Lời Chúa: Phải chăng vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra
ghen tức?
Khi
ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Nước Trời giống như chuyện
chủ nhà kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.
Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn
nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở
không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn
nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.” Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu,
rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một,
ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: “Sao các
anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?” Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi.”
Ông bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!” Chiều đến, ông chủ vườn nho
bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người
vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.” Vậy những người mới vào
làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt
những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng
chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy
người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với
chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng
nôi thiêu đốt.” Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu
có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm
lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này
cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những
gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” Thế là những
kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng
chót”.
SUY NIỆM & CẦU
NGUYỆN.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết
Thiên Chúa là Ðấng từ bi nhân hậu. Người thương yêu và đối xử với chúng ta theo
lòng quảng đại vô biên của Người. Trời cao hơn đất bao nhiêu thì lòng từ bi của
Chúa cũng cao hơn lòng nhân hậu của chúng ta bấy nhiêu.
Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động
của ông chủ không phải là do ông bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt
lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém, ông muốn ai cũng may mắn,
ai cũng có tiền về nuôi gia đình, 1 quan tiền ông phát cho người làm giờ thứ 11
không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng, gia chủ
là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ
khác nhau, thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời
và thực thi luật pháp Nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ
ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân
ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, và
ngày hôm nay là công dân Nước Trời.
Một quan tiền là vé vào Nước Trời. Kẻ
làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên
Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là
Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, đối xử rất
nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được mời gọi
vào Giáo Hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này, Thiên Chúa cũng
ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu.
Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo
quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo
lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa trả công không làm thiệt hại ai, và luôn công bằng.
Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào
tình thương của Chúa để ăn năn trở về với Chúa. Ước gì chúng ta cũng nhận ra
tình thương của Chúa vẫn dành cho chúng ta, dù rằng chúng ta không xứng đáng để
nhờ đó mà sống tâm tình tạ ơn Chúa, ước gì chúng ta cũng biết vui với người
vui, khóc với người khóc trong tinh thần tương thân tương ái thay cho tính ghen
tương, ích kỷ, nhỏ nhoen thường tình. Amen
Ngày 21/09 –Thánh Matthêu, Tông đồ Thánh sử
Thánh Matthêu là người Do Thái, làm việc cho quân đội La Mã
với nhiệm vụ thu thuế từ những người Do Thái. Dù người Do Thái không cho phép lấy
thuế quá nặng, nhưng mối quan tâm của họ là hầu bao riêng. Họ không để ý những
nông dân thu thuế đã lấy gì cho họ. Do đó dân thu thuế bị người Do Thái ghét
như những kẻ phản bội. Người Pharisêu (Biệt phái) bị gán vào phường tội lỗi.
Nên họ thấy “sốc” khi Chúa Giêsu gọi một người như thế làm môn đệ.
Chính nhân viên thu thuế Matthêu đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc
tại nhà mình. Phúc âm cho chúng ta thấy rằng nhiều người thu thuế cũng đến dự
tiệc. Người Pharisêu cũng cảm thấy “sốc”: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn
thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?”. Chúa Giêsu trả lời: “Người khoẻ mạnh không
cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này:
"Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người
công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:12-13). Chúa Giêsu không có ý
coi thường nghi lễ và việc thờ phượng mà Ngài muốn nhấn mạnh việc yêu thương
người khác là điều quan trọng hơn.
Ngày 21/09-1799-1838
Thánh Phanxicô Jaccard Phan (Ninh) Linh Mục Thừa Sai Paris Tử Đạo
* Một cuộc sống bi hùng.
Nếu so sánh những cuộc tử đạo như
những vở bi hùng kịch thì cuộc tử đạo của thánh Phanxucô Jaccard Phan là một
trong những bi hùng kịch hùng tráng nhất : Mười năm tù khi rộng khi ngặt, với
hai mươi tháng tù đày gian khổ và ba án tử hình. Giữa những khổ ải đó, nổi bật
lên chân dung một người hùng quả cảm. Ngài đã chiến thắng được đói khát và sốt
rét, đã trung thành tuyệt đối với chân lý của Tin Mừng là tha thứ và phục vụ kẻ
làm hại mình. Gan lì trước nghịch cảnh, từ chối mọi tiện nghi, như nhân xét của
Đức cha Cuénot Thể : "con người không còn gì để mất đó, đã luôn tiến về
phía trước để chinh phục tha nhân".
* Chí khí chàng nông dân
Chào đời ngày 06.09.1799 tại
Onion thuộc miền Savoie nước Pháp, trong một gia đình nông dân nghèo, nhưng đạo
đức, cậu Phanxicô Jaccard thủơ nhỏ ham chơi hơn là học. Còn gì lý thú bằng chạy
nhảy giữa cánh đồng xanh tươi bát ngát. Khi được cha mẹ gởi vào chủng viện
Mélan, cậu Jaccard luôn là học sinh "đội sổ" nên đâm ra chán nản và
trốn về gia đình. Nhưng sau, nhờ bạn bè và thân nhân khích lệ, đàng khác vì ước
muốn làm linh mục, cậu xin trở lại chủng viện, cậu hứa với mọi người sẽ cố gắng
tới cùng.
Quả thực Jaccard đã giữ lời hứa.
Với sự chuyên cần và nỗ lực, anh hoàn thành chương trình chủng viện Mélan, rồi
được lên đại chủng viện giáo phận Chambery năm 1819. Hai năm sau, thày Jaccard
xin gia nhập hội Thừa Sai Paris, và thụ phong linh mục ngày 15.03.1823. Liền
đó, cha Jaccard được đề cử vào chức vụ giám đốc đại chủng viện. Nhưng cha thẳng
thắn trình bày với các Bề Trên : "Con tình nguyện vào đây để truyền giáo
phương xa, chớ không phải ở thành phố Paris này".
Thế là ngày 10.07.1823, cha xuống
tàu tại cảng Bordeaux giã từ quê hương yêu dấu. Ngày 25.11.1824, tàu của cha cập
bến Macao, nhưng mãi tháng 2.1826, vị thừa sai mới đến được giáo phận Đàng
Trong. Sau một thời gian học tiếng Việt ở chủng viện An Ninh, cha lấy tên là
Phan, hoạt động tại Nhu Lý, Phủ Cam, rồi làm giám đốc chủng viện An Ninh (Quảng
Trị).
* Tinh thần phục vụ hết mình
Tháng 6.1827, vua Minh Mạng tập
trung về Huế ba vị thừa sai : Tabert Từ, Gagelin Kính và Odorico Phương, viện cớ
cần người thông ngôn và dịch sách. Ba tháng đầu, cha được đối xử tử tế, có thể
làm việc mục vụ cho giáo hữu Huế, nhưng các ngài như bị giam lỏng tãi Cung
Quán, lúc nào cũng có lính gác, đi dâu thì có ba lính đi kèm. Đến cuối năm nhờ
có Tả quân Lê Văn Duyệt can thiệp với vua, ba vị thừa sai được thả về. Còn
riêng cha Phan, tháng 7.1828, quân lính mang trát son, cáng điều đến triệu cha
về kinh đô. Ngài ở Cung Quán dịch các tài liệu tiếng Pháp ra tiếng Việt. thấy ở
Cung Quán như bị "bó tay buộc chân" không làm việc tông đồ được, cha
Phan liền xin vua đến ở họ Dương Sơn cách kinh thành 15 cây số, để vừa giúp các
tín hữu vừa dịch sách cho hoàng cung. Giai đọan này cha đã dịch các sách về
Napoléon, về việc chinh phục của Anh ở Ấn Độ, về lịch sử Âu, Mỹ, và dạy tiếng
Pháp cho nhiều người vua gởi tới. Vua muốn ban chức lộc triều đình, nhưng cha từ
chối không nhận.
Được tin vua Minh Mạng sắp mừng lễ
Tứ tuần, cha xin phép đứng ra tổ chức tám ngày liên tiếp, cầu nguyện cho Hoàng
Đế bằng những nghi thức long trọng. Ngoài các tín hữu, số lương dân đến tham dự
đông đảo như ngày hội. Nhiều người nhờ dịp này thêm quý mến đạo, trong đó có một
số quan đại thần và bà chị các Đức Vua.
* Người "lính" của vua Minh Mạng
Tháng 9.1831, làng Dương Sơn do
cha Phan phụ trách bị dân làng Cổ Lão gây chuyện và tố cáo về tội chiếm đất. Đến
sau vì không có bằng cớ, họ đổi qua tố cáo về tội theo đạo. Lập tức 73 người bị
giam tù, mỗi người lãnh 100 roi đòn, viên phó lý bị lưu đầy, Lý trưởng và cha
Phan bị án tử hình. Riêng với cha Phan, vua Minh Mạng tỏ vẻ nhân đạo hơn, đổi từ
án xung quân, bắt nhập ngũ trong quân đội hoàng gia, và được điệu về giam lỏng ở
Cung Quán để tiếp tục dịch sách vở, thơ từ …
Giai đoạn này cha Phan nhiều lần
tiếp xúc với vua Minh Mạng. Chính Vua nhờ cắt nghĩa các tranh ảnh Cựu ước và
Tân ước… Vị tông đồ của Chúa liền tranh thủ giải thích cho vua hiểu về giáo lý
trong đạo, về Thiên Chúa sáng tạo, linh hồn bất tử và thưởng phạt đời sau. Một
lần cha Phan đánh bạo gởi cho vua cuốn giáo lý dành cho người xin học đạo. Đối
lại nhà vua sai quan Thượng thư bộ lễ đến bắt cha phải đốt hết các sách tôn
giáo đó, nhưng cha cương quyết từ chối. Quan nói: "Tôi tha cho ông, nhưng
khi ra trước hội đồng các quan, ông phải nói đã gởi sách và đồ lễ về Tây rồi,
và hứa không giảng đạo nữa". Cha đáp: "Thưa quan, quan biết là đạo cấm
nói dối, còn việc ngừng giảng đạo, tôi không thể vâng được". Viên quan tiếp:
"Vậy ông sẽ bị án xử tử". Cha trả lời: "Tôi đã bị lên án một lần,
có lên án lần nữa cũng chẳng sao". Vua Minh Mạng biết chuyện nhưng lờ đi
vì thấy chưa đến lúc, chỉ ra lệnh cho người canh gác cha nghiêm ngặt hơn trước.
* Người tù lưu đày bất khuất
Tháng giêng năm 1833, sau sắc lệnh
cấm đạo toàn quốc, cha Phan có thêm người bạn đồng hàng, cha Odorico Phương
dòng Phanxicô mới bị bắt ở Cái Nhum. Mỗi đêm, hai cha âm thầm dâng lễ với nhau ở
Cung Quán, đồ lễ giấu ở sàn nhà. Từ đây hai vị sống bên nhau trong một năm rưỡi,
cùng chia sẻ ngọt bùi đắng cay, cùng đón nhận người bạn tù đặc biệt, cha
Gagelin Kính và hiệp thông với hy lễ tử đạo của ngài. Nhiều tuần lễ liền, mỗi
buổi sáng khi thức dậy, hai vị lại giúp nhau chuẩn bị dọn mình lãnh phúc tử đạo,
nhưng giờ Chúa chưa đến.
Thời gian này miền Nam có cuộc nổi
loạn của Lê Văn Khôi. Vua Minh Mạng nghe đồn các tín hữu tham gia rất đông, nên
lo sợ và thảo một lá thư dụ hàng, đưa cho thừa sai ký. Hai cha thức suốt một
đêm để viết một lá thư khác kêu gọi các anh em tín hữu. Theo lá thư, việc chống
lại triều đình có hại cho đạo, và Tin Mừng không bao giờ chấp nhận việc huynh đệ
tương tàn. Thế nhưng số tín hữu theo Lê Văn Khôi thực tế không đông, nên lá thư
này không mang lại hiệu quả bao nhiêu.
"Giận cá chém thớt",
vua Ming Mạng nổi cơn thịnh nộ, truyền xử tử hai vị giáo sĩ. May có sự can thiệp
của Hoàng Thái Hậu Thuận Thiên. Bà không muốc con làm điều thất nhân ác đức, và
nhắc con coi chừng nước Pháp trả thù. Thế là bản án được đổi thành lưu đày
chung thân tại Lao Bảo (ở biên giới Lào), nơi rừng sâu nước độc. Sau mười ngày
trèo non lội suối, ngày 12.12.1833, hai cha đến đất lưu đầy, phải sống trong trại
tù có rào chắn và chông nhọn xung quanh. Niềm an ủi lớn lao của hai cha là vẫn
được nhiều tín hữu viếng thăm tiếp tế lương thực.
Nhưng chưa được một tháng, Vua
thay viên cai ngục khó tính hơn, và nhắn lời dụ dỗ hai vị xuất giáo. Việc dụ dỗ
thất bại, viên cai ngục liền chuyển hai cha sang trại cấm cố, cho giam riêng
trong một túp lều trật hẹp, bớt phần cơm và cấm tiếp tế. Thêm vào đó, ông còn
cho tịch thu toàn bộ sách kinh, giấy viết. Cha Odorico Phương hay nói đùa :
"Chúa thấy tôi làm thừa sai vụng về nên cho đổi qua nghề làm bếp. Tôi là đầu
bếp, cha Jaccard rửa chén. Nhưng vấn đề là không có gì bỏ vào nồi để nấu
thôi".
Ngoài nắm cơm mỗi ngày mỗi nhỏ bớt,
hai cha phải đi hái hoa cỏ dại, chuối xanh về luộc với một ít muối để đủ sống
qua ngày. Đời sống kham khổ, đói khát và cơn bệnh sốt rét ác tính đã cướp đi
sinh mạng của người bạn của cha Phan. Cha Odorico Phương đã từ trần ngày
25.5.1834 sau một tuần liệt giường. Còn lại một mình cha Phan đã sống sót cách
tài tình cho tròn hai mươi tháng lưu đầy. Cũng sốt rét, cũng kiết lỵ, nhưng
ngài đã khuất phục được chúng. Không những thế, cha tiếp tục làm việc tông đồ
trong trại, học tiếng lào để nếu có cơ hội sẽ qua đó truyền giáo. Cha cũng soạn
được một cuốn ngữ vựng tiếng Chàm, nhờ sự hỗ trợ của các bạn tù người Chàm.
* Vắt chanh bỏ vỏ
Đến tháng 9 năm 1835, vì cần người,
vua Minh Mạng đưa cha về giam ở Cam Lộ (Quảng trị) để làm giáo sư. Vua gửi đến
sáu thanh niên học tiếng Pháp nhưng cấm không được nói chuyện về đạo. Vua nhờ
cha hướng dẫn về địa lý và lịch sử Au Mỹ, giải thích các phong tục, tập quán và
luật lệ của họ. Đặc biệt cha giúp Vua tìm hiểu về Châu Au, nhất là luật pháp nước
Nhật. Dầu bận rộn vất vả, nhưng cha rất tận tụy với Vua, vì như cha nói:
"Tôi muốn chứng tỏ phải dùng điều thiện để thắng điều ác".
Ba năm trời ở Cam Lộ, niềm vui lớn
nhất của cha Phan là được dâng lễ trong ngục. Một tấm ván bắc qua hai chiếc ghế
làm bàn thờ, cha dâng lễ vào giữa đêm khuya, rồi thu xếp dọn dẹp ngay sau đó.
Vì được quan quân kính nể, cha có thể chốn thoát dễ dàng. Chính Đức cha Thể
cũng gợi ý điều đó, nhưng cha không thực hiện, vì cha biết quan quân sẽ truy
lùng gắt gao. Việc truy lùng đó sẽ làm hại các tín hữu và lỡ ra nhiều người sẽ
bị bắt vì mình.
Đầu năm 1838, một biến cố lớn làm
thay đổi hoàn cảnh cha Phan. Số là khi triệt hạ chủng viện An Ninh gần Di Loan,
cha gíam đốc Candalk Kim chạy thoát nên vùng núi, vua liền trút cơn thịnh nộ
lên cha Phan "Kẻ thông đồng với tội nhân qua thư từ". Ngày 07.3 cha bị
bắt trói, hỏi cung rồi bị mang gông xiềng áp giải về Quảng Trị.
* Đường lên núi sọ
Tại Quảng Trị, quan cho căng nọc
vị thừa sai và cho đánh từ 9 giờ đến trưa, nát nhiều chiếc roi, để bắt cha phải
bỏ đạo. Cha trả lời : "Đạo của tôi không do Đức Vua, nên tôi không buộc phải
bỏ đạo theo ý Vua được". Lần khác, cha bị tra tấn bằng kìm nung đỏ kẹp vào
đùi, thịt cháy khét, đau đớn vô cùng, nhưng cha vẫn cương quyết không chối đạo.
Từ 18.7.1838, cha được giam chung
với chủng sinh Tôma Thiện. Hai cha con tạ ơn Chúa, và cùng nhau nguyện cầu xin
Ngài trợ giúp. Bản án từ Quảng Trị gởi vào kinh đô xin xử trảm, nhưng vua Minh
Mạng đổi thành xử giảo và ký ngày 17.9. Sáng ngày 21.9.1838, quan quân dẫn hai
cha con ra khỏi trại giam, đến một ngọn đồi ở làng Nhan Biều (Quảng Trị). Tới
nơi xử, hai cha con từ chối bữa ăn ân huệ, và quỳ đối diện quay vào nhau cùng cầu
nguyện.
Theo ý cha Phan, muốn thấy tận mắt
sự trung thành của người môn sinh trẻ tuổi, nên quân lính hành xử chủng sinh
Tôma Thiện trước. Sau đó, vòng dây qua cổ vị giáo sĩ rồi kéo mạnh hai đầu, đưa
linh hồn ngài về Thiên Quốc.
Bà mẹ của cha Phan khi hay biết,
đã reo lên "Thật là tin vui, gia đình ta có một vị tử đạo". Bà nói :
"Xin chúc tụng Chúa. tôi vẫn sợ sẽ buồn khổ biết bao, nếu con tôi bị khuất
phục trước gian khổ, trước cực hình’.
Thi hài vị tử đạo được chôn cất
ngay tại pháp trường, đến năm 1847 được cải táng về chủng viện Thừa Sai Paris.
Đức Lêo XIII suy tôn linh mục Phanxicô Jaccard Phan lên hàng Chân Phước ngày
27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển
thánh.
Ngày 21/09-1820-1838
Thánh Tôma Trần Văn Thiện Chủng Sinh Tử Đạo
* Tuổi trẻ hào hùng
Trong một phiên tòa năm 1836,
viên quan án xúc động trước người tù trẻ tuổi với dáng dấp thư sinh nho nhã,
khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, hứa hẹn một tương lai sán lạn, ông nói với anh thật
dịu dàng : "Nếu con bỏ đạo, ta sẽ gả con gái cho, và sẽ lo liệu cho con
làm quan".
Chàng thanh niên trẻ tuổi ấy, anh
Tôma Trần Văn Thiện đã thẳng thắn trả lời : "Tôi chỉ mong chức quyền trên
trời, chứ không màng chi danh vọng trần thế".
Tuy mới 18 xuân xanh, lứa tuổi
yêu đời ham sống, chưa nếm mùi khổ đau cuộc đời, cũng chưa được học tập thâm
sâu về giáo lý, anh Tôma Thiện mới vừa tới ngưỡng cửa chủng viện, đã ứng phó
khéo léo trước bạo lực, đâu thua kém gì bất cứ chiến sĩ đức tin nào khác trên
hoàn cầu. Quả thực, anh đã anh đã thấu hiểu lời Đức Kitô : "Được lời lãi cả
thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì" (Mt.16,26).
* Con muốn "ở chú" với cha không ?
"Chú Thiện" như người
đương thời quen gọi các chủng sinh, sinh năm 1820 trong một gia đình đạo hạnh
làng Trung Quán, tỉnh Quảng Bình.
Nữ tu Madalena Yến, một nhân chứng
sống cùng thời thuật lại rằng : "Chú Thiện có một người dì, gọi là dì Nghị,
làm bà nhất nhà phước Trung Quán. Chú thường lui tới thăm dì và tỏ ra rất ngoan
ngoãn, nhu mì, lễ phép. Khi linh mục đến dâng lễ ở họ nhà, chú quỳ dự lễ cách
nghiêm trang. Lên tám, chín tuổi, chú bắt đầu học chữ Nho, tỏ ra thông minh bền
chí và tiến bộ rất nhanh.
"Có lần chú theo dì Nghị đi
lễ ở họ Mỹ Lương, sau lễ vào chào các linh mục. Các cha thấy cậu bé khôi ngô,
hiền lành đều hỏi : Con có muốn ở chú (đi tu) với cha không ? Cậu Tôma Thiện
không thưa gì. Nhưng, chỉ ít lâu sau, người ta thấy chú thường xuyên ở nhà cha
Chính, họ Kẻ Sen. Vị linh mục này đã dạy tiếng Latinh cho chú nhiều năm…"
* Hãy nhìn xem máu tôi chảy ra kìa
Nhờ tính tình tốt lành và trí
thông minh, năm 18 tuổi (1838), chú Thiện được cha giám đốc Candalh Kim gọi về
chủng viện Di Loan, Quảng Trị. Nhận được tin, chú Thiện cùng với người chị tên
Sao hăng hái lên đường. Dọc đường hai chị em gặp nữ tu Yến từ Di Loan về cho biết
cha bề trên Candalh Kim đã phải trốn và quân lính đang lùng bắt, rồi khuyên hai
chị em đừng đi nữa, nhưng chú Thiện tỏ ra cương quyết : "Dầu không gặp cha
Bề Trên, con cũng phải đến tận nơi để biết rõ sự thể. Cha đã gọi, không lẽ chưa
đến nơi đã bỏ về".
Tới chủng viện, hai chị em trình
diện với cha Tự. Ngài nói : "Chúng tôi lo trốn chưa xong mà chị còn dẫn em
đến, chỉ làm khó khăn thêm cho chúng tôi thôi". Chị Sao đáp: "Thưa
cha, em con nhờ con dẫn đi, vì có giấy cha Bề trên gọi. Chúng con không biết cuộc
bắt đạo lại xảy ra bất ngờ như thế".
Hai ngày sau, quân lính bao vây
làng Di Loan, lục soát từng nhà. Không tìm thấy cha Kim, nên truyền tra hỏi cặn
kẽ để biết cha Bề trên trốn ở đâu. Quan khuyên chú chối đạo, nếu không sẽ bị chết.
Chú Thiện thành thật trả lời: "Tôi quê ở Trung Quán, Quảng Bình, đến tìm
thày học đạo. Đạo dạy tôi tờ Thiên Chúa là đạo thật, tôi sẵn sàng chịu chết chứ
không bỏ đạo".
Quan tỏ ra khoan nhượng khuyên dụ
chú Thiện nhiều lần : nào là tuổi còn nhỏ, tương lai còn nhiều triển vọng, nào
là sẽ thăng quan tiến chức nếu bỏ đạo. Hơn thế nũa, quan còn muốn nhận chú làm
con rể mình, và sẽ đứng ra lo liệu cưới xin. Nhưng chú Thiện đã từ chối:
"Tôi chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng đến quyền chức trần thế.
Lời khẳng khái ấy không phải ai
cũng thốt ra được. Trong số những người bị bắt, nhiều người tỏ vẻ luyến tiếc
cho chú đã bỏ lỡ một "cơ hội ngàn vàng". Chàng trai có dáng vóc thư
sinh nhưng chí khí thật kiên cường, khiến quan phải ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên đến
tức giận, vì dám xúc phạm đến sự "bao dung" và lòng "ưu ái"
của mình, thế là ông truyền đánh đòn chàng. 40 roi đòn quất trên thân thể gầy yếu,
máu chảy thấm qua y phục, nhưng vị chứng nhân không lay chuyển, vẫn gan dạ mỉm
cười nói : "Hãy nhìn xem máu tôi chảy ra kìa".
Thấy chú cam đảm hơn người, quan
truyền đóng gông xiềng giam chú Thiện vào ngục.
Trong ngục thất, Tôma Thiện không
có bà con thân thích nào đến chăm nom tiếp tế. Các giáo hữu Di Loan cũng bị bắt,
lúc đầu con chia sẻ cho chú đôi chút lương thực, nhưng sau họ không cho gì nữa.
Họ đã nghe quan dụ dỗ để mong trở về với gia đình. Tuy thế quan vẫn chưa thả họ
ngay. Vì muốn chú Thiện cũng phải khuất phục, quan dùng những kẻ nhẹ này gây áp
lực, nhưng Tôma Thiện trước sau vẫn một mực trung thành với đức tin.
Chú Thiện tiếp tục bị thẩm vấn và
bị đánh đòn hai lần nữa, nhưng chú vẫn vui vẻ lãnh nhận. Mỗi lần roi quất xuống,
chú lại cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin thêm sức cho con chịu đau khổ vì
Chúa". Ngoài ra chú còn bị phơi nắng và bị kìm kẹp, nhưng vị anh hùng trẻ
tuổi vẫn không sờn lòng, chứng tỏ một nghị lực phi thường và một đức tin hiếm
có.
* Đồng khổ, đồng vinh
Sau khi bất lực trước ý trí sắt
đá của Tôma Thiện, quan truyền giam chú chung với cha Jaccard Phan. Hai cha con
gặp nhau vui mừng hết sức. Chú Thiện được cha an ủi, khích lệ và ban bí tích
hòa giải. Riêng cha Phan thì sung sướng hãnh diện có một người con tinh thần
dũng cảm trong đức tin. Hai cha con cùng nhau cầu nguyện, nâng đỡ trợ gíup lẫn
nhau và quyết chí trung thành với đạo đến cùng.
Trước tinh thần bất khuất của hai
chứng nhân Chúa Kitô, quan quyết định lên án xử trảm cả hai. Bản án chú Thiện
như sau : "Tên Thiện bị mê hoặc theo Gia Tô, dầu bị tra tấn cũng không bỏ
đạo, nên nó phải chết giống như đạo trưởng của nó".
Bản án gởi về kinh đô. Gần một
tháng sau vua Minh Mạng mới châu phê và đổi thành án xử giảo. Có lúc nóng lòng
trờ đợi, chú Thiện thưa với cha Phan : "Thưa cha, người ta cứ để cha con
ta sống lâu mãi, sao không sớm cho cha con ta được tử đạo, để được kết hiệp
cùng Chúa muôn đời". Chú cũng viết thư về gia đình vĩnh biệt cha mẹ, họ
hàng, và khuyên mọi người trung thành giữ vững đức tin.
Sáng ngày 21.09.1838, hai cha con
chứng nhân Chúa Kitô cùng được dẫn ra pháp trường ở làng Nhan Biều gần Quảng trị.
Khi đi qua một quán ăn, viên đội chỉ huy cho hai vị dừng chân, ăn uống theo
thói quen dành cho tử tội. Cha Phan không dùng gì cả, chú Thiện thưa với cha:
"Con cũng không ăn, để về dự tiệc Thiên Đường vĩnh phúc, phải không
cha?" Tới nơi xử, chú Tôma Thiện quỳ xuống trước mặt cha, lính tháo gông,
tròng dây vào cổ. Lệnh xử ban hành, họ kéo hai dầu dây thật mạnh, dầu vị tử đạo
18 xuân xanh gục xuống. Sau đó, đến lượt cha Phan cũng bị xử như vậy.
Khác với các tử đạo trước, cuộc
hành quyết này không có giáo hữu đi theo để xin an táng. Những người ngoại đã
chôn cất hai vị ngay ở pháp trường. Năm 1847 thi hài vị tử đạo được cải táng về
tôn vinh tại chủng viện Hội Thừa Sai Paris.
Ngày 27.05.1900 Đức Lêo XIII đã
suy tôn chủng sinh Tôma Trần Văn Thiện lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức
Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.