình phục vụ, che chở, nhiều người e ngại như ông chỉ mỉm cười và tiếp tục làm
việc bác ái như trước.
Đầu năm 1861khi cha Đoàn Trinh Hoan đến họ Sáo Bùn, giúp giáo
dân chuẩn bị mừng lễ Hiển Linh, ông rước cha về, tiếp đãi nồng hậu như các cha
khác. Chẳng may đêm đó quân lính bao vây nhà ông tìm bắt cha. Cha chạy trốn ra
bờ sông nhưng cũng bị bắt, họ cũng bắt luôn ông cùng 7 giáo hữu khác giải về Đồng
Hới. Ở tại Đồng Hới nhiều lần ông bị đưa ra tra tấn đánh đập dã nan buộc ông
chói Chúa bỏ đạo, nhưng ông cương quyết không bỏ Chúa, trong số các quan án, có
viên lục sự trẻ tuổi, đem lòng yêu mến con gái ông, y hứa: “ Nếu gả con gái cho
tôi, tôi hứa hết sức lo cho ông được tự do” ông trùm đáp: “ Không được đâu, trừ
khi chính anh theo đạo. Tôi không gả con gái cho người ngoại đạo, dù anh là ông
ký hay quan đi nữa, tôi sợ nó không giữ mãi được đức tin. Nếu gì lý do đó mà phải
chết tôi sẵn sàng.”
Vào ngày 25 tháng 05 năm 1861, bản án triều đình Huế đã về tới
Đồng Hới. Ông Trùm Phượng vui vẻ đi chào từ biệt các bạn tù, để hôm sau cùng với
cha Hoan ra pháp trường.
Thế là ngày 26 tháng 05 năm 1861, ông được đưa ra pháp trường,
lãnh nhận triều thiên tử đạo, một người cầm bản án đi phía trước: “ người này
tên Nguyễn Văn Đắc, tức Phượng, là tín đồ Giatô, kẻ dám đang tâm bao che cho đạo
trưởng Hoan, vi phạm luật nhà nước, là một trọng tội, phải đem xử trảm tức khắc”.
Những người con thân yêu của ông đến tiển biệt ông trong nước mắt, nhưng ông
can đảm an ũi họ, sau đó lý hình đuổi tất cả ra ngoài. Ngay sau khi tiếng
chuông bắt đầu đổ lên, đầu vị tử đạo rơi xuống đất, và linh hồn vị anh hùng đức
tin về hưởng nhan Thiên Chúa muôn đời.
Đức Thánh Cha Piô X phong chân phước cho ông ngày 02 tháng 05
năm 1909 và ngày 19 tháng 06 năm 1988 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã suy tôn
cha lện Hiển Thánh.