Phanxicô Xaviê Cần, Sinh năm 1803
tại Sơn Miêng, Hà Ðông, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 20 tháng 11 năm 1837 tại Ô
Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng, Đức Lêo XIII suy tôn thầy Nguyễn Cần lên bậc
Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988. Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài
lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 20/11.
* Tôi trung không thờ hai chủ.
"Tôi trung không thờ hai chủ"
lời cuối cùng phát ra từ miệng thánh Phanxicô Nguyễn Cần tóm tắt cuộc đời của
thầy, một người tôi trung, đã suốt đời trung thành với Chúa, phục vụ tha nhân,
sống trung thực với suy nghĩ của mình, trung tín với giáo lý Tin Mừng và cuối
cùng đã trung kiên vượt qua mọi thử thách, xứng đáng nhận lời chúc phúc
"hãy vào hưởng niềm hoan lạc của Chúa trên trời". (Mt. 25,21).
* Chí Con đã quyết.
Phanxicô Nguyễn Cần còn có tên
Nguyễn Tiên tức Tiên Truật, sinh năm 1803, tại làng Sơn Miệng, huyện Phú Xuyên,
phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, Hà Nội. Từ niên thiếu, cậu Cần đã ước ao dâng
mình trong nhà Chúa, nhưng mẹ cậu vì thương nhớ, không muốn xa con nên từ chối.
Cậu phải nói với mẹ: "Nếu mẹ không bằng lòng con ở với cha xứ nhà, con sẽ
trốn đi, ở với cha xứ khác". Thế là bà mẹ cũng phải chiều ý, cho cậu ở với
cha Nghi, chánh xứ Sơn Miêng.
Nhờ đức hạnh tốt và siêng năng, cậu
được vào chủng viện, trở thành thầy giảng, được cử đi giúp Đức cha Havard Du, rồi
cha Retord Liêu (năm 1838 lên chức Giám mục, gọi là Đức Thầy Liêu). Cha Liêu đã
nhận xét về thầy Cần: "Thầy giúp tôi học tiếng Việt, chia sẻ với tôi mọi
khó khăn, hiểm nguy, thiếu thốn. Thầy rất nhiệt tâm trong việc tông đồ".
Ngày 19.04.1836, cha Liêu nhờ thầy
đi mời cha Tuấn về xứ Kẻ Chuông giảng, chuẩn bị lễ Phục Sinh. Nhưng khi thầy đến
xứ Kẻ Vạc, nơi cha Tuấn ở thì bị bắt. Quân lính dấu ảnh tượng vào túi xách của
thầy đê có chứng cớ cụ thể. Thầy bị giải về huyện Thanh Oai và bị tống giam vào
ngục.
Trước công đường, quan nói thầy đừng
tin vào các đạo trưởng, và hãy đạp lên ảnh đạo, quan sẽ tha cho về nuôi mẹ già.
Thầy trả lời : "Thưa quan, tôi chưa thấy các đạo trưởng lừa dối ai bao giờ,
còn mẹ già tôi không lo, tôi xa nhà đã lâu chẳng giúp gì cho bà". Sau đó
quan dùng nhiều lời khiếm nhã phê bình về đạo, thầy bình tĩnh giải thích lại rồi
trình bày về 10 điều răn Thiên Chúa và sáu điều răn Hội Thánh, thầy kết thúc bằng
một lời tự nguyện, tự phát rất cảm động. Mọi người ở đó đều cản phục. Quan
tuyên bố kết thức phiên tòa, đưa thầy về trại giam. Nhưng quan nói nhỏ với những
người đứng bên : "Anh này nói cũng có lý. Những giới răn và kinh nguyện của
anh ta chứa đựng nhiều điều tốt lành, có lẽ còn dễ hiểu hơn bản "thập điều"
của nhà vua nữa".
* Một dạ sắt son.
Phần cha Liêu ở nhà rất buồn, cha
tìm mọi cách cứu mạng cho thầy Cần. Cha cho người đem tiền theo thân mẫu thầy
lên huyện để chuộc. Mới đầu quan đòi 300 quan, sau tăng lên 500, rồi 600, vượt
qua con số dự trù, có lẽ vị quan đó không dám cho chuộc thì đúng hơn. Thầy Cần
an ủi mẹ: "Xin mẹ đừng lo cho con, con đã ước ao tử đạo từ lâu, xin mẹ chỉ
cầu nguyện cho con là đủ".
Có nhiều người tỏ lòng thương hại
thầy Cần. Quan khuyên thầy bước qua Thập Giá, thầy cương quyết từ chối. lính
khiêng thầy bước dẫm lên tượng ảnh Chúa, tay thầy ôm chặt lấy chân và la lên:
"Tôi không đạp lên ảnh Chúa đâu". Một số giáo dân đã bỏ đạo nói:
"Tội nào Chúa chẳng tha, Phêrô chối Chúa ba lần mà còn làm thủ lãnh Giáo Hội".
Người khác lừa dối: "Cha Liêu nhắn thầy cứ bước qua Thánh Giá, rồi sẽ về
liệu sau". Họ còn đe dọa: "Nếu thầy không nghe, quan sẽ làm khổ cả
làng đó". Nhưng tất cả không làm xoay chuyển ý chi sắt đá của vị chứng
nhân đức Kitô.
Thầy quả quyết : "Dù thiên
thần xuống bảo tôi bỏ đạo, tôi cũng chẳng tin. Dù kính trọng cha Liêu, tôi
không thể làm điều sai lạc đó được. Hơn nữa, tôi biết chắc ngài không ra lệnh
tôi làm như vậy. Còn với dân chúng, tôi thương mến thật, nhưng cũng không vì họ
mà tôi xúc phạm đến Chúa".
Nhiều người ngoại giáo nói với
nhau: "Giá như đạo mình bị cấm, chắc ta đã bước qua ảnh tượng trăm lần… Tượng
đồng, ảnh giấy có chi mà sợ". Thấy không thể lay chuyển được người tôi trung
của Chúa Kitô, quan cho giải thầy Cần lên Hà Nội. Tám tháng tù ở Thanh Oai, mười
tháng tù ở Hà Nội, là cả chuỗi ngày cực hình đổ trên người thầy : cổ mang gông,
tay mang xiềng xích, chân bị cùm… nhà tù thì nồng nặc mùi hôi hám, vì tù nhân
phóng uế tại chỗ, lính canh đánh đập thầy mỗi ngày để tra khảo tiền bạc. Trong
một lá thư gửi cha Liêu, thầy viết : "Con bị tra tấn ba lần, hai lần đầu,
mỗi lần 60 roi, lần sau 50 roi, nhà giam đã chật hẹp hôi hám, lại có hơn chục
anh đầu trộm đuôi cướp, ăn nói lỗ mãng, ban ngày say sưa, ban đêm cờ bạc, lúc
nào cũng ồn ào làm con khó cầu nguyện quá".
* Tông đồ trong trại giam.
Thế nhưng, thầy không chán nản,
mà coi đó là môi trường Chúa gởi đến. Thầy kiên nhẫn giúp được hai tù nhân hối
cải, dạy giáo lý và rửa tội được vài người, chúng ta hãy đọc một đọan thư thầy
viết từ trại giam ở Hà Nội :
"Con báo để cha an tâm. Ở
đâu con cũng được mọi người thương mến, dù quan hay dân và các bạn tù đều kính
trọng gọi con bằng thầy, có người còn tặng con danh hiệu khác nữa. Hầu hết họ cảm
thương con bị đau khổ, hoặc khen con vững chí. Con hay bàn luận với họ và biết
nhiều điều mê tín của họ, nhưng chưa biết khuyyên bảo họ sao bây giờ. Có một
ông Chánh tổng cũng bị giam ở đây, hứa với con khi ra tù sẽ theo đạo và sống
theo những điều con giảng… Thưa cha, con thấy người đời sẵn sàng chịu nhiều khổ
sở để được giàu sang hoặc danh vọng chóng qua, lẽ nào con không nhẫn nại, chịu
những sự khó qua mau này, để được vinh quang đời đời"
* Một Lời tuyên đoán.
Viên cai ngục Hà Nội thấy tác
phong của thầy Cần, dự đoán : "Ông này chỉ bằng nắm tay mà nghị lực phi
thường. Ông ta mà chết chắc sẽ trở lên Thành Hoàng của làng chứ chẳng
chơi". Cũng trong thời kỳ ở Hà Nội, có lần thầy Cần bị bệnh nặng, một linh
mục giả làm thầy lang vào giải tội, cho thầy được rước lễ và xức dầu. Nhưng sau
đó thầy được bình phục ngay.
Ngày 20.11.1837, bản án vua Minh
Mạng châu phê ra tới Hà Nội. Quan Tổng trấn khuyên thầy nhắm mắt bước qua Thập
Giá. Thầy nói: "Mắt thì nhắm được, chứ lòng trí khôn không thể nhắm được,
nên tôi chẳng làm". Quan lại cho xếp chéo hai khúc gỗ và nói: "Đây
không phải ảnh Chúa, gỗ này cũng chưa được làm phép, cứ bước qua đi sẽ thoát chết".
Nhưng thầy không làm vì biết đó là dấu hiệu chối đạo.
* Và thiên thu vĩnh phúc.
Một tuần sau, thầy Phanxicô Cần bị
điệu ra pháp trường cửa ô Cầu Giấy. Năm viên quan cưỡi voi đi trước, 10 cai đội
cưỡi ngựa theo sau, rồi đến 300 lính vũ lâm, mặc binh phục đỏ, tay cầm kiếm. Một
người cầm tấm thẻ ghi bản án: "Can phạm theo đạo Gia Tô, không chịu bước
qua Thập Giá, án xử giải". Dân chúng hôm đó, đi xem rất đông.
Tại pháp trường, dây thừng đã quấn
quanh cổ, thầy Cần vẫn bình tĩnh cám ơn mọi người, nói với họ về cái chết theo
đức tin Công Giáo, về hạnh phúc đời sau và hứa sẽ nhớ đến họ khi về bên Chúa.
viên quan cố thuyết phục lần chót: "Anh có thể cứu mạng mình. anh không trộm
cướp, cũng không làm loạn, bản án của anh còn có thể rút lại được, chỉ cần anh
bước một bước qua Thập Tự. Nhưng thầy trả lời : "Tôi trung không thờ hai
chủ, xin quan cứ an tâm mà thi hành". Quan ra lệnh, tức khắc quân lính kéo
mạnh hai đầu dây, người môn đệ Chúa Kitô gục đầu tắt thở, lãnh cành vạn tuế tử
đạo ngày 20.11.1837, khi mới 34 tuổi.
Thi hài vị tử đạo được an táng tại
Chân Sơn, sau cải táng về nhà thờ xứ Sơn Miêng. Đức Lêo XIII suy tôn thầy Nguyễn
Cần lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Lời tiên đoán vô tình của viên
cai ngục đã trở thành hiện thực. Ngày nay, thánh Phanxicô Saviê Nguyễn Cần
không những là "Thành Hoàng" của làng Sơn Miêng, mà hơn thế, là Thánh
Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam và được cả Giáo Hội hoàn cầu ngưỡng mộ.
ve may bay eva airline
Trả lờiXóamua vé máy bay đi mỹ giá rẻ
hãng hàng không korean air vietnam
vé máy bay khứ hồi đi mỹ giá rẻ
mua vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch