Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Sinh năm
1798 tại Kẻ Non, Hà Nam, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 18 tháng 12 năm 1838 tại
Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêô XIII suy tôn ba thầy Phaolô Nguyễn Văn
Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và Phêrô Vũ Truật lên bậc chân phước ngày
27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên
bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 18/12
Ba thầy giảng cùng bị bắt một
ngày, cùng bị giam một nơi, cùng tử đạo một giờ, cùng được suy tôn Chân Phước
và Hiển Thánh một lượt là các thầy: Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, 40 tuổi; Phêrô Trương
Văn Đường, 30 tuổi và Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi.
* Thánh Phaolô NGUYỄN VĂN MỸ - Thầy giảng -
(1798 – 1838)
Là người lớn tuổi nhất, thầy
Phaolô Mỹ như người anh cả, và là chỗ dựa cho hai thầy giảng cùng bị giam
chung. Trong một lá thư gửi cho thừa sai Marette, thày Đường viết : "… Từ ngày
được diễm phúc chịu khó vì đức tin, thầy Mỹ thay chúng con vẫn viết thư cho
cha. Vì chúng con coi thầy như thay mặt cha ở giữa chúng con…"
Phaolô Nguyễn Văn Mỹ chào đời năm
1798 ở làng Kẻ Non, còn gọi là Sơn Nga, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tên thật
của cậu là Nguyễn Văn Hữu. Năm 13 tuổi, được phép cha mẹ, cậu Mỹ theo giúp việc
Đức cha Giacôbê Longer Gia rồi sau giúp cha Luật xứ Kẻ Đầm bốn năm. Đến năm 19
tuổi, cậu theo học tại chủng viện Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị).
Khi làm thầy giảng thực thụ, thầy
Mỹ được gửi đến giúp thừa sai Marette. Ít lâu sau, Đức cha Harvard Du giám quản
giáo phận Tây Đàng Ngoài, đã chọn thầy phụ giúp linh mục Cornay Tân, xứ Bầu Nọ,
tỉnh Sơn Tây. Nhiều kinh nghiệm và khả năng, thày Mỹ đã hỗ trợ đắc lực cho vị
thừa sai trẻ tuổi nhiệt thành, nhưng thường đau ốm nặng nề này. Thầy Mỹ luôn
hoàn thành công tác mục vụ một cách chu đáo: Từ giảng lý tân tòng và trẻ em, đến
khuyên bảo tội nhân hối cải. Khi tình hình cấm đạo lên cao độ, thầy là vị tông
đồ nhiệt thành và hữu hiệu, đi thăm từng gia đình để khích lệ các tín hữu sống
đức tin, và còn hơn thế, được nhiều người ngoại giáo về đón nhận niềm tin Kitô
giáo.
* Thánh Phêrô TRƯƠNG VĂN ĐƯỜNG – Thầy giảng -
(1808 – 1838)
"Nhất định chúng tôi không đạp
lên ảnh chuộc tội, vì như vậy là chọn cái chết đời đời cả linh hồn lẫn
xác".
Lời nói trên cho ta thấy tâm tình
của thánh Phêrô Đường, vị thầy giảng đã hơn 20 năm dâng mình cho Chúa, để tìm
kiếm hạnh phúc đích thực cho chính mình và ta nhân.
Sinh năm 1808 ở làng Kẻ Sở, xã
Ninh Phú, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Gia đình Phêrô Đường tuy nghèo nhưng nổi
tiếng thánh thiện. Được cậu là linh mục Trương Văn Thi phụ trách xứ Sông Chảy đỡ
đầu, nên ngay khi chú Đường mới 9 tuổi, cha Phương xứ Yên Tập đã nhận khai tâm
cho chú vào đời sống tu trì. 15 tuổi, anh Phêrô Đường đã được gủi đến giúp xứ Bầu
Nọ dưới quyền thừa sai Marette. Với sự khích lệ của cha, anh chuyên tâm học chữ
Hán và Latinh để chuẩn bị cho tương lai.
Khả năng và nhân cách của anh Phêrô đường được
xác nhận ngay năm sau. Anh được Đức cha Havard Du nhận vào bậc thầy giảng dù mới
16 tuổi, thầy giảng trẻ tuổi nhất. Thầy tiếp tục giúp xứ Bầu Nọ thời cha Cornay
Tân, cho đến ngày bị bắt. Tính tình vui tươi, hiền lành, thầy được mọi người
trong xứ mến chuộng.
* Thánh Phêrô VŨ TRUẬT – Thầy giảng - (1817 – 1838)
Thầy Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi,
đáng lưu danh muôn thuở cho câu nói bất hủ, trả lời lại những viên quan chê dại
dột lãng phí tuổi thanh xuân : "Chưa chắc là tôi dại. Ai khôn mới biết hiến
mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời".
Phêrô Vũ Truật sinh năm 1817 ở
làng Hà Thạch, họ Kẻ Thiếc, huyện Sơn Vy, trấn Sơn Tây. Gia đình anh rất nghèo,
cha chết sớm, vốn liếng lại chẳng có, mẹ anh phải đầu tắt mặt tối suốt ngày,để
nuôi ba con dại, nên Phêrô Truật không được đi học và gầy yếu xanh xao.
Tuy nhiên, anh Truật có lòng đạo
đức, thường lui tới nhà thờ kinh lễ, nên được cha Tân chánh xứ Bầu Nọ chọn vào
phục vụ những việc nhẹ trong xứ và tạo điều kiện cho ăn học. Dầu thế mặc lòng,
anh Truật cũng chẳng bằng ai, phần trí khôn hơi chậm, phần hay bị đau ốm luôn,
anh chỉ có thể biết đọc biết viết sơ sơ. Bù lại, anh rất thuộc kinh, nên đặc
trách việc dạy kinh truyền khẩu cho các thiếu nhi nhỏ tuổi.
Mãi đến khi bị bắt giam trong ngục
tù rồi, Đức cha Havard Du mới chứng nhận anh là thầy giảng, vừa để lòng tin làm
chứng cho đức tin. Thầy Truật tuy không còn cơ hội để giảng bằng lời nói, nhưng
thái độ kiên tín của thầy chính là lời giảng có sức thuyết phục hơn nhiều.
* Ba tấm lòng vàng.
Ở Bầu Nọ có người ngoại giáo tên
Đức cầm đầu một băng cướp đã bị bắt. Để nhẹ tội, y nói với vợ là Yến vu oan cho
cha Cornay Tân tội tổ chức phản loạn. Chị ta liền giả vờ đến xin học đạo để dò
xét những nơi cha thường trú ẩn. Khi biết được, chị ta liền giấu vũ khí trong
vườn nhà cha, rồi đi mật báo cho các quan tỉnh Sơn Tây.
Ngày 20-06-1837, quan Sơn Tây
phái 1500 quân lính đến làng Bầu Nọ, bắt linh mục Tân. Hai thầy Mỹ và Đường
cũng như anh Truật ngồi lẫn vào đám đông dân chúng bị tập trung nơi đình làng.
Lính lục soát từ sáng tới trưa vẫn không thấy cha Tân đâu cả. Bà Yến liền bày
cho họ bắt anh Truật và hai thầy Mỹ và thầy Đường, là những người thân thiết với
cha xứ để tra hỏi.
Chiều hôm đó, lính phát hiện được
cha đang ẩn trong bụi rậm. Nhưng để có thêm nhân chứng ghép tội cha, ba vị phụ
tá này cũng bị áp giải với ngài hơn sáu dặm đường, về nhà lao tỉnh Sơn Tây. Tại
công đường, ba vị đã khéo léo minh chứng cha xứ không theo giặc nổi loạn, và giải
thích những lời đồn đại sai về đạo. Thí dụ quan hỏi : "Sao các ông móc mắt
người chết để luyện bùa phép ?" Thầy Mỹ trả lời : "Không lẽ quan tin
những lời đồn đãi vô lý đó sao ? Bởi nếu chúng tôi làm như thế, cha mẹ vợ con họ
đâu để cho chúng tôi yên. Vậy mà chúng tôi vẫn ra vào nhà họ, gặp gỡ thân ái và
vui vẻ"
Các cuộc thẩm vấn thường đi liền
với những tra tấn dã man. Đây là chứng thư của thầy Mỹ: "Lính lột áo chúng
tôi ra, bắt chúng tôi nằm xuống lấy dây thừng cột tay chân, rồi kéo căng cột
vào bốn góc, nguyên sự căng nọc cũng làm chúng tôi đau đớn vô cùng, thế rồi họ
bắt đầu đánh đòn… Cuối cùng họ không đánh bằng một chiếc roi nữa mà là cả bó. Mỗi
lần đánh hằng trăm đầu roi mây in lằn trên da thịt chúng tôi, tạo nên nhiều vết
thương đẫm máu…"
Riêng thầy Truật vì ốm yếu nên được
đeo gông nhẹ hơn và bị ít đòn hơn. Nhưng sau mỗi kỳ tra tấn cả ba người đều bị
kiệt sức, phải khiêng về ngục thất. Ngày 20-09, lính canh tù loan tin cha Tân
đã bị trảm quyết, và khuyên các thầy bỏ đạo cả ba vị cùng nói : "Chúng tôi
mừng vì thầy chúng tôi được tử đạo, chúng tôi nguyện theo gương Ngài."
Giai đoạn này thầy Mỹ ghi lại một
lá thư : "Suốt bốn tháng liền chúng tôi bị gông cùm xiềng xích, chịu lính
canh ngược đãi, phòng giam ẩm thấp hôi hám, ruồi muỗi tự do hoành hành, trên
người thì đầy những vết thương bị tra tấn."
Tháng 10 bản án tỉnh Sơn Tây tâu
vua Minh Mạng được chuẩn phê và gởi về. Nhưng thay vì giết ngay bản án quyết định
"giam hậu" nghĩa là khoan xử chờ quyết định mới, bề ngoài có vẻ nhân
đạo, nhưng thật ra bên trong rất thâm độc. Với thời gian nhiệt tình ban đầu có
nguy cơ phai nhạt, vì tử tội luôn bị ám ảnh đến chuyện phải ngồi tù không biết đến
bao giờ. Đàng khác sự chịu đựng con người có hạn, quá khổ đau, quá mòn mỏi, quá
thất vọng, con người dễ bị lung lạc và dễ bị thay đổi ý định. Thực tế ba thầy
giảng phải chờ thêm 14 tháng, vị chi tất cả là một năm rưỡi bị giam cầm. Nhưng
suốt thời gian bị giam cầm thử thách lâu dài đó, ba thầy vẫn gắn bó với nhau
trong nhẫn nại, can đảm và giữ mãi phúc tử đạo, mỗi sáng cũng như mỗi tối, các
thầy lớn tiếng đọc kinh Mân Côi chung, cầu nguyện chung, các đồ ăn thức uống,
thuốc men nhận được ba vị chia sẻ cho lính canh, ai đến thăm đều được khuyên nhủ
: "Anh em hãy sống hòa thuận với mọi người trong gia đình, làng nước, hãy
là giáo hữu nhiệt thành, vì đời sống trần gian chẳng là bao. Chúng tôi đã vâng
theo ý Chúa định đoạt, hy vọng mai này chúng ta sẽ đoàn tụ trên Nước trời"
Cha Triệu giả làm thường dân mang
Mình Thánh Chúa cho các thầy, đó quả là hồng phúc lớn lao. Ta thử đọc tâm sự của
thầy Đường gởi cho cha Marette trong thư : "Hôm nay là ngày trọng đại
chúng con được rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm và làm vơi nhẹ
những xiềng xích của chúng con… cửa Thiên Đàng đã gần kề, nghĩ đến hạnh phúc
đang chờ đợi, chúng con chẳng còn ước ao sự gì khác nữa…"
* Cùng Chiến Thắng Vinh Quang.
Năm 1838, triều đình duyệt lại bản
án và chỉ thị cho quan tỉnh Sơn Tây thi hành. Ngày 18-12 ba chứng nhân anh dũng
bị điệu ra pháp trường ở Gò Vôi làng Mông Phụ, tỉnh Sơn Tây. Mỗi người mang
trên ngực tấm thẻ ghi tên họ, nguyên quán, tội theo đạo Giatô, đã thú nhận,
truyền xử trảm. Trên đường đến nơi hành quyết, như đã hẹn trước ba thầy cùng
làm dấu khi thấy cha Triệu đứng giữa dân chúng ban phép lành tha tội. Một người
lính cho các Ngài uống rượu, ba vị cám ơn, uống nước trà và nói : "Thầy giảng
chúng tôi kiêng rượu như kiêng sắc dục và kiêng phản bội."
Đến nơi xử, ba thày nằm dài trên
chiếu, quân lính quây thành một vòng tròn lớn, để ngăn cản dân chúng. Từng vị một
bị trói chân vào cột và trói chéo tay ra sau lưng. Dây thừng tròng sẵn vào cổ.
Giữa tiếng chiêng trống vang rền, theo lệnh quan mỗi tên lính nắm chặt đầu dây
xiết thật căng, chờ tới khi tất cả tắt thở, máu ứa ra miệng. Sau đó lấy lửa đốt
bàn chân để xác nhận các tử tội đã chết thật rồi. Cha Marette và giáo dân đưa
thi hài ba thầy về họ Kẻ Măng gần đấy tẩm liệm. Ngài dâng lễ cầu hồn tạ ơn Chúa
đã cho các bậc tôi trung thắng trận khải hoàn.
Đức Lêô XIII suy tôn ba thầy
Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và Phêrô Vũ Truật lên bậc chân phước
ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn các
ngài lên bậc Hiển thánh.
Trả lờiXóahàng không eva airline
vé máy bay đi mỹ giá bao nhiêu
hàng không hàn quốc
vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ nhất
vé máy bay đi canada giá rẻ
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Tri Thức Du Lịch