* Chứng Tá Tập Thể Trong Lao Tù.
Đọc truyện các Thánh Tử đạo Việt
Nam, không ai có thể quên được một chứng tá tập thể của hai thầy giảng, ba giáo
dân ở trong tù. Năm vị cùng bị giam chung với cha Tự và ông trùm Cảnh, nhưng
hai vị này tử đạo trước (5.9.1838). Dù sống trong ngược đãi, dù bị kiểm soát gắt
gao, năm vị đã gắn bó với nhau trong tình anh em tha thiết, cùng sống đức tin
kiên vững và nỗ lực làm chứng cho Thiên Chúa bằng lời nói, gương sáng và bằng
chính mạng sống mình.
Thánh Phanxicô Xavie HÀ TRỌNG MẬU
1. Thánh Phanxicô Xavie HÀ TRỌNG MẬU, Thầy giảng
dòng ba Đaminh (1790-1839)
Thầy giảng Phanxicô Xavie Mậu
không những phải chọn lựa giữa cái chết và cuộc sống, thầy còn phải chọn lựa giữa
cái chết và việc làm quan triều đình. Không một chút lưỡng lự, thầy trả lời vị
tổng đốc: "Tôi không ham quyền, tôi chỉ muốn chết vì đạo."
Phanxicô Xavie Hà Trọng Mậu cất
tiếng chào đời năm 1790 tại làng Kẻ Diền, tỉnh Thái Bình. Cậu được cha mẹ cho
đi tu, trở thành thầy giảng và đi giúp nhiều giáo xứ. Khi cha Phêrô Tự bị bắt,
thầy Mậu đang coi họ Nội, thuộc xứ Kẻ Mốt. Được tin cha và thầy Úy bị đưa về
Lương Tài, thầy liền đến đó nghe ngóng tin tức. Giáo hữu gửi thầy trọ ở nhà một
lương dân phía bên kia sông, vì nghĩ rằng lính sẽ không khám xét đến. Ai ngờ,
chính người chủ nhà đi báo cho quan kiếm tiền thưởng, thế là thầy bị bắt.
Thầy bị dẫn đến dinh quan Lương
Tài. Có mặt cha Tự ở đó. Quan hỏi thầy là ai, thầy đáp: "Thưa quan, tôi là
một môn đệ thân tín của cha đây". Cha Tự ra dấu nhắc thầy đừng khai rõ,
may ra có thể chuộc về được chăng, nhưng thầy nói nhỏ với cha: "Xin cha
thương nhận con là môn sinh, để con cũng được tử đạo với cha."
Kể từ ngày cha Tự và ông trùm Cảnh
bị đem đi xử trảm, thầy Mậu trở thành cột trụ nâng đỡ bốn người còn sót lại, là
thầy Úy, các anh Mới, Vinh và Đệ. Thầy nhắc anh em sống huynh đệ, an ủi giúp đỡ
nhau. Thầy đại diện anh em viết thơ ra ngoài, hoặc trả lời với các quan. Đặc biệt
thầy động viên anh em hăng hái làm việc tông đồ ngay trong nhà tù. Trong hồ sơ
phong thánh, cha Huấn đã dựa vào các thơ của thầy làm chứng rằng: "Thầy Mậu
vẫn dạy giáo lý cho các tù nhân, và rửa tội được bốn mươi bốn người. Trong đó
có một tử tội tên Hưng mới học đạo một tháng thì đến ngày xử, anh xin quan hoãn
lại ít giờ để rửa tội, sau đó vui vẻ tiến ra pháp trường...".
Khi quan nói: "Kẻ nào chết
vì không chịu bước qua thập giá là ngu dại, không biết thương cha mẹ già."
Thầy giải thích: "Thưa quan, cha mẹ sinh chúng tôi, nhưng ngay cha mẹ
chúng tôi có ở trên đời, cũng là nhờ quyền năng của Chúa." Khi quan tuyên
đọc bản án xử tử, thầy bình tĩnh đáp lại: "Thưa quan, chúng tôi mong ước về
với Chúa, như nai mong tìm thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành án lệnh của Đức
vua."
Thánh Đaminh BÙI VĂN ÚY
2. Thánh Đaminh BÙI VĂN ÚY Thầy giảng dòng ba
Đaminh (1812-1839)
"Nếu tôi cả gan bước lên
thánh giá, thì tôi xúc phạm đến Chúa và bất hiếu với cha mẹ. Vì song thân sinh
ra tôi, đã dạy tôi trung thành với niềm tin cho đến chết."
Thầy Đaminh Úy đã đặt trọn niềm
tin của mình trong truyền thống tiên tổ. Không biết cha mẹ căn dặn thầy trung
kiên dù phải tử đạo vào lúc nào, khi mới có bách hại hay khi vào thăm trong tù?
Nhưng rõ rệt là với thầy, phản bội đức tin là phản lại những người đã nhọc công
vun trồng niềm tin cho mình.
Đaminh Bùi văn Úy sinh năm 1812 tại
họ Tiền Môn, làng Kẻ Rèm, tỉnh Thái Bình. Từ bé cậu đã được gia đình gửi vào
nhà xứ sống với cha Tự. Sau khi học thành thầy giảng thầy luôn hoạt động bên
cha tại giáo xứ Kẻ Đanh rồi Kẻ Mốt (Bắc Ninh), thì bị bắt, lúc đó thầy mới 26
tuổi. Bất cứ ai gặp thầy Úy đều công nhận thầy hiền lành, có lòng yêu mến Chúa
đặc biệt và là người trợ thủ đắc lực của cha Tự trong công tác, nhất là khi cuộc
bách hại của vua Minh Mạng bùng nổ. Ước mơ lớn nhất của thầy là được đóng vai
"Lê Lai thế mạng" để cha Tự khỏi bị bắt. Khi đào hang trú ẩn, thầy
làm hai ngăn rồi tình nguyện ở ngăn bên ngoài. Thầy nói với mọi người: "Nếu
các quan đến truy lùng, tôi sẽ ra trước nộp mình để cha khỏi bị bắt, hầu cha có
thể giúp anh chị em."
Ngày 29.6.1838, lính đến vây làng
Kẻ Mốt, đã bắt thầy Úy chung với cha Tự. Cha dự định khai thầy chỉ là giáo hữu
vào làm bếp để đỡ nguy hiểm, nhưng thầy nói: "Xin cha cứ nói con là thầy
giảng, may ra cùng được phúc tử đạo với cha"
Rồi thầy xin xưng tội để chuẩn bị
tâm hồn. Một lần tương kế tựu kế, quan nói dối thầy: "Cha Tự xuất giáo rồi,
sao anh còn cố chấp thế?" Thầy bình tĩnh trả lời: "Vô lý, cha tôi
không bao giờ làm vậy, mà dù có thực như thế, tôi cũng không chịu xuất giáo
đâu."
Lần khác, quan như muốn dạy khôn
thầy: "Anh còn trẻ, hãy nghĩ lại và khôn hơn một chút, ta chỉ yêu cầu anh
bước qua một khúc gỗ mà." Thầy Úy đáp: "Đúng là khúc gỗ, thưa quan,
nhưng khúc gỗ đó lại tượng trưng cho Chúa tôi thờ. Quan nghĩ sao nếu tôi giày đạp
lên ảnh vẽ hình cha mẹ tôi?" Hôm khác, khi bị dụ dỗ bước qua thánh giá, thầy
khẳng khái nói: "Thưa quan, quan có dám bước qua mặt đức vua không, mà lại
bảo tôi bước qua mặt Chúa tôi? Nhưng dù quan có bước qua mặt vua, thì tôi cũng
không bước qua mặt Chúa tôi được."
Quan nghiêm nghị phán: “Tên phạm
thượng, ta sẽ chém đầu mi." Người chiến sĩ đức tin vui vẻ reo lên:
"Anh em ơi, tôi sắp được
chém rồi".
Nhưng phúc trường sinh đến với thầy
không quá sớm như vậy.
Thánh Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI
3. Thánh Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI Nông dân dòng
ba Đaminh (1806-1839)
Tuy là một tân tòng mới theo đạo,
anh Augustinô Mới đã biểu lộ một đức tin kiên cường, không thua kém gì những
Kitô hữu vững tin nhất.
Augustinô Nguyễn văn Mới sinh năm
1806 tại làng Bồ Trang tỉnh Thái Bình, trong một gia đình nông dân ngoại giáo.
Đến tuổi trưởng thành, anh đến làng Đức Trai, xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) để làm thuê
làm mướn. Tiếp xúc với giáo hữu ở đây, càng ngày càng thấy mến đạo, và xin theo
học giáo lý. Năm 31 tuổi, anh được cha Tự rửa tội và đặt tên thánh bổn mạng là
Augustinô.
Mấy năm sau, cha Tự cũng chủ sự lễ
thành hôn cho anh với một thiếu nữ trong xứ. Theo các lời chứng trong hồ sơ
phong thánh, anh Augustinô Mới sống đạo rất tốt, đặc biệt là đọc kinh Mân Côi mỗi
tối. Dù có ngày lao động vất vả đến mãi khuya mới về, anh cũng không quên kinh
Mân Côi kính Đức Mẹ.
Ngày 29-6-1838, khi quân lính bao
vây làng Kẻ Mốt và bắt cha Tự, họ buộc toàn dân phải ra đình điểm danh, rồi bước
qua thánh giá. Một số tín hữu nhanh chân lẫn tránh được, một số nhát gan thực
hiện lời yêu cầu của lính. Các anh Mới, Vinh và Đệ cương quyết không chịu đạp
lên thánh giá, nên bị bắt và áp giải chung với cha Tự, ông trùm Cảnh và hai thầy
Úy và Mậu lên giam tại Bắc Ninh.
Thánh Tôma NGUYỄN VĂN ĐỆ
4. Thánh Tôma NGUYỄN VĂN ĐỆ Thợ may dòng ba
Đaminh (1811-1839)
Hai mươi tám tuổi đời, một người
vợ ba người con, đó là mối ưu tư trắc trở của anh Tôma Đệ trong những ngày bị
giam cầm. Không thể bỏ đức tin, nhưng tương lai của người vợ trẻ và đàn con dại
sẽ ra sao? Trong nhiều ngày anh suy nghĩ và tha thiết cầu nguyện xin Chúa soi
sáng. Cuối cùng anh tìm được an bình trong tâm hồn, phó thác tất cả trong bàn
tay Chúa quan phòng. Anh nói với người vợ đến thăm:
"Đừng khóc mình ạ. Mình về dạy
dỗ các con nên người, dạy chúng thờ phượng Chúa. Tôi đã dâng mình và các con
cho Ngài. Nhớ cầu xin Chúa cho tôi thêm sức mạnh để nhẫn nại đến cùng."
Ra đời trong một gia đình Công
giáo tại làng Bồ Trang, tỉnh Thái Bình năm 1811, Tôma Nguyễn văn Đệ vì lý do
sinh kế, theo cha mẹ về xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) và ở ngay gần nhà thờ. Lớn lên anh
theo nghề thợ may và được mọi người yêu chuộng. Anh rất nhiệt tình với việc
trong xứ trong họ. Hầu hết cờ quạt, đồ trang hoàng trong nhà thờ và nhà xứ đều
nhờ đến bàn tay khéo léo và sáng tạo của anh. Khi kinh tế gia đình ổn định, anh
lập gia đình, ra ở riêng và sinh hạ được ba người con.
Ngày 29.6.1838, quân lính vây
làng Kẻ Mốt, và ép buộc mọi người trên 18 tuổi phải đạp lên thánh giá. Anh lẩn
trốn ra phía sau nhà. Đến khi quân lính xồng xộc vào nhà lùng bắt, anh biết
mình không thể tránh được nữa, liền giã từ vợ, dặn đưa con về bên ngoại, ôm hôn
từng đứa rồi ra trình diện. Đến trước thánh giá, anh Đệ quỳ xuống cầu nguyện lớn
rằng: "Lạy Chúa, sẽ không bao giờ con bước qua mặt ngài."
Quân lính áp giải anh Tôma Đệ
cùng với cha Tự ông trùm Cảnh, hai thầy Úy, Mậu và các anh Mới và Vinh về giam
tại Bắc Ninh.
Thánh Stêphanô NGUYỄN VĂN VINH
5. Thánh Stêphanô NGUYỄN VĂN VINH Tá điền dòng
ba Đaminh (1813-1839)
Thánh Stêphanô Vinh là một trường
hợp hy hữu, trong danh mục các thánh tử đạo Việt Nam. Khi bị bắt, anh mới chỉ
là dự tòng chưa được rửa tội. Nhưng với những hiểu biết ít ỏi về đạo, anh đã
kiên trì làm chứng cho chân lý. Mặc dù khi vô tù anh mới chính thức gia nhập đạo,
rồi thành hội viên dòng ba Đaminh, nhưng anh không thua kém ai về lòng can đảm
tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa.
Stêphanô Nguyễn văn Vinh sinh năm
1813 tại làng Bồ Trang tỉnh Thái Bình. Sống trong một gia đình ngoại giáo rất
nghèo, một miếng đất cũng không có, anh Vinh quanh năm phải làm thuê làm mướn
cho các gia đình Kẻ Mốt (Bắc Ninh). Trường học duy nhất anh ham thích và theo
được là các lớp giáo lý, nơi anh tập đánh vần và học truyền khẩu. Đặc biệt anh
đem các điều học ở đó ra thực hành trong cuộc sống. Có điều là người ta không
biết vì sao anh chưa được rửa tội. Mọi người đều mến thương anh vì anh đơn sơ,
chất phác, khỏe mạnh và thật thà. Trong công việc anh không bao giờ làm cho qua
loa chiếu lệ, ai thuê việc gì, anh cũng chu toàn tốt đẹp không cần kiểm soát,
không có gì để chê trách. Cho đến khi bị bắt (lúc 26 tuổi) anh vẫn sống độc
thân chưa lập gia đình.
Ngày 29.6.1838, khi quan quân vây
bắt cha Tự ở Kẻ Mốt, và bắt mọi người phải đạp qua thánh giá, chàng thanh niên
25 tuổi này đã anh dũng nói thẳng với họ rằng: "Tôi thà chết chứ không bao
giờ chịu đạp lên thánh giá, vì tôi biết đạo Chúa Giêsu là đạo thật."
Vì lời nói này, quan quân tưởng
anh là người trong đạo, thế là họ bắt anh Vinh và áp giải về trại giam Bắc Ninh
chung với cha Tự, ông trùm Cảnh, thầy Úy, thầy Mậu, anh Mới và anh Đệ. Chính tại
đây, anh Vinh được diễm phúc làm người Kitô hữu, được hân hạnh làm con Cha
Thánh Đaminh. Suốt hành trình tử đạo, anh là một nhân chứng trầm lặng, chỉ đồng
tình với các vị khác, nhưng gông cùm, xiềng xích và tra tấn không lần nào có thể
làm anh sa ngã hay thối chí. Chọn quan thầy Stêphanô trong tù, anh cương quyết
noi theo vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội đến hơi thở cuối cùng.
* Lời An Ủi Ấm Lòng.
Sau một tháng dọa nạt tra khảo bảy
chiến sĩ đức tin nhưng vô hiệu, ngày 27.7.1838, quan tỉnh Bắc Ninh đệ án vào
triều xin xử giáo cha Tự và ông trùm Cảnh, còn năm vị kia quan cho là nhẹ dạ
tin theo, nên xin đánh mỗi người một trăm roi rồi phát lưu vào Bình Định. Luật
vua thời đó xử giảo các phù thủy, đồng cốt, còn những kẻ a dua chỉ bị đánh đòn
và phát lưu ba trăm dặm. Thế nhưng vua Minh Mạng cho rằng tội theo đạo Gia-tô
thuộc loại nặng hơn, nên quyết định xử chém hai vị trên ngay tức khắc, còn tất
cả sẽ bị xử giảo sau một năm nếu không chịu thay đổi ý kiến.
Ngày 5.9.1838, khi biết tin cha
Phêrô Tự và ông trùm Cảnh đã bị chém tại pháp trường Kinh Bắc, năm vị trong ngục
buồn bã nhớ thương. Thầy Mậu kêu gọi anh em ngồi lại bên nhau cùng đọc kinh, vừa
khích lệ nhau, vừa ôn lại những lời khuyên của cha mình. Sau đó ba buổi tối,
như chính các vị thuật lại, trong lúc họ đang cầu nguyện, thì bất ngờ tất cả đều
thấy như cha Tự hiện ra ngay bên an ủi họ: "Các con đừng buồn, chắc chắn
các con sẽ còn được chết vì đạo. Tuy nhiên, các con sẽ còn phải qua một thời
gian thử thách nữa, để xứng đáng với phúc trọng này." Có thể đó chỉ là giấc
mơ chứ không phải sự thật, cũng có thể đó là lời nhắn nhủ cuối cùng của vị linh
mục, nhưng kể từ ngày đó họ hết sầu buồn, tìm lại được can đảm để nêu gương
ngay trong cảnh quẫn bách ở trong trại giam.
* Tuyên Khấn Trong Ngục Tù.
Ấn tượng ghi nét sâu đậm vào lòng
năm vị chứng nhân là lời cha Tự trong ngày lãnh phúc tử đạo. Cha mặc áo dòng và
nói với mọi người về chiếc áo đó. Trước đây bốn vị, đến khi vào tù có thêm anh
Vinh, đã mặc áo dòng ba Thánh Đaminh, nhưng chưa ai khấn cả. Thầy Mậu liền viết
thơ cho cha Huấn dòng Đaminh để bày tỏ niềm ước nguyện được hiệp thông với dòng
cách trọn vẹn. Thầy viết:
"Chúng con tất cả là năm tập
sinh của dòng ba Đaminh, nhưng chúng con không thể giữ chay đủ các ngày thứ
Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy được, nên chúng con xin cha thương rộng phép
chuẩn chước cho sự thiếu sót đó. Qua thơ này, chúng con xin tuyên khấn trọn đời.
Vì chúng con không thể đọc lời tuyên khấn trong tay cha được, nên bằng những
dòng viết này chúng con coi như thực sự tuyên khấn trước mặt cha vậy, xin cha
cho phép."
"Để tôn vinh và ngợi khen
Thiên chúa toàn năng, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng con là
Phanxicô, Đaminh, Augustinô, Tôma và Stêphanô, trước mặt cha Huấn, đại diện cha
Hermosilla, giám đốc dòng ba hãm mình Thánh Đaminh chúng con xin hứa và ước ao
giữ lề luật và tập tục của dòng cho đến chết."
Những chữ "cho đến chết"
trong ngục tù khi đó chắc hẳn phải có âm vang đặc biệt đối với các vị. Được nối
kết với truyền thống hơn sáu trăm năm truyền giáo của Thánh Phụ và một dòng tu
lớn trong Giáo hội, từ nay năm anh em tích cực hơn với việc tông đồ. Dưới sự điều
hành của thầy Mậu, năm hội viên dòng ba chia nhau tiếp xúc gặp gỡ các bạn tù,
giới thiệu với họ về Thiên Chúa, cắt nghĩa giáo lý, rồi dẫn họ đến thầy Mậu
lãnh nhận bí tích rửa tội. Ít ra các vị đã rửa tội được bốn mươi bốn người. Ngục
tù giờ đây trở thành nguyện đường, hằng ngày vang lên những lời chúc tụng Thiên
Chúa, lời cầu nguyện cho Giáo hội và cho mọi người, mọi giới được đầy tràn ơn
lành của Ngài.
* Làm Chứng Trước Quan Quyền.
Thấm thoát hơn một năm đã trôi
quan, triều đình quyết định lại việc xử giảo cả năm người. Ngày 19.8.1839 quan
cho điệu tất cả ra tòa, vẫn để thánh giá một bên, bên kia là dụng cụ tra tấn.
Quan nói: "Các anh bị giam cầm đã lâu ngày, chịu khổ cũng đã nhiều, vậy bỏ
đạo đi, ta tha về với vợ con." Thầy Mậu đại diện anh em trả lời:
"Chúng tôi đã quyết tâm trung thành với Chúa, nếu quan ra lệnh chém đầu
hay giết cách nào khác, chúng tôi đều sẵn sàng."
Rồi cả năm vị quỳ xuống bái lạy
thánh giá và cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con, con xin phó thác hồn
con trong tay Chúa."
Thất vọng, quan cho lính đưa tất
cả về ngục và thốt lên: "Bọn này không thể tha thứ được, mà chúng có thèm
được tha đâu."
Ngày 24.11, năm vị phải ra toà một
lần nữa. Quang cảnh vẫn như lần trước, và các tôi tớ Chúa vẫn một mực cương quyết
không chối đạo. Thầy Mậu thay mặt anh em nói với quan: "Chúng tôi chỉ tôn
thờ một Thiên Chúa là Cha chung muôn loài, là Vua trên hết các vua, là Đấng
chúng tôi mong được đổ máu ra để chứng tỏ lòng trung thành và yêu mến."
Như Nai Rừng Mong Mỏi Tìm Về Suối
Nước Trong Ngày 19.12.1839, trước khi đi xử, quan cho năm vị một cơ hội cuối
cùng. Ông nói: "Chỉ cần đi ngang qua phía chân tượng, ta cũng tha."
Sau ông lại nói: "Chỉ cần đi vòng quanh tượng ta cũng tha." Nhưng các
vị chứng nhân đức tin không dễ bị mắc lừa, họ bảo nhau quỳ xuống đọc kinh Kính
Danh Chúa Giêsu. Có lẽ do ảnh hưởng những lời kinh Giáo hội trong mùa Vọng, đón
chờ Chúa giáng sinh, thầy Mậu nói với quan những lời kinh Thánh vịnh 41 (c 1-2):
Thưa quan, chúng tôi ước mong về Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy. Xin quan
cứ thi hành án lệnh của nhà vua."
Biết không thể làm nao núng ý chí
sắt đá của những con người này được nữa, quan liền truyền đem đi xử với bản án
như sau: "Bọn gian ác theo Gia-tô tả đạo, mặc dầu đã khuyên răn sửa phạt,
vẫn ngoan cố không chịu bước qua thập giá, nay chúng bị xử giảo"
Trên đường ra pháp trường, thầy Mậu
rảo chân bước đi trước, các anh khác bước theo sau, tất cả đều tỏ ra hân hoan
kiên cường. Dân chúng hiếu kỳ đi xem rất đông và xì xào với nhau là các vị này
bị giết oan. Theo gương thầy Mậu, các chứng nhân tươi cười với mọi ngườỉ:
"Anh em chúng tôi đang tiến về thiên đàng đây." Khi tới nơi xử, mỗi vị
bị trói vào một cọc đã chôn sẵn. Rồi cùng một lúc, lý hình xiết cổ các vị bằng
giây thừng cho đến lúc tắt thở. Các tín hữu đem thi thể các vị về an táng ở họ
đạo mình. Thánh Mậu ở Kẻ La, Thánh Úy ở Đồng Tiến, Thánh Mới ở Phượng Vĩ, Thánh
Đệ ở Phong Cốc và Thánh Vinh ở Hương La, tất cả đều thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 27.5.1900, Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đã suy
tôn năm vị anh hùng tử đạo: Phanxicô Xavie Hà trọng Mậu, Đaminh Bùi văn Úy,
Augustinô Nguyễn văn Mới, Tôma Nguyễn văn Đệ và Stêphanô Nguyễn văn Vinh lên bậc
Chân Phước. Ngày 19.06.1988 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong các vị lên
bậc hiển thánh.
Trả lờiXóahãng hàng không eva air
hãng korean airlines
mua vé máy bay đi mỹ giá rẻ
mua vé máy bay đến mỹ
mua vé máy bay đến canada
Tri thức du lịch
Những chuyến đi cuộc đời