Micae Nguyễn Huy Mỹ, Sinh năm
1804 tại Kẻ Vĩnh, Hà Nội, Giáo dân, Lý Trưởng, bị xử trảm ngày 12 tháng 08 năm
1838 tại pháp trường Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII suy tôn lên hàng
Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các
ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 12/08.
* Người con chí hiếu
Gông đóng xiềng mang, dạ nguyệt
kinh
Những say vì đạo hả vì tình
Vai mang bốn điệp (gông) tai thêm
ấm
Xổng xểnh ba vòng (xích sắt) cổ lại
thanh
Phép nước đành lòng không oán
thán
Nghĩa thầy để dạ vẫn đinh ninh
Khiến sao nên vậy nào lo nghĩ
Phó mặc Hoàng Thiên sự tử
sinh".
Qua những vần thơ của thánh Micae
Lý Mỹ dưới đây: Gông xiềng, đòn đánh là những hình phạt dành cho phạm nhân, làm
thân thể con người phải đau đớn, suy giảm sức khỏe thể xác thì đối với ngài,
người tín hữu trung kiên "say về đạo" Chúa Kitô, gông xiềng đã trở
lên hành trang qúi báu vô cùng. Chính bản thân ông đã tự nguyện lãnh đòn thay
cho nhạc phụ tuổi già sức yếu (ông trùm Antôn Nguyễn Đích) để rồi trở lên người
đồng hành làm chứng cho Đức Kitô, cùng lãnh phần thưởng cành lá vạn tuế tử đạo,
và cũng được tôn phong lên bậc hiển thánh. Ông Micae Lý Mỹ quả thực là người
con chí hiếu, một môn đệ trung kiên, đã thực hiện trọn hảo lời Thầy Chí Thánh:
"Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập Giá mà theo" (Mt. 16,24).
* Tốt đời đẹp đạo.
Thân phụ cậu Mỹ nguyên quán ở Đại
Đăng, tỉnh Ninh Bình, đến lập nghiệp và kết hôn tại làng Kẻ Vĩnh, Nam Định.
Micae Nguyễn Huy Mỹ sinh năm 1804, mồ côi cha năm lên mười, rồi hai năm sau mồ
côi mẹ. Được người thân tận tâm nuôi dưỡng giáo dục, cậu tỏ ra rất thông minh
và đạo đức : thông thạo chữ Hán và nghề thuốc, siêng năng đọc kinh sáng tối,
tham dự và lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Cậu thường tìm nơi
thanh vắng yên tĩnh trong vườn để đọc kinh Mân Côi và cầu nguyện.
Năm 20 tuổi, anh Mỹ kết duyên với
cô Maria Mến (Miều), con gái ông trùm Antôn Nguyễn Đích. Cuộc sống gia đình đầm
ấm với tám người con đạo hạnh, khiến hết thảy dân làng đều mến phục kính nể. Họ
đồng thanh thỉnh ông làm chánh tổng, nhưng ông từ chối. Sau cùng vì vâng lời Đức
cha Havard Du, để trợ giúp chủng viện và giúp đỡ giáo dân trong thời cấm đạo,
ông nhận chức Lý Trưởng.
Dù đời sống gia đình và xã hội
nhiều phức tạp, ông luôn sống xứng đáng là một gia trưởng đạo đức gương mẫu. Bà
Lý Mỹ kể rằng : "Gia đình tôi sống trong hòa thuận yêu thương. Ông Micae
chuyên chăm đạo đức, dự lễ hằng ngày, nếu vợ con hay người giúp việc bận rộn
không đi lễ được, ông bắt phải đọc kinh chung và nghe sách thiêng liêng để suy
niệm. Ông xưng tội nhiều lần trong năm, mỗi lần ông kỹ lưỡng xét mình hai ngày
trước. Mùa chay, ông giữ chay các ngày thứ tư và thứ sáu. Ông không uống rượu,
không đánh bạc hay to tiếng với ai bao giờ".
Làm Lý trưởng, ông Mỹ tỏ ra là
người liêm khiết, không nhận tiền hay quà hối lộ. Khi phân xử, ông rất công bằng
chính trực, không thiên vị bên nào. Với những người vướng mắc tệ đoan xã hội,
ông khuyên răn, sửa trị nghiêm minh. Lo cho gia đình thế nào, ông Lý cũng chăm
sóc làng xã như vậy : Mỗi tối, ông thường đọc kinh chung với phu tuần trước khi
thi hành công tác. Ông khuyên nhủ người khô đạo, giúp đỡ người nghèo khổ, tạo
điều kiện cho họ năng nhận các bí tích, tu thân sửa lỗi, để họ trở thành người
giáo hữu tốt lành và người công dân lương thiện. Hàng tổng vẫn lấy làng Kẻ Vĩnh
ra làm gương cho các làng khác.
* Phép nước đành lòng không oán thán.
Như các làng khác ở Miền Bắc
trong những năm cấm đạo (1833-1938), dưới triều vua Minh Mạng, vì quan quân
không ráo riết chấp hành, nên Kẻ Vĩnh được tạm yên trong mấy năm.
Nhưng năm 1837, Tuần Phủ Hưng Yên
bị cách chức, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh bị triệu về kinh quở trách nặng lời,
nhà vua trao cho Tổng đốc 40 Thánh Giá, truyền phải triệt để áp dụng chiếu chỉ
cấm đạo. Từ đó, quan Tổng đốc trở thành con người tàn bạo, người ta gọi ông là
"hùm xám tỉnh Nam". Hai giáo phận Đàng Ngoài vào cuối triều Minh Mạng
phải chịu những cơn bão táp dữ dội. Quan quân từng đội, từng đoàn đi khắp nơi,
bao vây từng làng, khám xét từng nhà, chủng viện Kẻ Vĩnh hai lần giải tán chủng
sinh sang các miền xung quanh.
Một lần, quan quân bao vây làng Kẻ
Vĩnh đúng lúc Đức giám mục và một số linh mục đang trú ẩn tại đó. Ông Lý Mỹ can
đảm và khôn khéo, đánh lạc hướng, dẫn quan quân đi khám xét từng nhà mà không bắt
được vị nào. Ông thường nói với các giáo hữu : "Việc nhà vua cấm đạo ví
như thử thách Thiên Chúa gởi đến, ta phải kiên tâm trung thành với đạo".
Khi nghe tin Tổng đốc bắt các lính Công Giáo phải quá khóa, ông Lý vì ở xa, nên
gởi thư khuyên bốn người thuộc làng Kẻ Vĩnh : "Xin anh em giữ vững đức
tin, mấy ngày nữa tôi sẽ đến với các anh em".
Ngày 02.07.1838, quan Tổng đốc chỉ
huy cuộc bao vây làng Kẻ Vĩnh, ông Lý Mỹ thưa với nhạc phụ : "Cha con ta đồng
sinh tử với nhau, việc Chúa quan phòng đã đến rồi, xin cha đừng hãi sợ
chi". Nói xong, ông ra đón quan Tổng đốc tại đình làng, quan truyền các
giáo hữu và linh mục phải ra trình diện, nếu không Lý trưởng phải làm tờ cam
đoan. Ông viết : Lý trưởng Nguyễn Huy Mỹ làm tờ cam đoan: làng chúng tôi không
có đạo trưởng, cùng các đồ quốc cấm, nếu khai man tôi xin nộp mạng cả gia đình
tôi".
Tờ cam đoan chưa ráo mực thì quân
lính đã dẫn linh mục Giacôbê Mai Năm đến. Quan ngạc nhiên hỏi phải xử thế nào ?
Ông thưa: "Thưa quan lớn, quan thương thì chúng tôi xin tạ ơn, bằng không
tôi xin nộp đầu chịu tội". Bấy giờ quan truyền đánh ông Lý 40 roi, rồi
đóng gông giải ra tỉnh cùng với linh mục Mai Năm và ông trùm Nguyễn Đích.
* Gông đóng, xiềng mang, dạ nguyện kinh.
Trên đường ra tỉnh Nam Định, một
kỳ mục trong làng bàn luận với ông Lý xin nộp tiền chuộc để ông được về, ông Lý
từ chối : "Xin cám ơn lòng tốt của dân làng, nên để tiền đó giúp vợ con
tôi và mở tiệc mừng khi đưa thi hài tôi về". Trong ba người bị bắt, vì biết
không thể dùng áp lực lay chuyển đức tin của cha Mai Năm, nên quan không thúc
ép nhiều. Với ông trùm Đích đã 70 tuổi già sức yếu thì quan cũng nương tay.
Riêng ông Lý Mỹ, đang tuổi cường tráng, lại nói năng lưu loát, nên quan dùng đủ
các phương thế dụ ông chối đạo : - Anh còn trẻ trung, thông minh sắc sảo, dân
chúng đều quý sao anh lại dại khờ không bước qua Thập Tự ?
Ông Lý đáp : - Trước khi tôi sinh
ra, đã có dân chúng. Vậy khi đó, ai lãnh đạo ? Nên tôi không vì thế mà làm theo
lời quan được.
- Anh không thương người vợ hiền
với đàn con sao ?
- Thiên Chúa trao phó người vợ và
con cái cho tôi săn sóc khi tôi có thể, nên tôi không thể chối bỏ. Giá như có
ai nói quan lớn đạp đầu Đức Vua đã ban chức trọng cho quan, ắt hẳn quan chẳng
dám làm, thì tôi đây lẽ nào giám cả gan đạp ảnh Chúa tôi thờ kính…
Quan Tổng đốc nổi giận truyền
đánh đòn ông Lý nhiều lần, tính tổng cộng trong suốt thời gian bị giam giữ, ông
Lý phải chịu đến 500 roi, kể cả ba lần chịu đòn thay cho nhạc phụ. Nhìn ông
trùm Đích tuổi già, sức yếu, ông Lý ngày đên lo lắng, thiết tha cầu khẩn Thiên
Chúa trợ giúp ban ơn cho nhạc phụ vững tin cho đến giờ phút cuối cùng. Ông Lý
thường khuyến khích nhạc phụ :
"Cha đã tuổi cao sức yếu, chẳng
sống được bao lâu nữa, nếu không chết vì đạo thì cũng chết vì bệnh, nhưng nếu tử
đạo, sẽ làm vinh danh Thiên Chúa và được hạnh phúc Thiên Đàng. Cha đừng luyến
tiếc sống thêm ít ngày, con đây còn khỏe mạnh, đời còn dài, vợ trẻ với đàn con
thơ dại thật đáng yêu đáng quý, nhưng con tin Thiên Chúa sẽ lo liệu thật tốt đẹp
cho chúng. Hơn nữa khi cha con ta được lên Thiên Đàng, sẽ cầu bầu trước nhan
Thiên Chúa thì có ích hơn cho cả gia đình dòng tộc. Cha đừng lo về những hình
khổ phải chịu, con sẽ chịu đòn thay cho cha hết thảy. Cha hãy can đảm làm chứng
và sẵn lòng chết vì yêu mến Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết vì chúng ta…"
Quả thực, mỗi lần quan truyền
đánh đòn ông trùm Đích thì ông Lý Mỹ đứng lên thưa : "Cha tôi đã già nua
tuổi tác, xin quan lớn tha cho, tôi xin chịu đòn thay". Quan lớn thấy ông
có lòng hiếu kính, nên chấp thuận đề nghị ấy. Ông Lý chịu đòn gấp hai lần nê y
phục rách nát, thân mình đầm đìa những máu, tứ chi bầm tím khắp nơi. Ông còn phải
mang gông xiềng nặng hơn, bị cùm xiết chặt hơn, khiến càng thêm đau đớn khủng
khiếp, nhưng vị chứng nhân Chúa Kitô luôn tỏ ra hân hoan vui mừng, không một lời
oán thán :
"Vai mang bốn điệp, tai thêm
ấm,
xổng xểnh ba vòng, cổ lại
thanh".
* Cuộc giã từ rơi lệ.
Người con gái ông Lý, cô Mỹ tuy mới
12 tuổi, cũng lén mẹ ra tỉnh tìm cách qua ba lần cửa có lính gác, vào thưa với
cha : "Xin cha cam đảm chịu chết vì Chúa". Cậu Tường mới 9 tuổi, con
trai ông Lý Mỹ, không đi xa được, cậu cũng cố gắng nài nỉ dân làng đi thăm chuyển
lời đến ông: "Cha đừng lo cho chúng con, cha hãy an tâm vững lòng xưng đạo
và chịu chết vì đạo". Bà Lý bồng con mới sinh được mấy tháng ra thăm chồng,
trao con cho chồng ẵm một lúc, bà thấy những cực hình chồng phải chịu, bà không
cầm được nước mắt, bà nói trong nghẹn ngào :
"Vợ con ai mà chẳng thương
chẳng tiếc, nhưng ông hãy hy sinh vác Thánh Giá rất nặng vì Chúa, hãy trung
thành với Chúa cho đến cùng, đừng lo nghĩ về mẹ con tôi. Thiên Chúa sẽ quan
phòng tất cả. Đến thăm ông lần này có lẽ là lần sau hết, cầu xin Chúa cho ông
vâng theo thánh ý Chúa".
Ông Lý Mỹ lòng đau như cắt. Ông
biết rằng sự ra đi của ông sẽ là nỗi thương đau vô cùng cho vợ con, nhưng vững
tin vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, ông bình tĩnh an ủi vợ:
"Lời bà khuyên nhủ đốt thêm lửa kính mến Chúa trong lòng tôi, bà đem con về
săn sóc chúng thay tôi, sớm tối cầu nguyện ngày sau gặp bà và các con chung hưởng
hạnh phúc vĩnh cửu nơi quê thật là nước Thiên Đàng".
Nhờ lời khích lệ của vợ con, ông
Lý như được tăng thêm sức mạnh, nên càng vững lòng tin hơn, sẵn sàng hy sinh
tính mạng vì đạo Chúa. Có lần một vài phu tuần làng Kẻ Vĩnh vì mộ mến ông,
khuyên ông qúa khóa để trở về coi sóc dân làng như trước, ông liền mắng họ:
"Ai bảo các anh đến thăm tôi và nói những lời sai trái như vậy, bây giờ
tôi về thì các anh sẽ khóc, nhưng khi đưa thi hài tôi về làng thì các anh sẽ ăn
mừng".
* Say vì đạo, hả vì tình.
Suốt một tháng trời, quan vừa
hành hạ vừa khuyên dụ ông Lý Mỹ bước qua Thánh Giá không thành công, dù phải những
trận đòn tan xương nát thịt, dù gông cùm, xiềng xích nặng nề đau buốt thịt
xương, vị chứng nhân Chúa Kitô vẫn một lòng kiên trung với đức tin. Quan làm án
tâu về kinh :
"Nguyễn Huy Mỹ, làm Lý trưởng
làng Kẻ Vĩnh, can tôi theo đạo Gia Tô triều đình nghiêm cấm, cùng với Nguyễn
Đích là nhạc phụ, chứa chấp đạo trưởng Mai Năm trong nhà. Đã khuyên dụ nhiều lần
chối đạo nhưng chúng không chịu quá khóa, nên luận phải xử trảm ba người đó để
làm gương cho dân chúng".
Ngày 12,08.1838, được tin vua
Minh Mạng đã châu phê y như án nghị, cả ba tông đồ Chúa vui mừng hớn hở chuẩn bị
tâm hồn lãnh bí tích giải tội và rước Mình Thánh Chúa cách sốt sáng. Các ông
hân hoan bước đến nơi xử, vừa đi vừa hát kinh tạ ơn Chúa. Dọc đường ông Cả Tú
(là anh em thúc bá với ông Lý Mỹ) khích lệ: Anh Lý ! Hãy vững tâm nhé".
Ông Lý Mỹ đáp lại: "Anh cả yên chí, đừng lo, tôi không sợ đâu".
Đến pháp trường Bảy Mẫu, ba vị chứng
nhân quỳ xuống cầu nguyện một lúc. Ông Lý Mỹ xin xử cha Giacôbê Mai Năm và ông
Antôn Nguyễn Đích trước, quan chấp thuận. Ông Lý Mỹ bị chém sau cùng.
Thi hài của ba vị tử đạo được rước
về làng Kẻ Vĩnh ngay trong đêm đó. dân chúng vui mừng đốt đèn đuốc đón rước
cách trọng thể, đúng như lời tiên báo của ông Lý Mỹ.
Ông Micae Lý Mỹ lãnh phúc tử đạo,
chiến thắng tất cả những thử thách cực hình nhờ tình yêu tuyệt đối vào Chúa
Giêsu Kitô và với tinh thần đạo đức say mê giáo lý Tin Mừng của Ngài. Tình yêu
và tinh thần được vun trồng ngay từ thời niên thiếu phát triển theo thời gian đến
tuổi trưởng thành, và cho đến giờ phút quyết liệt nhất của cuộc đời, bằng một
tình yêu tuyệt đỉnh, ông Lý Mỹ xứng đáng lãnh nhận phần thưởng trọng hậu Thiên
Chúa trao ban : Khải hoàn Thiên Quốc với cành lá tử đạo.
Ông Micae Lý Mỹ thực là con người
chí hiếu của người cha dưới thế cũng như Cha trên trời.
Đức Lêo XIII suy tôn lên hàng
Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy
tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét