Henricô Gia (Henricus
Castaneda),Sinh năm 1743 tại Javita, Tây Ban Nha, Linh Mục dòng Ða Minh, thừa
sai người Tây Ban Nha, địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 07/11/1773 tại
Ðồng Mơ dưới đời Chúa Trịnh Sâm, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức
Piô X, lễ kính vào ngày 07/11.
Cuối năm 1773, tin tức linh mục
Castaneda tử đạo đã về tới quê hương ngài ở Tây Ban Nha. em trai thánh nhân là
Clêmentê biết trước tiên, đã hết sức thận trọng khi báo tin cho mẫu thân. Bà sốt
sửng hỏi: "Tại sao Jacintô của mẹ lại chết. Anh ấy chết bệnh hay bị giết?".
Clêmentê chợt nghĩ anh mình mới 30 tuổi, sợ mẹ buồn lên anh hỏi lại: "Vậy
mẹ muốn anh ấy chết cách nào?. Bà đáp: "Mẹ mong vì đức tin mà Jacintô con
mẹ bị giết". Clêmentê liền nói : "Thưa mẹ, chính vì đức tin, người ta
đã chém đầu anh ấy". Ngay chiều ngày hôm đó, bà mẹ đến nhà thờ dòng Đaminh
để cùng các tu sĩ hát lên lời tạ ơn TE DEUM.
Jacintô Castanede sinh ngày
13.10.1743 tại Jativa, thuộc giáo phận Valencia, Tây Ban Nha. Cậu được trời phú
cho một khuôn mặt xinh đẹp đặc biệt. Nhiều người so sánh cậu đẹp như thiên thần
trong các tranh của nhà danh họa Tây Ban Nha Murille (1862). Hơn thế nữa, chàng
thanh niên tuấn tú ấy lại có một tâm hồn cao quý, đã sớm quyết tâm dâng hiến cuộc
đời phục vụ Thiên Chúa và truyền giảng Tin Mừng cho thế giới. Để thực hiện lý
tưởng cao cả đó, cậu đã gia nhập dòng Đaminh tại tu viên thánh Philipphê ở
Valencia.
Lòng nhiệt thành truyền giáo đã
đưa thầy Jacintô đến Phi Luật Tân năm 1762. Sau khi thụ phong linh mục, cha
tình nguyện đi loan báo Tin Mừng ở Trung Hoa. Dầu Trung Hoa đang cơn cấm cách,
cha đã đến nơi vào tháng 04.1766 cùng với cha Lavilla giảng đạo ở Phúc Kiến.
Sau ba năm nhiệt thành phục vụ, ngày 18.07.1769 hai vị linh mục bị bắt giữ 15
ngày ở Phú An, rồi gần hai tháng với 14 cuộc thẩm vấn ở Phúc Kiến, cuối cùng
các ngài bị trục xuất về Macao.
Không nản chí và cũng không chùn
bước, tại Macao, gặp hai cha dòng khác từ Manila tới để đi Việt Nam, cha Castaneda
và Lavilla liền xin bề trên cho phép đồng hành sang Việt Nam. Sau đó, bốn vị
cùng đáp tàu đến Bắc Việt ngày 23.02.1770. Cha Gia ở lại Trung Linh học tiếng
Việt và phong tục Việt trong sáu tháng, rồi được cử đi truyền giáo ở khu Lai Ổn,
Kẻ Diền, phủ Thái Ninh. Cha tự thuật như sau : "Hiện nay với sự cộng tác của
hai linh mục bản xứ. Quả thật, tôi không đủ sức cáng đáng hết những việc phải
làm".
Vì 60 làng có đạo mà cha Gia phụ
trách ở rải rác cách xa nhau, nên cha phải liên tục di chuyển hết làng này đến
làng khác, và chẳng bao lâu, sức khỏe cha giảm sút mau lẹ. Dù vậy, cha vẫn cố gắng
đến thăm từng họ đạo. Giáo hữu rất yêu mến cha, nhưng luơng dân cố lập mưu bắt
cha để được tiền chuộc hoặc tiền thưởng. Do đó, nhiều lần cha phải đổi chỗ để
thoát khỏi những cặp mắt đang rình rập.
Ba năm truyền giáo đã trôi qua,
ngày 12.07.1773, sau khi ban bí tích cho một bệnh nhân ở Lai Ổn, cha Gia và thầy
Tân về Kẻ Diền bị lọt vào vòng vây của quan phủ Thần Khê. Để đánh lạc hướng, thầy
Tân nhanh trí chèo thuyền quan bên kia sông Luộc, rồi lập tức quay lại cùng cha
trốn vào ở làng Gia Đạo. Không ngờ người gia chủ đi báo với quan để lãnh thưởng
nên cả hai đều bị bắt.
Qua trung gian chánh tổng Xích
Bích, quan đòi 3 ngàn tiền chuộc. Cha đáp : "Quan muốn tha thì tha chứ tôi
không có tiền chuộc. Tôi sẵn sàng chịu mọi gian khổ kể cả cái chết". Sau
nhiều ngày hành hạ cha đủ cách, quan phủ không còn hy vọng đòi tiền chuộc nữa,
mới cho giải nộp lên quan Trấn thủ Sơn Nam ở Phố Hiến (Hưng Yên), và cha Gia bị
tống giam vào ngục.
Giữa tháng 10.1773, cha hân hoan
gặp một tù nhân mới, linh mục Vinh Sơn Liêm bị bắt ngày 02.10 tại Lương Đống,
cũng bị Chánh tổng Xích Bích giam giữ 12 ngày trước khi giải lên. Thật là niềm
vui lớn, hai anh em cùng dòng từ nay sẽ đồng hành với nhau trong ngục tù cũng
như trong vinh quang tử đạo. Ngày 20.10, quan Trấn truyền đóng gông hai cha có
ghi chữ "Hoa Lang Đạo Sư"(1), rồi trao cho quan phủ Thần Khê áp giải
lên Thăng Long.
Tại kinh thành Thăng Long, hai
linh mục dòng Thuyết Giáo có nhiều cơ hội trao đổi về giáo lý với các quan. Cuộc
trang luận nổi tiếng nhất được mệnh danh là "Hội Đồng Tứ Giáo", giữa
đại diện bốn tôn giáo: Khổng giáo, Lão Giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo. Ba đề
tài được đưa ra: Người ta bởi đâu mà có ? Sống ở đời này để làm gì ? Và chết rồi
đi đâu ? Cha Gia với kinh nghiệm giảng đạo ở Phú Kiến, đã thành thạo trưng dẫn
những điển tích, châm ngôn của Trung Hoa, khiến viên quan tổ chức, chú của Chúa
Trịnh Sâm, phải hết sức khâm phục.
Chính Đô Tĩnh Vương Trịnh Sâm
cũng thích hỏi hai cha nhiều chi tiết về đạo. Một hôm, ông yêu cầu cha Gia cử
hành vài nghi lễ cho các quan xem, cha liền mặc áo lễ, cắt nghĩa lễ phục và
trình bày giáo lý cho các quan. Sau đó, cha đặt tượng Thánh Giá trước ngài Tĩnh
Đô Vương, quỳ xuống hôn kính sốt sắng và đọc kinh bằng tiếng Việt các kinh Ăn
Năn Tội, kinh tin Kính, kinh Lạy Cha. Tiếp đó, cha nâng cao ảnh Đức Mẹ và đọc
kinh Lạy Nữ Vương. Cử chỉ và lời kinh của cha gây nhiều xúc động cho những người
hiện diện. Nhưng số phận của cha đã được định đoạt trong chiếu chỉ của phủ chúa
rồi. Có điều bản án đến sớm hơn vì bà mẹ chúa Trịnh Sâm.
Nguyên do bà mẹ của Tĩnh Đô Vương
rất sùng đạo Phật. Khi nghe tin có hai linh mục trẻ tuổi, thông thái lại điển
trai và ăn nói văn hoa, liền yêu cầu được gặp mặt và nói chuyện. Thế là hai vị được
dẫn đến trước mặt Thái Tôn. Rồi một hồi trao đổi thân mật, bỗng nhiên bà hỏi:
"Nếu các thầy nói chỉ có đạo các thầy là đạo thật, vậy những người không
theo đạo, chết đi về đâu ". Cha Liêm điềm nhiên trả lời : "Bẩm bà, sa
hỏa ngục ạ !"(2). Câu trả lời của vị linh mục làm Thái Tôn nổi giận, không
thèm nghe giải thích thêm, đòi xử tử hai ông đạo sư ngay lập tức. Từ đó, hai
cha bị cách ly, không cho gặp ai nữa. Ngày 04.11.1773, sau một buổi nghị án,
chúa Trịnh Sâm tuyên án trảm quyết cả hai vị.
Ngày 07.11.1773, quan quân điệu
hai vị tông đồ đến pháp trường Đồng Mơ thi hành bản án. Trên đường, hai vị cùng
thầm thĩ cầu nguyện xin Chúa thứ tha mọi lỗi lầm, đọc kinh Tin Kính và hát
"Salve Regina" (Kinh Lạy Nữ Vương). Hai chứng nhân Chúa Kitô cùng
lãnh triều thiên tử đạo. Cha Jacintô khi ấy mới 30 tuổi, với sáu năm truyền
giáo ở Trung Hoa và Việt Nam. Nhưng máu ngài đổ ra đã vun tưới cho hạt giống
Tin Mừng âm thầm trổ bông.
Thi hài hai vị tử đạo được an
táng trọng thể ở nhà thờ Trung Linh. Ngày 13.11.1775, trong diễn văn trước Hồng
Y đoàn, Đức Piô VI đã nhắc đến chiến thắng vinh quang của hai vị.
Ngày 20.05.1906, Đức Piô X đã suy
tôn hai chứng nhân anh hùng lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
đặt vé eva airline
vé máy bay đi mỹ eva air
ve may bay korean air
săn vé máy bay đi mỹ giá rẻ
mua vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich