Antôn Nguyễn Ðích, sinh năm 1769
tại Chi Long (xã Nguyên Lý – huyện Lý Nhân – tỉnh Hà Nam); Do hoàn cảnh cuộc sống,
ông cùng cha mẹ chuyển về thôn Vĩnh Trị (xã Yên Trị - huyện Ý Yên – tỉnh Nam Định);
Vĩnh Trị lúc đó là trung tâm Thủ Phủ của giáo phận Tây Đàng Ngoài. Thánh nhân
được phúc tử đạo 12/8/1838, tại pháp trường Bảy Mẫu – tỉnh Nam Định. Thánh
Antôn Ðích dùng gia sản nông nghiệp của ngài để giúp cho công việc truyền giáo
của Hội Thừa Sai Balê. Ngài bị bắt vì che dấu các linh mục, kể cả Cha Giacôbê Đỗ
Mai Năm, là người đang chạy trốn việc lùng bắt của nhà vua. Bị xử trảm (chém đầu).
Cùng với linh mục Giacôbê Đỗ Mai Năm và ông Lý Mỹ (con Rể ông thánh Đích), ông
trùm Antôn Nguyễn Đích, được Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Chân Phước ngày
27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển
thánh. Lễ kính vào ngày 12/08. Trước đây cha Phanxico coi sóc xứ Phú Đa đã lập
tượng Anton Nguyễn Đích trước sân nhà Thờ Phú Đa.
* Gia trưởng một gia đình tử đạo.
Thánh Antôn Nguyễn Đích, một mẫu gương sáng ngời cho những người gia trưởng,
đặc biệt trong việc giáo dục hướng dẫn đức tin cho con cái. Không kể thánh Lý Mỹ,
người con rể chí hiếu, đã cùng tử đạo một ngày, gia đình ông đã cống hiến hai
chứng nhân đức tin khác (hai vị này không có trong số 117) : ông Lý Thi, bị xử
giảo năm 1858 thời vua Tự Đức (con thứ hai ông Trùm Đích), và ông phó Nhâm, người
con thứ tư, cương quyết không bước qua Thập Giá, bị đầy lên Cao Bằng và qua đời
tại đó. Thánh nhân đã giáo dục con cái không chỉ bằng lời nói. Mà bằng chính mẫu
gương chứng tá đức tin sống động của mình.
* Lý lịch thân phụ tôi.
Muốn biết lý lịch của thánh Antôn Nguyễn Đích, không gì bằng nghe chính
lời con cái ngài là cô Maria Mến (Miều), góa phụ của thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ,
cung khai trước tòa điều tra phong Chân Phước : Bố tôi là Nguyễn Đích, quê ở
Chi Long, huyện Nam Sang, tỉnh Nam Định. Ong bà nội tôi vốn có lòng đạo đức, thấy
xa nhà thờ có linh mục thì lấy làm tiếc, nên dọn đến làng Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị), rồi
bố tôi lập gia đình ở đó.
"Hồi đó bố tôi tên là Khiêm, khi sinh con
đầu lòng đặt tên là Hiếu, người ta gọi bố tôi là Hiếu, đến khi sinh người con
thứ hai đặt tên là Đích, bố tôi lại mang tên là Đích và giữ tên đó mãi...
"Gia đình chúng tôi làm nghề nông rất cần cù, nhưng không vì thế mà sao
lãng việc đạo đức, trái lại vẫn siêng năng xưng tội, rước lễ. Bố tôi luôn quan
tâm đếnm đời sống đạo đức của mười người con và của những gia nhân giúp việc. Mỗi
ngày, ông chỉ định một hay hai người coi nhà, còn những người khác đi lễ. Tôi
thấy bố tôi làm tròn các nghĩa vụ trong đạo. Ngài rất chăm sóc việc giáo dục
con cái, mời thày đồ đến nhà dạy chữ Nho cho con trai, từ chối gả con gái cho
những thanh niên gia đình giàu có mà không giữ đạo sốt sắng…".
Bốn vị tử đạo đạo trong một gia đình, thật là kết quả hết sức lớn lao của
nền giáo dục đạo đức đó.
Đặc biệt quan tâm đến tương lai của
Giáo Hội, ông Trùm Đích rất yêu quý các giáo sĩ và chủng sinh, quảng đại tiếp
đón và giúp đỡ về vật chất. Thời gian chủng viện Kẻ Vĩnh bị nạn dịch tả, nhiều
chủng sinh ly trần, các bề trên quyết định phân tán các chú. Ông trùm Đích tình
nguyện nhận một số, vừa nuôi dưỡng, vừa săn sóc chữa bệnh cho đến khi hoàn toàn
bình phục, không xá kể lao nhọc tốn phí.
Đức bác ái của ông còn tỏ ra qua lòng thương người nghèo, và việc thường
xuyên thăm viếng an ủi những người mắc bệnh phong cùi. Chính thế giá và nhân đức
của ông mà người ta gọi ông là "Trùm", mặc dù ông không giữ nhiệm vụ ấy.
Gặp thời cấm đạo ngặt nghèo, ông cho trú ẩn tại nhà và nuôi dưỡng trong
hai năm một lớp chủng viện. Đức cha Havard Du, Giám mục giáo phận, cũng đã trú ẩn
tại nhà ông trong thời kỳ cấm đạo triều vua Minh Mạng.
* Vị gia trưởng đáng kính.
Quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dùng mọi phương thế, từ thuyết phục đến
tra tấn, để bắt ông trùm Đích bỏ đạo : "Ông đã cao niên, các con đã trưởng
thành, các cháu chắt đông đảo, có nhà cửa phong lưu, ông hãy quá khóa để vui hưởng
tuổi già với đàn con cháu có hơn không?". Ông Đích trả lời với giọng vững
vàng : "Thưa quan, con cháu chi cũng mặc, tôi đã lo liệu cho chúng. Tôi có
bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, quan tha hoặc kết tội thì tùy, chứ đừng ép tôi bỏ
đạo".
Quan truyền khiêng ông qua Thánh Giá nhưng ông co hai chân lên, tức giận
quan truyền đánh đòn ông. vì phải mang gông xiềng, bị tra tấn lại thấy mình già
nua yếu đuối, có lúc ông tưởng không chịu nổi gian truân thử thách đến cùng,
nhưng may mắn ông vẫn kiên trung tới ngày tử đạo, nhờ ơn Chúa giúp, nhờ sự
khuyên nhủ của cha Năm, nhờ lời khích lệ của các bạn tù, nhất là nhờ tấm lòng
hy sinh cao cả của con rể chí hiếu, Micae Lý Mỹ. Ông Lý mỹ sau khi lãnh phần
mình xong, ba lần chịu đòn thay cho nhạc phụ, ông trùm Đích được mang gông nhẹ
hơn.
Ít phải chịu cực hình thân thể, ông gia tăng công nghiệp bề trong bằng
việc bác ái và đạo đức. Thực phẩm, tiền bạc cho gia đình tiếp tế, ông chia sẻ
cho các bạn tù ngoại giáo. Ông chuyên chú đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ
sốt sắng ngay trong nhà giam.
Thấy không thể khuyên dụ ông trùm Đích bỏ đạo, quan làm sới tâu về kinh.
Đây là nội dung sớ tâu luận tội:
"Tên Đích tin theo và thực hành tà đạo, dù đã bị cấm. Đã không nộp
đạo trưởng Mai Năm cho quan, alị còn chứa chấp, không nghe lời khuyên cáo dạy bảo,
nhất là không chịu quá khóa, thật là người cố chấp, bất tuân luật nước. Chúng
thần đã nhiều lần truyền buộc y quá khóa trước công đường, nhưng y trả lời :
‘Tôi giữ đạo từ nhỏ, tôi sẵn sáng thà chết chẳng thà bỏ đạo’. Vậy xin luận xử
trảm quyết làm gương cho kẻ khác".
Bản án được vua Minh Mạng châu phê chấp thuận ngày 12.08.1838, ông trùm
Antôn Nguyễn Đích cùng với linh mục Giacôbê Đỗ Mai Năm và người con rể Micae
Nguyễn Huy Mỹ bị điệu ra pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định. Sau khi hành quyết linh
mục Mai Năm, lý hình chém đầu ông trùm Nguyễn Đích, rồi mới xữ tử ông Lý Mỹ.
Thi hài ông Antôn Nguyễn Đích, 69 tuổi thọ, được rước về làng Kẻ Vĩnh
ngay trong đêm đó. dân làng tổ chức lễ qui lăng rất trọng thể, rồi an táng trước
nhà ông, nơi ông đã để lại bao gương sáng của một chức sắc và một gia trưởng
đáng kính.
Cùng với linh mục Mai Năm và ông Lý Mỹ, ông trùm Antôn Nguyễn Đích, được
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét