Thứ Tư, 29 tháng 3, 2017

Thứ Sáu Tuần IV Mùa Chay Ga 7,1-2.10.25-30.

Lời Chúa: Họ tìm cách bắt Đức Giêsu, nhưng giờ của Người chưa đến.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.
Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ,
cứu những tâm thần thất vọng ê chề.
Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân,

nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi.

Ngày 31/03 – Thánh Stêphanô Mar Saba, Tu sĩ (qua đời năm 794)
Cách nói “xin đừng làm phiền” (do not disturb) đã giúp ngài tìm thấy sự thánh thiện và bình an.
Stêphanô ở Mar Saba, là cháu trai của thánh Gioan Damascene, người thân đưa ngài đi tu dòng từ lúc 10 tuổi. Lúc 24 tuổi, Stêphanô phục vụ cộng đoàn bằng nhiều cách, kể cả quản lý nhà khách (guest master). Sau một thời gian, ngài xin phép sống ẩn dật. Bề trên quyết định: Stêphanô có thể sống như ý muốn suốt tuần, nhưng cuối tuần ngài phải dùng khả năng mình làm tư vấn. Stêphanô ghi chú trên cửa phòng: “Xin các cha tha cho con, nhân danh Chúa, xin đừng làm phiền con trừ các ngày thứ Bảy và Chúa nhật”.
Dù có ơn gọi cầu nguyện và thinh lặng, Stêphanô vẫn tỏ ra kỹ năng kỳ lạ với mọi người và là người hướng dẫn tâm linh. Nhà viết tiểu sử và đệ tử của ngài viết: “Ngài giúp đỡ bất kỳ vấn đề gì về tâm linh và vật chất, được yêu cầu là ngài cho ngay. Ngài được kính trọng về lòng tử tế. Ngài không sở hữu gì và cũng chẳng thiếu gì. Hoàn toàn nghèo khó nhưng ngài sở hữu mọi thứ”. Ngài qua đời năm 794.

Thứ Năm Tuần IV Mùa Chay Ga 5,31-47.

Lời Chúa: Kẻ tố cáo các ông chính là ông Mô-sê, người mà các ông tin cậy.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời.
Họ quên Thiên Chúa là Vị Cứu Tinh
từng làm việc lớn lao bên miền Ai-cập,
việc diệu kỳ trong cõi đất Kham,

việc khiếp kinh giữa lòng biển đỏ.

Ngày 30/03 – Thánh Phêrô Rêgalađô, Linh mục (1390-1456)
Phêrô sống trong thời buổi rất hỗn độn. Cuộc ly giáo Tây phương (Great Western Schism, 1378-1417) được ổn định nhờ Công đồng Constance (1414-1418). Pháp và Anh chiến tranh hàng trăm năm. Năm 1453, hoàng đế Byzantine bị sụp đổ vì Constantinople mất vào tay người Thổ nhĩ kỳ. Lúc ngài qua đời, cộng nghệ ấn loát vừa bắt đầu ở Đức, và còn 40 năm nữa Kha Luân Bố (Columbus) mới tìm ra Tân Thế Giới.
Ngài sinh trong một gia đình giàu có và đạo hạnh ở Valladolid, Tây ban nha. Lúc 13 tuổi, ngài được vào Dòng Phanxicô (Conventual Franciscans). Ngay sau khi thụ phong linh mục, ngài được bầu làm bề trên dòng ở Aguilar. Ngài thuộc nhóm tu sĩ muốn sống nghèo khó và sám hối. Năm 1442, ngài được bổ nhiệm làm trưởng nhóm cải cách dòng Phanxicô ở Tây ban nha.
Ngài sống làm gương cho các tu sĩ. Ngài đặc biệt thương người nghèo và người bệnh. Những câu chuyện kỳ lạ về ngài được kể về lòng bác ái của ngài dành cho người nghèo. Chẳng hạn, bánh mì không bao giờ hết khi ngài cần giúp những người đói khổ. Hầu như cả đời ngài sống đói, ngài chỉ sống nhờ bánh và nước.
Ngài qua đời ngày 31/3/1456. Ngay sau đó, mộ ngài trở nên địa điểm hành hương. Ngài được phong thánh năm 1746.

Thứ Hai, 27 tháng 3, 2017

Thứ Tư Tuần IV Mùa Chay Ga 5,17-30.

Lời Chúa: Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì Người Con cũng ban sự sống cho ai tùy ý.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Chúa nói, Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống; ai tin vào Thầy, sẽ không bao giờ chết.
Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa,
đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.
Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa,
mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.

Ngày 29/03 – Chân phước Luđôvicô Casoria, Linh mục (1814-1885)
Ngài sinh tại Casoria (gần Naples), Arcangelo Palmentieri là thợ làm đồ gỗ mỹ thuật (cabinet-maker) trước khi vào dòng Phanxicô năm 1832 và có tên dòng là Luđôvicô. Ngài thụ phong linh mục 5 năm sau, ngài dạy hóa học, vật lý và toán cho các tu sĩ trẻ trong tỉnh dòng vài năm.
Năm 1847, ngài có trải nghiệm thần bí mà sau đó ngài mô tả là “tẩy sạch”. Sau đó ngài dành cuộc đời mình cho người nghèo và người yếu đuối, mở phòng thuốc (dispensary) cho người nghèo, mở 2 trường học cho trẻ em Phi châu, mở một trường cho trẻ em quý tộc, mở viện mồ côi, mở trường cho người câm điếc, mở trường cho người mù, mở nhà người lớn tuổi và lữ khách. Ngoài một bệnh viện cho các tu sĩ trong tỉnh dòng, ngài còn mở các viện từ thiện ở Naples, Florence và Assisi. Có lần ngài nói: “Tình yêu Chúa Kitô đã chạm đến trái tim tôi” (Christ’s love has wounded my heart). Tình yêu đó đã thúc đẩy ngài làm những việc bác ái lớn lao.
Để tiếp tục công việc bác ái, ngài thành lập Dòng Huynh Đệ Xám (Gray Brothers) năm 1859, đó là cộng đoàn tu gồm những người trước đây thuộc Dòng Phanxicô Đời (Secular Franciscan Order). Sau 3 năm, ngài thành lập Dòng Tỷ Muội Xám Thánh Êlizabet (Gray Sisters of St. Elizabeth) với cùng mục đích như vậy.

Trong 9 năm bệnh cuối đời, ngài viết di chúc tâm linh mô tả đức tin là “ánh sáng trong bóng tối, giúp đỡ người bệnh hoạn, chúc lành cho người khổ tâm lao tứ, thiên đàng khi bị đóng đinh và sự sống giữa sự chết”. Việc mở án phong chân phước cho ngài bắt đầu sau khi ngài qua đời được 5 tháng. Ngài được ĐGH Gioan-Phaolô II phong chân phước năm 1993.

Chủ Nhật, 26 tháng 3, 2017

Thứ Ba Tuần IV Mùa Chay Ga 5,1-3a.5-16.

Lời Chúa: Người ấy liền được khỏi bệnh.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ.
Chính chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp là thành bảo vệ ta.
Đến mà xem công trình cũa Chúa,

Đấng gieo kinh hãi trên mặt địa cầu.

Ngày 28/03 – Thánh Hêsykiô Giêrusalem, Linh mục (khoảng 450)
Tên ngài không chỉ khó đọc mà còn khó đánh vần, đồng thời khó biết về một con người khiêm nhường và hiền như ngài. Ngài sống giữa thế kỳ IV và V, được biết nhiều trong giáo hội Chính thống Nga.
Không rõ ngày sinh của thánh Hêsykiô (Hesychius, tiếng Anh đọc là He-sơs), nhưng chúng ta biết ngài là tu sĩ linh mục viết lịch sử giáo hội, nhưng đã bị thất lạc. Ngài cũng viết về nhiều các vấn đề nóng trong thời ngài sống. Trong số đó có tà thuyết Nestorianism – cho rằng có hai con người riêng biệt trong Chúa Giêsu, một con người và một Thiên Chúa, và tà thuyết Arianism – từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Một số bài phê bình của ngài về Kinh thánh, cùng với những suy tư về các tiên tri và những bài giảng của ngài về Đức Mẹ vẫn còn lưu truyền.
Người ta tin rằng các bài giảng của ngài về lễ Phục sinh tại đại giáo đường ở Giêrusalem là nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh. Lời ngài giảng về Thánh Thể, được viết nhiều thế kỷ trước, nói với chúng ta ngày nay: “Hãy giữ mình sạch tội để mỗi ngày có thể thông phần bữa ăn mầu nhiệm (mystic meal); nhờ làm vậy mà thân thể chúng ta là nhiệm thể Chúa Chúa Kitô”. Ngài qua đời khoảng năm 450.

Thứ Bảy, 25 tháng 3, 2017

Thứ Hai Tuần IV Mùa Chay Ga 4,43-54.

Lời Chúa: Ông cứ về đi con ông sống.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Hãy tìm điều lành chứ đừng tìm điều dữ, rối anh em sẽ được sống; và Chúa sẽ ở cùng anh em.
Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con,
lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ.
Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu.
Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ,

xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu.

Ngày 27/03 – Chân phước Phanxicô Fà Brunô, Linh mục (1825-1888)
Phanxicô sinh trưởng trong một gia đình quý tộc tại Bắc Ý, là con út trong 12 người con. Ngài sống trong thời gian rất hỗn loạn của lịch sử, khi những tình cảm chống Công giáo và chống giáo hoàng rất dữ dội. Sau khi được đào tạo làm sĩ quan quân đội, Phanxicô được Vua Victor Emmanuel II chú ý. Nhà vua ấn tượng với cá tính và sức học của chàng thanh niên này. Được nhà vua mời dạy kèm cho 2 hoàng tử, Phanxicô đồng ý và chuẩn bị học thêm. Như với vai trò của giáo hội trong việc gia đình là điểm khó đối với nhiều người, nhà vua phải rút lời đề nghị với Phanxicô và tìm gia sư khác thích hợp hơn với tình trạng thế tục.
Phanxicô sớm từ giã đời quân ngũ và theo học tiến sĩ ở Paris về toán học và thiên văn học; ngài cũng tỏ ra quan tâm nhiều về tôn giáo và lối sống khổ hạnh. Dù đã dành tâm huyết theo học chuyên ngành, Phanxicô vẫn dành nhiều tâm huyết cho các hoạt động bác ái. Ngài lập Hội thánh Zita cho các cô gái và gia nhân nữ, sau mở rộng cho cả các bà mẹ đơn thân. Ngài giúp mở nhà tế bần và viện dưỡng lão. Ngài còn giám sát việc xây dựng một nhà thờ ở Turin để tưởng nhớ các chiến sĩ trận vong Ý trong cuộc chiến thống nhất nước Ý.
Ước muốn dành tâm huyết cho người nghèo, Phanxicô học làm linh mục. Lúc đầu ngài được ĐGH Piô IX ủng hộ nhưng bị tổng giám mục giáo phận phản đối vì ngài đi tu trễ. Nhưng cuối cùng ngài vẫn được thụ phong linh mục lúc 51 tuổi.
Là linh mục, ngài tiếp tục làm việc tốt, chia sẻ của cải và sức lực. Ngài còn mở một nhà tập thể cho các chị em làm gái làng chơi (prostitutes). Ngài qua đời tại Turin ngày 27/3/1888, và 100 năm sau ngài được ĐGH Gioan-Phaolô II phong chân phước.

Chúa Nhật IV Mùa Chay Năm A

Lời Chúa: Anh mù đến rửa ở hồ Si-lô-ác và khi về thì nhìn thấy được.
     Khi ấy, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải làm những việc của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.”
      Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái).” Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.
     Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: “Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?” Có người nói: “Chính hắn đó!” Kẻ khác lại rằng: “Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!” Còn anh ta thì quả quyết: “Chính tôi đây!” Người ta liền hỏi anh: “Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?” Anh ta trả lời: “Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: ‘Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa.’ Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được.” Họ lại hỏi anh: “Ông ấy ở đâu?” Anh ta đáp: “Tôi không biết.”
     Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu. Nhưng ngày Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát. Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.” Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát”; kẻ thì bảo: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. Họ lại hỏi người mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp: “Người là một vị ngôn sứ!”
       Người Dothái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi: “Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?” Cha mẹ anh đáp: “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được.” Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. Vì thế, cha mẹ anh mới nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”
      Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” Anh ta đáp: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!” Họ mới nói với anh: “Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?” Anh trả lời: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?” Họ liền mắng nhiếc anh: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông ấy bởi đâu mà đến.” Anh đáp: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” Họ đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” Rồi họ trục xuất anh.
       Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh, và khi gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Đức Giê-su trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người. Đức Giê-su nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!”

     Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” Đức Giê-su bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!”

SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
      Bài Tin Mừng  hôm nay theo lời tường thuật của thánh Gioan cho chúng ta nhận thấy rằng,  anh mù là một người can đảm và đầy thiện chí. Mặc dù ít học, nhưng lời lẽ của anh thật là khôn ngoan. Tâm hồn anh luôn rộng mở để đón nhận chân lý và luôn cố gắng thực hiện những điều tốt lành, cho dù có gặp phải những phức tạp, khó khăn và phiền toái, nhưng anh rất vui vẻ và có một chút châm biến đối với những kẻ rình rập bắt lỗi mình.
      Đó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta, khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu, chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình, nhưng lại thích soi mói với những anh em chung quanh.
     Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể là ánh sáng cho trần gian, xin chiếu dọi ánh sáng của Chúa vào tâm trí chúng con, cứu chúng con khỏi bị mù quáng do dục vọng gây nên, để chúng con khỏi hư mất đời đời nhưng được cứu độ và được sống trong thế giới hồng phúc mai sau.  Amen

Ngày 26/03 – Chân phước Điđacô Cadiz, Linh mục (qua đời năm 1801)
Ngài sinh tại Cadiz, Tây ban nha, tên thánh rửa tội là Giuse Phanxicô. Ngài dành nhiều thời gian rảnh gaio tiếp với các tu sĩ dòng Phanxicô. Nhưng ước muốn nhập dòng Phanxicô của ngài bị trì hoãn vì gặp khó khăn trong việc học. Nhưng rồi ngài cũng được nhận vào nhà tập dòng Phanxicô ở Seville với tên Điđacô (Didacus). Rồi ngài thụ phong linh mục và được sai đi giảng đạo.
Ngài có tài giảng. Ngài đi khắp Andalusia (thuộc Tây ban nha), giảng trong các thành phố. Lời ngài giảng làm lay động cả người già và người trẻ, người giàu và người nghèo, kể cả các giáo sư và sinh viên dù ngài không được học nhiều.
Người ta gọi ngài là “Tông đồ của Chúa Ba Ngôi” vì ngài sùng kính Tam Vị Nhất Thể (Chúa Ba Ngôi) và thoải mái trong khi giảng về mầu nhiệm siêu nhiên này. Một hôm, một đứa bé la lớn: “Mẹ ơi, nhìn chim bồ câu đậu trên vai cha Điđacô kìa! Con cũng có thể giảng như vậy nếu chim bồ câu cho con biết những điều phải nói”.
Điđacô sống kết hiệp với Thiên Chúa, ban đêm ngài cầu nguyện và chuẩn bị bài giảng bằng việc sám hối. Ngài trả lời với những người phê bình ngài: “Tội lỗi của tôi và của mọi người buộc tôi phải làm vậy. Những người bị kết án làm cho người tội lỗi trở lại phải nhớ rằng Thiên Chúa đã đặt trên vai họ gánh nặng tội lỗi của người khác”.
Người ta nói đôi khi ngài giảng về tình yêu Chúa mà ngài được nâng lên cao khỏi bục giảng. Dân chúng trong làng mạc và thành phố thấm nhập lời ngài giảng và cố gắng bỏ thói cũ khi ngài đi qua. Ngài qua đời năm 1801, thọ 58 tuổi, được coi là người đáng kính và thánh thiện. Ngài được phong chân phước năm 1894.

Thứ Sáu, 24 tháng 3, 2017

Thứ Bảy Lễ Truyền Tin lễ trọng Lc 1,26-38.

Lời Chúa: Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Ngôi Lời đã trở nên Người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người.
Đức công chính của Ngài,
con loan truyền giữa lòng đại hội;
lạy Chúa, Ngài từng biết:

con đâu có ngậm miệng làm thinh.

Ngày 25/03 – Lễ Truyền tin
Lễ Truyền tin có từ thế kỷ IV hoặc V. Trung tâm điểm của lễ này là mầu nhiệm Nhập thể: Thiên Chúa làm người. Từ đời đ,ờThiên Chúa đã chọn Ngôi Hai xuống thế làm người. Theo Lc 1:26-38, giao ước này đã hiện thực. Con Người ôm cả nhân loại, không phân biệt ai, để đem về cho Thiên Chúa qua hành động yêu thương tuyệt đối. Vì nhân loại khước từ Thiên Chúa, Chúa Giêsu chấp nhận đau khổ và chịu chết: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13).
Mẹ Maria giữ vai trò quan trọng trong kế hoạch của Thiên Chúa. Từ đời đời, Thiên Chúa đã tiền định Đức Maria làm Mẹ của Chúa Giêsu và liên quan mật thiết với Ngài trong việc sáng tạo và cứu độ thế giới. Chúng ta có thể nói rằng công cuộc sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa được liên kết trong mầu nhiệm Nhập thể. Vì Mẹ Maria là khí cụ của Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nhập thể, Đức Mẹ giữ vai trò đồng công sáng tạo và cứu độ. Đó là vai trò được Thiên Chúa trao ban, là hồng ân Thiên Chúa từ khởi sự cho đến hoàn thành. Mẹ Maria trở thành nhân vật nổi trội chỉ có thể nhờ hồng ân Thiên Chúa. Mẹ là nơi mà Thiên Chúa khả dĩ hành động. Mẹ là mọi sự thuộc về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mẹ là trinh nữ hoàn thành lời tiên tri Isaia 7:14 theo cách mà Isaia không thể tưởng tượng ra. Mẹ kết hợp với Chúa Con trong việc thi hành Tôn Ý Thiên Chúa (x. Tv 40:8-9; Dt 10:7-9; Lc 1:38).
Cùng với Chúa Giêsu, Mẹ đầy ân sủng và đạc quyền là sự nối kết giữa Trời với Đất. Sau Chúa Giêsu, Mẹ là con người tốt nhất, làm ví dụ về tính khả dĩ của sự hiện hữu nhân loại. Mẹ đón nhận sự thánh thiện và tình yêu vô hạn của Thiên Chúa. Mẹ cho thấy cách nhân loại có thể phản ánh Thiên Chúa trong những trường hợp bình thường của cuộc sống. Mẹ nêu gương về những gì giáo hội và mỗi tín hữu đều có ý nghĩa. Mẹ là kết quả cuối cùng của sự sáng tạo và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ biểu hiện ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể hoàn tất vì tất cả chúng ta.

Thứ Năm, 23 tháng 3, 2017

Thứ Sáu Tuần III Mùa Chay Mt 18,21-35.

Lời Chúa: Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất; ngươi phải yêu mến Người.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Chúa nói, Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.
Ôi dân Ta mà đã nghe lời,
Ít-ra-en chịu theo đường Ta chỉ,
Ta sẽ nuôi bằng lúa mì tinh hảo,

Mật ong rừng, Ta cho hưởng thỏa thuê.

Ngày 24/03 – Thánh Catarina Gênôa (1447-1510)
Một lần đi xưng tội và đó là bước ngoặt cuộc đời thánh Catarina Gênôa. Khi Catherine sinh ra, nhiều nhà quý tộc người Ý ủng hộ các họa sĩ và văn sĩ thời Phục hưng (Renaissance). Nhu cầu của người nghèo và người bệnh thường bị làm lu mờ vì mê sống xa hoa và bê tha.
Cha mẹ ngài là giới quý tộc ở Genoa. Lúc 13 tuổi, ngài muốn đi tu nhưng chưa đủ tuổi. Lúc 16 tuổi, ngài kết hôn với Julian, một nhà quý tộc ích kỷ và không có tín ngưỡng. Ngài kiềm chế nỗi thất vọng và cố vui sống với chính mình.
Một lần đi xưng tội, ngài nhận biết tội mình và yêu mến Chúa nhiều. Ngài thay đổi cách sống và làm gương cho Julian, không lâu sau Julian bớt ích kỷ. Tuy nhiên, sự ăn xài hoang phí của Julian đã khiến gia đình khánh kiệt. Julian và Catarina quyết định đến bệnh viện Pammatone, một bệnh viện lớn ở Genoa, và họ dấn thân làm việc bác ái ở đó. Năm 1497, Julian qua đời. Sau đó, Catarina đảm nhiệm việc quản lý bệnh viện. Ngài viết sách về luyện ngục và khuyên các linh hồn mở lòng ra với Thiên Chúa. Ngài nói rằng cuộc sống với Chúa trên trời và tiếp tục sống trọn vẹn với Thiên Chúa phải bắt đầu ngay khi còn ở thế gian. Kiệt sức vì cuộc đời hy sinh, ngài qua đời ngày 15/9/1510, và được phong thánh năm 1737.

Thứ Hai, 20 tháng 3, 2017

Thứ Tư Tuần III Mùa Chay Mt 5,17-19.

Lời Chúa: Ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là kẻ lớn.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Lạy Chúa, Lời Chúa là thần khí và là sự sống. Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời.
Chúa bày tỏ lời Người cho nhà Gia-cóp,
chiếu chỉ luật điều cho Ít-ra-en.
Chúa không đối xử với dân nào như vậy,

không cho họ biết những điều luật của Người.

Ngày 22/03 – Thánh Nicôlas Owen, Tu sĩ Tử đạo (qua đời năm 1606)
Nicôlas, quen gọi là “Gioan Nhỏ”, vì ngài có vóc dáng nhỏ con nhưng lớn về sự đánh giá cao của các tu sĩ dòng Tên. Sinh tại Oxford, người thợ thủ công khiêm nhường này đã cứu sống nhiều linh mục và giáo dân ở Anh quốc trong thời kỳ bách đạo (1559-1829), lúc đó có nhiều đạo luật trừng phạt người Công giáo. Qua khoảng 20 năm, ngài dùng kỹ năng của mình để xây dựng những nơi bí mật khắp nước co các linh mục trú ẩn. Ngài vừa là kiến trúc sư vừa là thợ xây dựng nên các công trình của ngài giúp các linh mục không bị phát hiện. Ngài là một thiên tài trong việc tìm kiếm và tạo những nơi trú ẩn an toàn: những đường hầm, những chỗ nhỏ giữa các bức tường, những nơi hẻo lánh không thể bị thâm nhập. Ngài còn khéo léo cứu 2 tu sĩ dòng Tên thoát khỏi Tháp London (Tower of London). Bất kỳ khi nào ngài tạo những nơi trú ẩn, ngài đều rước Thánh Thể, và ngài thường cầu nguyện với Chúa lâu vì công việc xây dựng luôn có thể gặp nguy hiểm. Sau nhiều năm làm những việc “khác người”, ngài nhập dòng Tên và làm tu sĩ lao động (lay brother), nhưng ngài vẫn bí mật liên lạc với các tu sĩ dòng Tên.
Sau nhiều lần trốn thoát, ngài bị bắt năm 1594. Mặc dù bị hành hạ lâu ngày, ngài vẫn nhất quyết không khai danh tánh những người Công giáo khác. Sau khi được tha, ngài lại làm những việc như trước. Năm 1606, ngài lại bị bắt. Lần này ngài bị hành hạ dã man, và chết thảm thương. Các cai tù cố gắng nói ngài đã thú tội và tự tử, nhưng sự chịu khổ và cái chết anh dũng của ngài ai cũng biết. Ngài được phong thánh năm 1970, và là một trong 40 vị thánh tử đạo của Anh quốc và xứ Wales.

Chủ Nhật, 19 tháng 3, 2017

Thứ Ba Tuần III Mùa Chay Mt 18,21-35.

Lời Chúa: Nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho anh em.
TUNG HÔ TIN MỪNG:
Đức chúa phán: Ngay lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, bởi vì Ta từ bi nhân hậu.
Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân,
dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính,

dạy cho biết đường lối của Người.

Ngày 21/03 – Chân phước Gioan Parma, Linh mục (1209-1289)
Thánh Gioan Parma là Bề trên Tổng quyền thứ bảy của dong Phanxicô, ngài nổi tiếng về việc cố gắng khôi phục tinh thần dòng lúc đầu sau khi thánh Phanxicô Assisi qua đời. Ngài sinh năm 1209, tại Parma, Ý. Khi đó, ngài là giáo sư trẻ dạy triết học, có tiếng thương người và nhận biết Chúa gọi mình từ giã thế gian để vào dòng Phanxicô. Sau khi khấn dòng, ngài được gởi tới Paris để học thần học. Sau khi thụ phong linh mục, ngài dạy thần học tại Bologna, rồi dạy tại Naples và tại Rôma.
Năm 1245, ĐGH Innocent IV triệu tập công đồng tại Lyons, Pháp. Bề trên tổng quyền dòng Phanxicô lúc đó là Crescentiô bị bệnh nên không thể đi dự công đồng, LM Gioan được sai đi thay và ngài đã gây ấn tượng nhiều đối với các vị lãnh đạo giáo hội tại công đồng. Hai năm sau, khi chủ tọa buổi bầu cử bề trên tổng quyền dòng Phanxicô, ĐGH Innocent IV nhớ đến LM Gioan và đã đề cao các đức tính của ngài.
Năm 1247, Gioan Parma được bầu làm bề trên tổng quyền. Cả dòng đều hân hoan vì cuộc bầu chọn này, hy vọng tinh thần khó nghèo và khiêm nhường ban đầu của dòng sẽ được khôi phục. Nhưng rồi mọi người thất vọng khi bề trên tổng quyền Gioan với vài người đi bộ tới các nhà dòng. Đôi khi ngài đến mà không ai biết, ở lại đó vài ngày để tìm hiểu sự thật về tinh thần của các tu sĩ.
ĐGH mời ngài làm Khâm sứ Tòa thánh tại Constantinople, tại đây ngài thành công nhất trong việc thu phục được những người Hy Lạp ly khai. Khi trở về, ngài yêu cầu người khác đảm trách việc cai quản dòng. Theo ý ngài, Bonaventura được chọn làm người kế vị. Từ đó, LM Gioan Parma sống đời cầu nguyện âm thầm tại Greccio.
Nhiều năm sau, ngài biết người Hy Lạp đã ly khai dù đã hòa giải với giáo hội một thời gian. Dù đã 80 tuổi, ngài vẫn được phép của ĐGH Nicholas IV cho trở lại Đông phương để cố gắng cứu vãn sự hiệp thông. Nhưng trên đường đ, ngài ngã bệnh và qua đời. Ngài được phong chân phước năm 1781.

Thứ Bảy, 18 tháng 3, 2017

Thứ Hai Thánh Giuse Bạn Trăm Năm Đức Maria Lễ trọng Mt 1,16.18-21.24a.

Lời Chúa: Ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Lạy Chúa, phúc thay người ở trong thánh điện họ luôn luôn được hát mừng Ngài.
Tình thương chúa, đời đời con ca tụng,
qua muôn thế hệ
miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài.
Vâng con nói: Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu,

lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời.

Ngày 20/03 – Thánh Salvator Horta (1520-1567)
Nổi tiếng về sự thánh thiện đôi khi cũng có một số bất lợi. Việc công chúng nhận biết đôi khi có thể là sự rầy rà – như bạn bè của Salvator nhận thấy.
Salvator sinh trong thời hoàng kim của Tây ban nha. Nghệ thuật, chính trị và của cải đều hưng thịnh. Tôn giáo cũng vậy. Thánh Inhaxiô Loyola đã lập dòng Tên năm 1540.
Cha mẹ của Salvator nghèo. Lúc 21 tuổi, ngài nhập dòng Phanxicô và nổi tiếng sống khắc khổ, khiêm nhường và giản dị.
Ngài nấu ăn, khuân vác và đi hành khất ở Tortosa. Ngài còn nổi tiếng về đức bác ái. Ngài dùng Dấu Thánh Giá để chữa lành bệnh nhân. Khi thấy nhiều bệnh nhân đến tu viện xin gặp tu sĩ Salvator, các tu sĩ đã chuyển ngài tới Horta. Các bệnh nhân vẫn kéo đến để xin ngài chữa bệnh. Số bệnh nhân tới gặp ngài lên đến 2.000 người mỗi tuần. Ngài khuyên họ xét mình, xưng tội và rước lễ hằng tháng. Ngài từ chối cầu nguyện cho những người không đón nhận các bí tích này.
Ngài không rảnh vì người ta biết đến ngài quá nhiều. Đôi khi các bệnh nhân còn xé mảnh áo ngài làm di vật. Hai năm trước khi qua đời, ngài lại phải thuyên chuyển đến Cagliari trên đảo Sardinia. Ngài qua đời tại Cagliari khi ngài cầu nguyện bằng lời thánh vịnh: “Trong tay Ngài, lạy Chúa, con phó thác linh hồn con”. Ngài được phong thánh năm 1938.

Thứ Sáu, 17 tháng 3, 2017

Chúa Nhật III Mùa Chay Năm A

Lời Chúa: Mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.
      Khi ấy, Đức Giê-su đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
     Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. Đức Giê-su trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống.” Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Gia-cóp chúng tôi, là người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.” Đức Giê-su trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”
     Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” Người bảo chị ấy: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng.” Đức Giê-su bảo: “Chị nói: ‘Tôi không có chồng’ là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.” Người phụ nữ nói với Người: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ ... Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.” Đức Giê-su phán: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” Người phụ nữ thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Đức Giê-su nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.”
     Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: “Thầy cần gì vậy?” Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy?” Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
     Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa.” Người nói với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.” Các môn đệ mới hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” Đức Giê-su nói với các ông: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. Thật vậy, câu tục ngữ “kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng! Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.”

      Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.”

Ngày 19/03 – Thánh Giuse, Đức Phu Quân Đức Maria
Kinh thánh tặng cho thánh Giuse danh hiệu cao quý nhất: Đấng Công Chính. Phẩm chất đó có ý nghĩa hơn lòng trung tín trong việc thanh toán nợ nần.
Khi Kinh thánh nói về Thiên Chúa là Đấng “bào chữa”, nghĩa là Thiên Chúa là Đấng chí thánh và “công chính”, cũng biến đổi một người đã chia sẻ cách nào đó về sự thánh thiện của Thiên Chúa, và người đó thực sự “công chính” vì được Thiên Chúa yêu thương. Nói cách khác, Thiên Chúa không đùa giỡn, Thiên Chúa hành động như thể chúng ta đáng yêu ngay khi chúng ta không đáng yêu.
Nói thánh Giuse công chính, Kinh thánh có ý rằng ngài là người mở rộng lòng với tất cả mọi điều mà Thiên Chúa  muốn thực hiện nơi ngài. Ngài nên thánh nhờ mở rộng lòng mình ra với Thiên Chúa. Phần còn lại chúng ta có thể dễ suy đoán. Hãy nghĩ về dạng tình yêu mà ngài đã “tán tỉnh” và được lòng Đức Mẹ, độ sâu của tình yêu mà hai người chia sẻ trong đời sống hôn nhân.
Không có mâu thuẫn trong sự thánh thiện của thánh Giuse mà ngài muốn “ly dị” Đức Mẹ khi ngài thấy “người yêu” có thai bất tử. Những từ quan trọng trong Kinh thánh là ngài “định tâm lìa bỏ” vì ngài là “người công chính”, không muốn để vị hôn thê phải xấu hổ” (x. Mt 1:19). Người công chính này sống giản dị, vui vẻ, một lòng một dạ và toàn tâm toàn ý tuân phục Thiên Chúa – cưới Maria, đặt tên Con Trẻ là Giêsu, đưa mẹ con sang Ai cập, đưa mẹ con về Nadarét, nhiều năm sống âm thầm bằng đức tin và lòng can trường.

Thứ Năm, 16 tháng 3, 2017

Thứ Bảy Tuần II Mùa Chay Lc 15,1-3.11-32.

Lời Chúa: Em con đây đã chết mà nay sống lại.
TUNG HÔ TIN MỪNG:
Tôi sẽ trổi dậy, trở về với cha tôi và thưa với người rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha”.
Chúa tha cho ngươi muôn vàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,

bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hãi hà.

Ngày 18/03 – Thánh Cyrilô Giêrusalem, Giám mục Tiến sĩ (315?-386)
Các vấn đề trong giáo hội ngày nay là “chuyện nhỏ” so với sự phản ứng của tà thuyết Arian (tà thuyết chối bỏ thiên tính của Chúa Kitô. Cyrilô bị ngắt lời khi tranh luận, rồi bị Jerome kết tội theo tà thuyết Arian, cuối cùng ngài được nhiều người minh oan và được tôn vinh là tiến sĩ giáo hội năm 1822. Raised ở Giêrusalem, được giáo dục đàng hoàng, nhất là về Kinh thánh, ngài được ĐGM giáo phận Giêrusalem phong chức linh mục và giao nhiệm vụ dạy giáo lý cho những người sắp rửa tội trong mùa Chay và dạy cho các tân tòng trong mùa Phục sinh. CuốnCatecheses (Giáo lý) của ngài vẫn còn giá trị làm mẫu cho nghi thức và thần học của giáo hội hồi giữa thế kỷ IV.
Có nhiều người phản đối việc ngài trở thành giám mục giáo phận Giêrusalem. Chắc chắn ngài được nhiều giám mục tấn phong giám mục. Vì một trong số đó có GM Acacius, một người theo thuyết Arian, có lẽ người ta muốn ngài “hợp tác”. Xung đột xảy ra giữa Cyrilô and Acacius, GM đối thủ ở gần tòa GM Caesarea. Cyrilô bị triệu đến công hội, bị kết tội không vâng lời và tội bán tài sản giáo hội để giúp người nghèo. Tuy nhiên, có thể có sự khác nhau về thần học. Ngài bị kết tội, bị trục xuất khỏi Giêrusalem, nhưng sau đó được minh oan, có cả những người “hai mang” (vừa theo Công giáo vừa theo Arian) cũng minh oan cho ngài. Một nửa trong giám mục đoàn bị đi đày (Patrixiô bị 2 lần). Cuối cùng, ngài trở về thấy Giêrusalem bị “te tua” vì tà thuyết, vì ly giáo, vì xung đột, và hoang tàn vì tội phạm. Ngay cả thánh Grêgôriô Nyssa khi đó được ai đến trợ giúp cũng cảm thấy thất vọng.
Hai ngài đi dự Công đồng đại kết II (Second Ecumenical Council of Constantinople), tại đây Tín điều Nicê (Nicene Creed) được công bố. Cyrilô chấp nhận từ consubstantial (đồng bản thể, nghĩa là thuộc về Chúa Cha và Đức Kitô). Một số người cho đó là động thái ăn năn (act of repentance), nhưng các GM tham dự Công đồng khen ngợi ngài là “nhà vô địch chính thống (champion of orthodoxy) chống lại thuyết Arian. Dù không thân thiện với những người bảo vệ chính thống chống lại Arian, ngài vẫn có thể được kể trong số những người mà thánh Athanasiô gọi là “những huynh đệ chúng tôi muốn nói tới, và chỉ khác nhau về từ ngữ”.

Thứ Sáu Tuần II Mùa Chay Mt 21,33-43.45-46.

Lời Chúa: Đứa thừa tự đây rồi ! Nào ta giết quách nó đi.
TUNG HÔ TIN MỪNG:
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời.
Chúa cho nạn đói hoành hành khắp xứ,
làm cạn nguồn lương thực nuôi dân.
Chúa đã phái một người đi trước họ

là Giuse, kẻ bị bán làm tôi.

Ngày 17/03 – Thánh Patrixiô, Giám mục (415?-493?)
Có nhiều truyền thuyết về thánh Patrixiô, nhưng sự thật chính là 2 phẩm chất vững mạnh ở ngài: Khiêm nhường và can trường. Chấp nhận đau khổ và không nao núng để trở thành khí cụ của Thiên Chúa nên ngài đã giành được nhiều người cho Chúa Kitô.
Chi tiết về cuộc đời ngài thì không biết rõ, ngay cả ngày sinh và ngày mất của ngài. Có thể thánh Patrixiô sinh ở Dunbarton, Scốt-len, Cumberland, Anh, hoặc Bắc Wales. Ngài nhận mình là người Rôma và người Anh. Lúc 16 tuổi, ngài và nhiều nô lệ của người cha cùng với các gia nhân bị người Ai-len bắt bán làm nô lệ ở Ai-len. Ngài phải đi chăn chiên, và chịu đói lạnh.
Sau 6 năm, Patrixiô trốn thoát, có thể ngài đi Pháp, sau đó trở về Anh lúc 22 tuổi. Thời gian bị bắt làm ngài thay đổi tâm linh. Có thể ngài đã học ở Lerins, vùng duyên hải Pháp; nhiều năm ngài ở Auxerre, Pháp, và được bổ nhiệm Giám mục lúc 43 tuổi. Ngài rất muốn rao giảng Phúc âm cho người Ai-len.
Trong một giấc mơ, ngài thấy “những đứa trẻ Ai-len trong lòng mẹ đang đưa tay ra” với ngài. Ngài hiểu đó là ơn gọi truyền giáo cho dân ngoại ở Ai-len. Dù bị phản đối từ những người cảm thấy ngài học chưa đủ, ngài vẫn được sai đi làm sứ vụ. Ngài đến miền Tây và miền Bắc, những nơi chưa được rao giảng, ngài được nhà vua và nhiều người theo đạo che chở.
Vì dân ngoại, Patrixiô chú ý những góa phụ vẫn thủ tiết và các phụ nữ trẻ giữ đức khiết tịnh vì Chúa Kitô. Ngài phong chức linh mục cho nhiều người, phân chia giáo phận, tổ chức các công nghị giáo hội, lập vài tu viện và tiếp tục thúc giục người ta sống thánh thiện vì Chúa Kitô. Ngài bị các tu sĩ khác đạo (một tôn giáo cổ ở Xen-tơ) phản đối, bị chỉ trích cả ở Anh và ở Ai-len về cách ngài làm nhiệm vụ.
Không lâu sau, đảo quốc này biết nhiều về Kitô giáo, nhiều nhà truyền giáo được sai đi để Kitô hóa Âu châu. Ngài con người hành động, có niềm tin cứng như đá. Một trong một số sách của ngài là Confessio(Tự thuật), vượt hẳn sự thần phục Thiên Chúa vì đã kêu gọi ngài, một tội nhân bất xứng, làm tông đồ. Nơi an táng ngài được coi là ở Ulster, tại County Down.

Thứ Ba, 14 tháng 3, 2017

Thứ Năm Tuần II Mùa Chay Lc 6,36-38.

Lời Chúa: Con đã nhận phần phúc của con rồi; còn Lararô suốt một đời chịu toàn cảnh bất hạnh. Bây giờ, Lararô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu cảnh khốn khổ.
TUNG HÔ TIN MỪNG:
Hạnh phúc thay người thành tâm thiên chí, hằng ấp ủ lời Chúa trong lòng, nhờ kiên nhẫn mà sinh hoa kết quả.
Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân,
chẳng bước vào đường quân tội lỗi,
không nhập bọn với phường ngạo mạn kêu căng,
nhưng vui thú với lề luật Chúa,

nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày.

Ngày 16/03 – Thánh Clement Maria Hofbauer, Linh mục (1751-1820)
Clement có thể được coi là vị thứ hai đồng sáng lập dòng Chúa Cứu Thế (Redemptorists), vì chính ngài đã đem dòng của thánh thánh Alphonsô Liguori sang miền Bắc núi Alps.
Gioan là tên thánh rửa tội của ngài. Ngài sinh tại Moravia trong một gia đình nghèo khó, là con thứ 9 trong 12 người con. Ngài muốn làm linh mục nhưng không có tiền ăn học, ngài phải đi học làm bánh. Nhưng Thiên Chúa đã hướng dẫn số phận của ngài. Ngài làm trong tiệm bánh của một tu viện và rồi được học trường Latin. Sau khi bề trên tu viện qua đời, ngài thử sống ẩn dật nhưng khi hoàng đế Joseph II bãi bỏ luật ẩn tu, ngài lại trở về Vienna để làm bánh. Một hôm, sau thánh lễ tại nhà thờ thánh Stêphanô, ngài gọi xe ngựa cho hai phụ nữ đang đứng chờ trong mưa. Khi nói chuyện, họ biết ngài không thể tiếp tục tu học làm linh mục vì không có tiền, họ đồng ý tài trợ cho ngài và bạn ngài là Thaddeus vào học ở chủng viện. Hai người đi Rôma, rồi bị thu hút đời tu của thánh Alphonsô và các tu sĩ dòng Chúa Cứu Thế. Cuối cùng, hai thanh niên này cùng thụ phong linh mục năm 1785, lúc ngài 34 tuổi.
LM Clement Maria và LM Thaddeus trở về Vienna. Nhưng nhiều khó khăn về tôn giáo ở đó khiến các ngài phải đi Warsaw, Ba Lan. Ở đây các ngài gặp nhiều người Công giáo nói tiếng Đức thiếu linh mục vì sự hạn chế của dòng Tên. Mới đầu các ngài phải sống rất nghèo khó và giảng đạo ngoài đường. Các ngài có được nhà thờ thánh Benno, mỗi ngày các ngài giảng đạo 5 lần trong suốt 9 năm, 2 lần bằng tiếng Đức và 3 lần bằng tiếng Ba Lan, và nhiều người đã trở lại đạo. Các ngài tích cực trong công tác xã hội giúp người ngèo, mở cô nhi viện và trường học cho nam sinh.
Thu hút các ứng sinh vào dòng, các ngài có thể sai các nhà truyền giáo tới Ba Lan, Đức và Thụy Sĩ. Cuối cùng các cơ sở này bị bỏ hoang vì căng thẳng chính trị và tôn giáo thời đó. Sau 20 năm hoạt động cực nhọc, chính Clement bị tù đày và bị trục xuất. Nhưng rồi ngài cũng đến được Vienna, tại đây ngài sống và làm việc 12 năm cuối đời. Không lâu sau ngài trở thành “tông đồ thành Vienna”, giải tội, thăm bệnh nhân, tư vấn cho những người quyền thế, chia sẻ sự thánh thiện với mọi người trong thành phố. Công việc tốt đẹp của ngài là thành lập một đại học Công giáo ngay tại thành phố.
Có lúc nhà cầm quyền không cho ngài rao giảng. Mức cao nhất là bị trục xuất. Nhưng sự thánh thiện và tiếng tăm của ngài đã bảo vệ ngài để có thể phát triển dòng Chúa Cứu Thế. Nhờ nỗ lực của ngài, dòng Chúa Cứu Thế được vững mạnh ở miền Bắc Alps. Ngài qua đời năm 1820. Ngài được ĐGH Gioan-Phaolô II phong thánh năm 1909.