Phêrô Trương Văn Thi, Sinh năm
1763 tại Kẻ Sở, Hà Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 21/12/1839 tại Ô Cầu Giấy dưới
đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII đã suy tôn cha Phêrô Trương Văn Thi lên bậc Chân
Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên
bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 21/12.
* Lý hình cõng tử tội.
Trên đường ra pháp trường, từ nhà
ngục Hà Nội đến ô Cầu Giấy, người tử tội ốm yếu bệnh tật với tuổi già 76, bước
đi chẳng nổi nữa. Ông bước đi lảo đảo rồi ngã quỵ xuống đường. Trước tình cảnh
tang thương đó, một người lính đoàn hành quyết khom lưng cõng tử tội đến nơi xử,
và được tử tội âu iếm tặng đôi giầy của mình làm kỷ niệm. Thế đó, lính tráng ngỡ
ngàng, dân chúng nghẹn ngào, các tín hữu xúc động. Người hành quyết cõng tử tội
đến pháp trường. Tử tội đó là linh mục Phêrô Trương Văn Thi.
* Người mục tử hiền hòa nghèo khó.
Phêrô Trương Văn Thi mở mắt chào
đời năm 1763 tại làng Kẻ Sở, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Năm 11 tuổi, cậu được
nhận vào nhà Đức Chúa Trời để tu học, tập tành các nhân đức, rồi trở thành thầy
giảng. Trong chức vụ này, thầy thi luôn chứng tỏ nhiệt tâm tông đồ, đời sống đạo
đức, và khả năng đời đạo, nên được gửi vào chủng viện. Đến ngày 22.03.1806, thầy
lãnh chức linh mục khi đã 43 tuổi.
Trong 27 năm liền, cha Thi coi
sóc xứ Sông Chảy thuộc phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Năm 1833, ngài được bổ nhiệm
chính xứ Kẻ Sông, và ở đó cho đến khi tử đạo năm 1839. Theo lới chứng của các
tín hữu tại đây, cha Thi là một linh mục : "Rất nhân đức, mỗi ngày đọc
kinh cầu nguyện lâu giờ ba bốn lần, cử hành thánh lễ trang nghiêm, ăn uống đạm
bạc, thường ăn chay các thứ sáu, mặc dù sức khỏe của ngài yếu kém với chứng đau
bụng thường xuyên".
Thừa sai Jeantet Khiêm sau làm
Giám mục Tây đàng Ngoài đã viết về cha Thi : "Tôi quen biết ngài từ năm
1835, tôi cảm phục ngài về lòng đạo đức thâm sâu, có tính hiền hòa, khôn ngoan
và trung thành giữ lề luật". Cha sống khó nghèo, ngoài áo chùng thâm, cha
chỉ mặc đồ nâu như một nông dân nghèo nàn. Ngoài giáo xứ chính, cha còn phụ
trách thêm nhiều họ lẻ. Một lần di chuyển trên sông, thuyền của cha bị đắm, người
tháp tùng cha chết đuối, còn cha sống sót được nhờ bám vào hòm đựng đồ lễ. Suốt
mấy chục năm phục vụ giáo xứ, không hề thấy một ai kêu ca, chê trách cha lới
nào.
Do chiếu chỉ cấm đạo tòan quốc của
vua Minh Mạng, cha Thi luôn hoạt động âm thầm. Được một thời gian khá lâu, bất
ngờ vào ngày 10.10.1839, khi cha Dũng lạc ở làng kế cận tìm đến xưng tội, viên
lý trưởng tên Pháp hay tin, đưa người đến bắt cả hai linh mục. Lý Pháp mặc cả
giá tiền chuộc với các tín hữu, và ngã giá là 200 quan. Khi các tín hữu mới gom
góp được một nửa số tiền, ông chỉ tha một mình cha Dũng Lạc. Ai ngờ trên đường
về, cha Dũng lạc lại bị một tốp lính khác bắt được. Thế là Lý Pháp không dám
cho chuộc cha Thi nữa, và cho áp giải ngài về Bình Lục. Giữa đường, ông gặp đám
lính đang áp giải cha Dũng Lạc, liền nộp cha Thi cho quan huyện. Từ đó, hai vị
chung một số phận tù ngục và cùng chung hưởng phúc vinh quang.
* Ông "quan bên đạo" dưới mắt ông
quan bên đời.
Quan huyện Bình Lục tỏ ra rất vị
nể hai linh mục. Riêng với cha Thi, quan ái ngại cho tuổi già sức yếu, nên cư xử
càng lịch thiệp hơn. Ông nói : "Tôi làm quan bên đời, còn ông làm quan bên
đạo". Dĩ nhiên, quan đã hiểu sai về chức năng phục vụ của người linh mục,
nhưng dầu sao, đó cũng là bằng chứng của sự kính nể. Biết không thể lay chuyển
lòng tin của hai vị, quan không tra tấn gì cả, chỉ giữ lại ba ngày rồi cho giải
về Hà Nội. Như Philatô rửa tay trong vụ án đức Giêsu, viên quan huyện sau đó
cũng mở lễ cúng vái các thần, thanh minh với mọi người, và xin trời đất chứng
giám cho mình vô can trong cái chết của những kẻ vô tội.
Khi hai cha được đưa lên Hà Nội bằng
thuyền theo đường sông Hồng, các tín hữu kéo nhau đi theo rất đông, kẻ đi thuyền,
người đi bộ trên bờ đê.
Ngày 16.10, thuyền áp giải hai
cha được cập bến. Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường và bắt đạp
lên Thánh Giá. Cha Thi quỳ xuống, nghiêm trang hôn kính dấu chỉ Đấng Cứu Độ.
Sau nhiều lần hạch hỏi, quan thấy không có cách nào khuất phục được hai vị linh
mục, liền làm án tâu vua xin trảm quyết.
Trong khi chờ đợi vua phê án, cha
Thi biết trước số phận của mình, và chuẩn bị đón nhận phúc tử đạo của mình. cha
gia tăng việu cầu nguyện và hãm mình. Cha ăn chay các ngày thứ hai, thứ tư, thứ
sáu và thứ bảy. Bệnh tật gông cùm (dù cha chỉ phải mang gông nhẹ) và chay tịnh
làm sức khỏe của cha càng sa sút. Thừa sai Jeantet Khiêm viết thư vào đề nghị
cha giảm bớt khổ chế đi, nhưng cha vẫn không thay đổi.
* Tình yêu không biên giới.
Ngày 21.12.1839, lần thứ hai cha
Trân đưa Mình Thánh vào, cha Thi đã liệt giường, phải nhờ cha Dũng Lạc ra nhận
và trao Thánh Thể. Không ngờ chính hôm đó lại là ngày cuối cùng cuộc đời dương
thế của các ngài, bản án vua châu phê đã vào tới. Quân lính dẫn hai cha ra pháp
trường. Trên đường, cha Thi không còn sức đi nữa, nên một người lính đã đóng
vai "Simon", cõng cha đến nơi thụ án.
Quãng đường cuối cùng của cha
Thi: Đôi giầy, kỷ vật tặng cho người lính, hình ảnh một "Simon Xirênê"
Việt Nam cõng tử tội ra pháp trường… Làm sao diễn tả hết ý nghĩa của những điều
đó. Phải chăng hình ảnh đó có thể khái quát được tang thương của Giáo Hội Việt
Nam thời khai nguyên ? Phải chăng điều đó đủ xoa dịu những đố kỵ còn sót lại
cho đến ngày hôm nay ? Và phải chăng hình ảnh đó cho phép ước mơ một xã hội,
tương lai sáng lạn hơn, khi mọi người dân vượt qua mọi trở ngại để đối xử với
nhau bằng trái tim yêu thương ?
Giáo hữu thấm máu vị tử đạo, thâu
lượm các di vật, rồi đưa thi hài các ngài về Kẻ Sở dâng lễ và an táng cách trọng
thể.
Đức Lêo XIII đã suy tôn cha Phêrô
Trương Văn Thi lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
Thừa sai Jeantet Khiêm nhận định
về cuộc tử đạo của cha Phêrô Thi như sau : "Ân sủng đã toàn thắng sự yếu
đuối của con người. Nhờ ân sủng, con người bẩm sinh vốn hiền lành nay đã có được
sức mạnh trước đây chưa từng có".
vé máy bay eva giá rẻ
Trả lờiXóavé máy bay 2 chiều đi mỹ
hang hang khong korean air tai tphcm
đặt vé máy bay đi mỹ ở đâu
Vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich