Thứ Tư, 30 tháng 11, 2016

Thứ Năm Tuần I Mùa Vọng Mt 9,27-31.

Lời Chúa: Nhờ tin vào Đức Giê su, hai người mù được chữa khỏi.
Ha-lê-lui-a. Kìa Chúa chúng ta ngự đến uy quyền, sẽ chiếu tỏa ánh quang cho tôi tớ Người rạng ngời đôi mắt. Ha-lê-lui-a.
Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc Chúa ban
trong cõi đất dành cho kẻ sống.
Hãy cậy trông vào Chúa,
mạnh bạo lên, can đảm lên nào !

Hãy cậy trông vào Chúa.

Ngày 02/12 – Chân phước Rafal Chylinski (1694-1741)
Ngài sinh gần Buk, thuộc vùng Poznan tại Ba Lan, tên thật là Melchior. Ngài tỏ ra đạo đức rất sớm, nên gia đình gọi ngài là “tu sĩ nhỏ”. Sau khi học xong tại ĐH Dòng Chúa Cứu Thế ở Poznan, ngài gia nhập kỵ binh và và được thăng cấp sĩ quan trong vòng 3 năm.
Năm 1715, ngài vào Dòng Phanxicô ở Kraków, lấy tên dòng là Rafal, và 2 năm sau được thụ phong linh mục. Sau khi làm mục vụ ở 9 thành phố, ngài tới Lagiewniki (miền Trung Ba Lan), và ở đây 13 năm. Ở đâu ngài cũng nổi tiếng là giản dị, giảng hay, đại lượng. Mọi người noi gương hy sinh của ngài. Ngài chơi đàn harp, đàn lute và mandolin để hòa theo các bài thánh ca phụng vụ. Tại Lagiewniki, ngài phân phát lương thực và quần áo cho người nghèo.
Sau khi qua đời, mộ ngài được nhiều khách hành hương kính viếng ở Ba Lan. Ngài được phong chân phước tại Warsaw năm 1991.

Thứ Năm Tuần I Mùa Vọng Mt 7,21.24-27.

Lời Chúa: Ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, mới được vào Nước Trời.
Ha-lê-lui-a. Hãy tìm gặp Đức chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên. Ha-lê-lui-a.
Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ,
lạy Chúa, xin thương giúp thành công.
Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc lành
cho người tiến vào đây nhân danh Chúa.
Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành anh em.
Đức Chúa là Chúa Thượng, Người giãi sáng cho ta.

Ngày 01/12 – Chân phước Gioan Vercelli (khoảng năm 1205-1283)
Ngài sinh gần Vercelli, Tây Bắc Ý. Không biết rõ về cuộc đời ngài lúc đầu. Ngài vào Dòng Đa Minh hồi thập niên 1240 và giữ các chức vụ lãnh đạo trong niều năm. Ngài được bầu làm tổng đại diện Dòng Đa Minh năm 1264, ngài phục vụ gần 20 năm. Ngà nổi tiếng có nghị lực và giản dị, thường đi bộ tới thăm các cơ sở Dòng Đa Minh, thúc giục các tu sĩ sống vâng lời và giữ hiến pháp Dòng.
Ngài được 2 vị giáo hoàng trao trọng trách đặc biệt. ĐGH Grêgôriô X giúp ngài và các tu sĩ Dòng Đa Minh để giúp ổn định nước Ý đang gặp rắc rối với nước khác. Ngài được mời phác thảo chương trình Công đồng Lyon II năm 1274. Tại công đồng này ngài đã gặp Giêrônimô Ascoli (sau là ĐGH Nicôla IV), lúc đó là tổng đại diện Dòng Phanxicô. Thời gian sau, hai vị này được Rôma phái đi điều đình vấn đề liên quan vua Philip III của Pháp. Một lần nữa, chân phước Gioan Vercelli có thể biểu hiện tài thương thuyết và kiến tạo hòa bình.
Sau Công đồng Lyon II, ĐGH Grêgôriô X giao cho ngài nhiệm vụ rao truyền lòng sùng kính Thánh danh Chúa Giêsu. Ngài yêu cầu mỗi nhà nguyện của Dòng Đa Minh đều có bàn thờ tôn sùng Thánh danh Chúa Giêsu, và thành lập những nhóm chống lại việc báng bổ và coi thường. Tới cuối đời, ngài được giao trách nhiệm làm giáo phụ Giêrusalem, nhưng ngài từ chối. Ngài vẫn là tổng đại diện Dòng Đa Minh cho đến khi qua đời.


Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016

Ngày 30-11-1803-1835 Thánh Giuse Marchand Du Linh mục Thừa Sai Paris Tử đạo.

Giuse Du (Joseph Marchand), Sinh năm 1803 tại Passavaut, Besancon, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Ngoài, bị xử hình bá đao ngày 30/11/1835 tại Thợ Ðúc dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII đã suy tôn linh mục Marchand Du lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 30/11.
* Người tử hùng bá đao.
Trong 117 thánh tử đạo Việt Nam, cuộc tử đạo của thánh Marchand Du mang màu sắc bi tráng nhất. Với gần ba tháng trong chiếc cũi chật hẹp, và những cuộc tra tấn chết đi sống lại, ngài là vị duy nhất bị án bá đao, nghĩa là bị cắt xẻo 100 nhát trước khi bị chặt ra làm bốn phần, còn thủ cấp bị nghiền nát đổ xuống biển.

Tuy nhiên, chúng ta không nên quá nhấn mạnh đến những đau thương trong cuộc tử nạn, mà quên mất chứng từ đời sống của thánh nhân : sự nhiệt tâm truyền giáo, lòng yêu mến các tín hữu và chí cương quyết chỉ phục vụ Tin Mừng.

Thánh Giuse Marchand Du Lm Tử đạo
* Mong ước tuổi xuân.
Đầu thế kỷ XIX, tại làng Passavant, nước Pháp, nhiều người đã phải ngạc nhiên khi thấy hành vi của một cậu bé chưa đầy mười tuổi : sau giờ học, cậu rủ các bạn hữu về nhà, khiêng bàn, trải khăn làm bàn thờ, trang hoàng hoa nến, đặt cây Thánh Giá, rồi bắt trước các cử điệu như khi linh mục dâng lễ Missa cho các bạn xem. Đó là cậu bé Giuse Marchand.
Mở mắt chào đời ngày 17.8.1803 tại làng Passavant, tỉnh Doubs. Ngay từ niên thiếu, dân làng đã thấy rõ ước muốn trở thành linh mục của cậu. Sau khi rước lễ lần đầu, cậu xin cha mẹ đi tu, nhưng vì gia đình làm nghề nông túng nghèo, thiếu người lao động, nên cha mẹ cậu tìm cách trì hoãn cho cậu đổi ý. Tuy nhiên, Marchand đã không thay đổi ý định, cậu kiên quyết hoàn thành mộng ước tuổi xuân, và cuối cùng bên người đổi ý là song thân của cậu. Năm 18 tuổi, Marchand gia nhập chủng viện giáo phận Besacon. Năm 1828, sau khi lãnh chức phó tế, thày Marchand xin chuyển sang Hội Thừa Sai Paris. Độ nửa năm, thầy được thụ phong linh mục (04.4.1829), sau đó một tháng thì đáp tàu đi Macao đến Việt Nam giảng đạo.
* Nhà du thuyết nhiệt tâm.
Tháng 3.1830, cha Marchand vào tới Việt Nam, và lấy tên mới là Du. Sau một thời gian học tiếng và phong tục Việt Nam tại Lái Thiêu, cha du được cử tới Pnom-Pênh để coi sóc các tín hữu Việt Nam tại đây (khi đó đất Campuchia thuộc giáo phận Đàng Trong). Thế rồi ít lâu, cha được gọi về Lái Thiêu coi sóc các chủng sinh, đồng thời phụ trách 25 giáo họ, với khoảng 7000 tín hữu thuộc tỉnh Bình Thuận.
Trong thư đề ngày 13.6.1832 gởi về quê nhà cha viết : "… 25 giáo họ cách nhau rất xa. Muốn chu toàn bổn phận, con không thể bỏ phí một giây nào… từ năm giờ sáng đến chín giờ tối, nhiều ngày chẳng có lúc nào rảnh rỗi cả. Con chỉ có thể dành chút thời giờ chu toàn việc đạo đức riêng lo cho phần rỗi mình, còn thì luôn luôn phải làm việc để thánh hóa kẻ khác… Con chỉ tiếc một điều là không thể tận tụy hơn được nữa, để vừa giúp giáo dân, vừa giúp lương dân, lại cón phải bắt buộc di chuyển bằng thuyền, nên không thể đi mọi nơi, hầu dẫn về đoàn chiên Chúa Giêsu những con chiên bất hạnh lạc đường…".
Cha Du mới đi hết 25 giáo họ này được hai lần thì ngày 16.1.1833 vua Minh Mạng ra chiếu chỉ lùng bắt các giáo sĩ Âu Châu. Đức cha Tabert Từ, cha Cuénot Thể và các thừa sai dẫn theo các chủng sinh trốn qua Thái Lan. Chỉ mình cha Du nhất nhất quyết ở lại, ẩn tránh ở miền Lục Tỉnh, giúp các họ Cái Nhum, Cái Mơn, Bãi Xan, Giồng Rùm, và trú ngụ tại Mặc Bắc, Vĩnh Long.
* Tôi chỉ biết một điều là giảng đạo.
Lê văn Khôi thực ra có họ Nguyễn, từng nổi loạn ở Cao Bằng, sau ra đầu thú, được Tả quân Lê Văn Duyệt nhận làm con nuôi, mới đổi qua họ Lê. Lợi dụng việc vua Minh Mạng xử tệ với Tả quân (khi đó đã thất lộc cho đánh trên mộ 100 trượng), Lê văn Khôi liền lấy cớ phò cháu đích tôn của vua Gia Long, con hoàng tử Cảnh tên là Đản. Việc bại lộ, khôi bị bắt. Đến 05.7.1833, ông với khoảng 30 bạn tù vượt ngục, giết một vài quan, thả các tù nhân khác, rồi chiêu binh chiếm Phiên An (sài Gòn) và miền Lục Tỉnh.
Lê Văn khôi tuy ngoại đạo, ngưng đã khôn khéo hứa hẹn bãi bỏ các lệnh cấm đạo của vua Minh Mạng, nên một số tín hữu theo ông. Để có thể quy tụ nhiều người Công Giáo hơn ủng hộ mình, Lê Văn Khôi cho mời cha Du về Sài Gòn, cha từ chối. sau vì một số tín hữu Chợ Quán nói : "Nếu cha không chịu về, sợ quan giận mà chém hết bổn đạo trong thành. Ở đó bổn đạo cũng đông lắm…". Thế là cha Du đành lòng về xứ Chợ Quán ở nhà thờ cha Phước, nhưng rất ít khi ở nhà, cha lo đi thăm các gia đình tín hữu. Lê văn Khôi nhiều lần mời, cha vẫn không chịu vào trong thành.
Khi quân triều đình vây thành Gia Định, Khôi cho quan đem voi ra Chợ Quán bắt ép cha Du phải vào thành. Cha Phước và nhiều tín hữu cũng theo vô. Trong thành, tướng Khôi xử đãi cha khá rộng rãi, có nhà riêng để dâng lễ hàng ngày, các tín hữu có thể tụ tập ở đó để đọc kinh, nghe giảng và lãnh các bí tích. Khôi có ý mua chuộc để cha tiếp sức, nhưng trước sau cha chỉ nói : "Tôi chỉ biết việc đạo, còn nghề giặc giã binh lính, tôi không rành".
Một hôm cha được mời vào dinh nguyên soái. Một xấp thư kêu gọi dân chúng và tín hữu nổi dậy chống nhà vua để trên bàn. Tướng khôi xin cha ký tên. Vị linh mục thấy rõ đã đến lúc tỏ rõ lập trường của mình, liền đứng dậy cầm xấp thư, ném tất cả vào lửa. Dầu vậy quân của Khôi không dám làm gì cha, vì sợ các tín hữu trong đội quân sẽ chống lại.
Sau hơn hai năm vây hãm, ngày 08.9.1835 quân chiều đình đã chiếm lại được thành Phiên An. Cha Du vừa cử hành thánh lễ xong thì bị bắt, bị đánh đập và bị nhốt vào cũi nhỏ, dài một mét (1m), rộng bảy tấc (0.7m), cao tám tấc (0.8). Đó sẽ là "nhà ở" của cha cho đến ngày xử tử, căn nhà mà chủ nhân chỉ có thể ngồi khom lưng suốt ngày đêm.
Số người bị tàn sát lên đến 1994, trong đó có 66 tín hữu (chỉ có 20 nam, còn bao nhiêu là phụ nữ và trẻ em), cha Phước cũng bị xử lăng trì (chặt chân tay, rồi chẻ thân hình làm bốn). Cha Du được đưa ra xét xử
- Giặc đã đem thầy vào thành, thầy không làm gì để chúng giúp chúng sao?
- Tôi chỉ lo việc giảng đạo mà thôi…
- Giảng đạo là giống gì ?
- Là đọc kinh, làm lễ và dạy dỗ bổn đạo.
- Thầy có biết làm thuốc mê để dỗ lòng ngụy cho nó theo không?
- Tôi chỉ biết có một việc là giảng đạo mà thôi.
Sau hai cuộc tra vấn nữa, cha Du bị giam trong cũi và bị áp giải về kinh đô cùng với tổng Trắm, đồ Hoành bốn Bang, phó Nhã và con trai Lê văn Khôi là Lê văn Viên mới bảy tuổi. Đoàn người vế tới Phú Xuân ngày 15.10, cha du bị gaim trong ngục Võ Lâm gần tòa Tam Pháp.

* Đàng sau bản án phản loạn.
Hôm sau 16.10, cha Du bị đưa ra tòa Tam Pháp. Các quan cố ép cha nhận tội giúp Khôi làm loạn. Nhưng cha khẳng định : "Tôi chỉ lo cầu nguyện cùng Chúa và làm lễ thôi". Quan hạch hỏi: - Có phải người gửi thư vô Xiêm, cùng gửi thư cho quân Gia Tô trong Đồng Nai, biểu nó đến giúp ngụy không ?
Cha Du trả lời : "Ông Khôi có yêu cầu tôi viết thư, song tôi không chịu viết, một nói cho ông ấy hay : Đạo tôi cấm làm như vậy và tôi thà chết chẳng thà làm theo lời ông ấy. Dầu thế ông Khôi còn đêm mấy bức thư ra, biểu tôi ký tên vào, thì tôi lấy mấy cái thư ấy mà đốt đi trước mặt ông ấy".
Để bắt cha nhận tội, tối hôm sau, các quan dùng đủ cực hình kìm kẹp : Họ cho nung đỏ kìm sắt và cho kẹp hai lần vào hai đùi cha, rồi giữ nguyên cho tới khi kìm nguội. Một lần như vậy mùi thịt cháy xông lên khét lẹt, chính quân lính cũng phải quay mặt đi. Vị anh hùng đức tin hai lần ngất xỉu, nhưng vẫn giữ nguyên lời khai cũ. Họ đành nhốt cha vào cũi lại, rồi đưa về ngục.
Để tạo chứng gian buộc tội cha, các quan dỗ con trai Lê văn Khôi, hứa trả tự do nếu khai rằng "Ông thày Tây" giúp cha em khởi nghĩa. Nhưng cậu bé bảy tuổi ấy không biết nói dối, cậu nói cha Du hoàn toàn vô can, dầu cha cậu có hứa hẹn, khuyên dụ nhiều phen.
Cuối cùng, các quan đành xoay qua "tội giảng đạo". Họ nhắc đến chiếu chỉ nhà vua, và hứa ân xá nếu cha bước qua Thánh Giá. Cha Du cám ơn quan và tuyên bố sẵn sàng chịu cực hình, chứ không thể thất trung với Chúa. họ lại tiếp tục nhốt cha trong cũi. Sáu tuần lễ ở kinh đô đã trôi qua như thế. Các tín hữu ghé vào thăm và tiếp tế cho cha, đều thuật lại rằng : "Cha Du vẫn luôn vui vẻ và thường cầm cuốn sách nhỏ để đọc đêm ngày".
Thừa lệnh vua Minh Mạng, bản án cuối cùng được viết như sau : "Tây dương ma Sang kêu là danh Du, Gia Tô đạo trưởng, phò ngụy Khôi, nhận tội viết thư xin Hồng Mao (nước Anh) và Xiêm La (Thái Lan) sang giúp ngụy thần. Lệnh xử bá đao".
* Chết vì lý do tôn giáo.
Sáng sớm 30.11.1835, bảy phát súng thần công nổ vang kêu gọi mọi người đến tham dự cuộc xử án. Cha Du, ba vị tướng của Khôi và em Lê Văn Viên được đưa ra khỏi cũi (phó Nhã đã chết trong ngục), mọi người chỉ được đóng khố, rồi dẫn đến cửa Ngọ Môn trình diện và phục lạy vua năm lạy. Vua Minh Mạng tỏ vẻ giận dữ ném chiếc cờ hiệu xuống đất. Đó là dấu không ân xá lần cuối, năm tội nhân được đưa ra pháp trường. Riêng cha Du, theo mật lệnh, được đưa vào tòa Tam Pháp tra khảo một lần nữa. Đọc nội dung cuộc tra khảo này, chúng ta thấy quan quân không đá động gì đến lý do chính trị cả !
Năm người lính cầm năm kìm nung đỏ kẹp vào bắp vế cha. phía sau là năm người lính khác cầm roi để năm lý hình không được phép nương tay. Ba lần kìm kẹp, thân thể cha Du có đủ 15 vết bỏng. Song song với cuộc tra tấn là mẫu đối thoại sau :
- Tại sao Gia Tô móc mắt mấy người gần chết?
- Không có, không bao giờ tôi thấy điều đó.
- Tại sao mấy người kết hôn lại phải đến các thày đạo trước bàn thờ ?
- Họ đến để thày cả chúc phúc và chứng nhận trước mặt các tín hữu ở đó.
- Khi làm yến tiệc trong nhà thờ, bay làm những sự quái gở lắm phải không ?
- Không, chẳng có những điều quái gở.
- Vậy sao có thứ bánh dùng làm bùa mê thuốc lú để phát cho những đứa đã xưng tội mà làm nó mê đạo đến thế?
Cha Du kiệt sức không thể trả lời được nữa. Lính dọn cho tử tội bữa ăn sau cùng, nhưng cha không dùng chi cả, chỉ lo cầu nguyện với Chúa. Sau đó, lính đưa các tử tội đến pháp trường tại họ Thợ Đúc bên sông Hương, cách kinh thành một dặm đường.

* Chết như một tội nhân.
Năm cây cọc đã cắm sẵn. Lính trói năm tử tội, cha Du bị trói vào cây cọc thứ hai. Ngài bị án "Phản loạn" và sẽ chết giữa những người phản loạn. Dân chúng bị đuổi lùi ra xa 30 thước. Cứ mỗi tử tội lại có ba lý hình, một cầm kìm, một cầm đao, còn một lo đếm số cho đủ 100 lát cắt. Trước đó, lính đã nhét vào miệng tội nhân và cột chặt, để không ai có thể kêu la được nữa.
Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da trên trán cha Du lật xuống che mặt, rồi cắt từng mảnh hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn, vị chứng nhân giẫy giụa, quằn quại, ngước mắt lên trời cao rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa đời. Tiếp theo quân lính cắt đầu của ngài, cởi dây, bổ thân mình làm bốn, và ném xuống biển chung với bốn tử tội kia. Còn thủ cấp cha, được đưa đi bêu ở nhiều nơi, rồi được trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.
Ngày 30.11.1835 cũng là ngày kính thánh Anrê. Các thánh lễ hôm đó đều đọc lại đoạn sách Isaia (Is. 52,7): "Đẹp thay bước chân người rao giảng Tin Mừng" như lời chúc tụng vị thừa sai đã hoàn tất sứ mạng tông đồ của mình. Giáo Hội đã rất thận trọng khi nghiên cứu hồ sơ cha Marchand Du, căn cứ vào các buổi tra khảo, nhất là cuộc thẩm vấn cuối cùng, Giáo Hội khẳng định ngài đã hiến mạng sống vì đức tin.
Đức Lêo XIII đã suy tôn linh mục Marchand Du lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng  Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Thứ Tư Thánh Anrê Tông Đồ Lễ kính Mt 4,189-22.

Lời Chúa: Lập tức, các ông bỏ chài lưới mà theo Người.
Ha-lê-lui-a. Chúa nói: Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Ha-lê-lui-a.
Chẳng một lời một lẽ,
chẳng nghe thấy âm thanh,
mà tiếng vang đạ dội khắp hoàn cầu

và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.

Ngày 30/11 – Thánh Anrê, Tông đồ
Khi Chúa Giêsu xuất hiện, thánh Gioan giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Thánh Anrê và một tông đồ nữa đã theo Chúa Giêsu. “Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Họ đáp: “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1:38-39).
Phúc âm ít nhắc đến thánh Anrê. “Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (x. Ga 6:8-9). “Trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu”. Ông Philípphê đi nói với ông Anrê. Ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu” (x. Ga 12:20-22).
Truyền thuyết nói rằng thánh Anrê rao giảng Phúc âm ở nơi mà ngày nay là Hy Lạp và Thổ NHĩ Kỳ, rồi bị đóng đinh theo hình chữ X tại Patras, thuộc Achaea, Hy Lạp. Thánh Anrê là một trong các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Ngài là em thánh Phêrô, sinh tại Bethsaida gần biển Galilê. Hai anh em làm nghề đánh cá. Khi ấy, Chúa Giêsu đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simôn, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mt 4:18-20).
Sau khi Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, thánh Anrê rao giảng Phúc âm ở Tiểu Á, ở Scythia và ở Kiev.
Thánh tích của ngài là một ngón tay, một mảnh xương sọ và vài mảnh thập giá. Những thứ này được giữ tại nhà thờ thánh Anrê ở Patras.
Thánh Anrê là thánh bổn mạng của nước Tô Cách Lan, Nga và Hy Lạp. Người Tô Cách Lan mừng lễ thánh Anrê vào ngày 30-11. Lá cờ của nước Tô Cách Lan là Thập giá của thánh Anrê.

Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2016

Thứ Ba Tuần 1 Mùa Vọng Lc 10,21-24.

Lời Chúa: Được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng.
Ha-lê-lui-a. Kìa Chúa chúng ta ngự đến uy quyền, sẽ chiếu tỏa ánh quang cho tôi tớ Người rạng ngời đôi mắt. Ha-lê-lui-a.
Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,

và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.

Ngày 29/11 – Tôi tớ Chúa Gioan Monte Corvinô, Giám mục (1247-1328)
Ngài rao giảng Phúc âm cho người Mông cổ, rồi tới Trung quốc vào khoảng thời gian Marco Polo trở lại.
Ngài đã từng là một binh sĩ, thẩm phán và bác sĩ, rồi đi tu. Năm 1278, ngài tới Tabriz, Persia (Iran ngày nay), ngài có tiếng giảng hay và dạy giỏi. Năm 1291, ngài rời Tabriz với tư cách là đại diện của ĐGH Nicholas IV tới triều đình của Kublai Khan. Ngài và một thương gia người Ý tới Trung quốc năm 1294, khi Kublai Khan đã băng hà.
Nhiều Kitô giáo phản đối giáo huấn của Công đồng Êphêsô về Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã hoán cải một số người và một số người Trung quốc, kể cả Hoàng tử George của lảnh địa Tenduk, thuộc Tây Bắc của Bắc Kinh. Hoàng tử George đã đặt tên con trai mình theo tên tu sĩ Gioan Monte Corvinô.
Ngài thành lập cơ quan chính ở Khanbalik (Bắc Kinh ngày nay), tại đây ngài đã xây 2 nhà thờ. Năm 1304, ngài dịch các Thánh vịnh và Tân ước sang tiếng Tatar.
Trả lời 2 lá thư của ngài, ĐGH Clêmentô V đã bổ nhiệm ngài làm TGM GP Khanbalik năm 1307, và tấn phong 7 tu sĩ khác làm giám mục các giáo phận khác. Một vị ở lại Âu châu, 3 vị qua đời trên đường tới Trung quốc, 3 vị khác và các tu sĩ theo bước họ tới Trung quốc năm 1308.
Khi ngài qua đời, nhiều người Kitô giáo và ngoài Kitô giáo đều thương tiếc. Mộ ngài trở nên nơi hành hương. Năm 1368, Kitô giáo bị bách hại khi người Mông cổ bị trục xuất khỏi Trung quốc, và đời nhà Minh bắt đầu.

Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2016

Ngày 28-11-1814-1835 Thánh Anrê Trần văn Trông Quân nhân Tử đạo.

Thánh Anrê Trần Văn Trông sinh năm 1814 trong một gia đình Công Giáo ở Kim Long, Phú Xuân (Huế). Cậu là con trai duy nhất trong nhà. Năm lên 15 tuổi, cha cậu mất sớm, gia đình phải lâm vào cảnh mẹ góa con côi. Vì thương mẹ và không muốn mẹ phải chịu khổ nhiều, nên Anrê Trông đành thu xếp sách đèn, theo chân bà con lối xóm về họ Thợ Ðúc dệt tơ cho hoàng gia. Ảnh hưởng sự giáo dục từ người mẹ hiền, cậu ngay thẳng thật thà, luôn chăm chỉ làm việc và không ưa những chuyện gây gỗ, bất hòa. Mỗi buổi chiều, sau những giờ lao động mệt mỏi, cậu thường vác cần câu đến ngồi bên bờ sông Hương xanh biếc, để được gần gũi với thiên nhiên.

Năm 20 tuổi, Anrê Trông cảm thấy với đồng lương ít ỏi của nghề thợ dệt tơ không đủ nuôi sống gia đình, cậu đành giã từ mẹ lên đường nhập ngũ.

Sau tám tháng phục vụ trong quân đội, tháng 11 năm 1834, triều đình ra lệnh những binh sĩ Công Giáo phải ra trình diện. Không chút e dè, Anrê Trông cùng với 12 đồng đội cùng ở khu Thợ Ðúc đến ra mắt quan. Quan yêu cầu các anh phải tuân lệnh nhà vua bỏ đạo và đạp lên Thánh Giá. Cả 13 chiến sĩ Công Giáo đều cương quyết khước từ. Các quan bèn dùng biện pháp tra tấn dã man... Lần lượt 12 người từ từ bỏ cuộc, chỉ còn một mình Anrê Trông vẫn trung kiên đến cùng. Quân lính trói anh lại khiêng qua Thánh Giá, nhưng anh co chân lên quyết không xúc phạm đến ảnh Chúa. Thế là từ trại lính, anh bị tống qua trại giam. Các quan kết án tử hình, nhưng còn giam hậu, nghĩa là chưa xử tử ngay.
Suốt một năm bị giam trong ngục, Anrê Trông chịu nhiều điều cơ cực khổ sở, nhưng niềm tin của anh qua những thử thách đó càng ngày càng vững mạnh. Anh sốt sắng cầu nguyện và đặc biệt phó thác đời mình cho Ðức Mẹ, xin Chúa vì lời Mẹ Maria chuyển cầu ban cho ơn trung tín đến cùng. Những món quà tiếp tế nhận được, anh chia sẻ cho các bạn tù và lính canh ngục, nên được họ quí mến. Cũng chính nhờ đó, anh có cơ hội đặc biệt để đi xưng tội, rước lễ và thăm mẹ.
Khi biết tin có cha Ngôn đang hoạt động ở Phú Xuân, Anrê Trông liền xin viên cai ngục và cậu được phép về nhà một ngày dưới sự giám sát của một người lính. Nhờ đã dò hỏi rõ nơi ở của vị linh mục, Anrê Trông và người lính chèo thuyền đến bến đò kia vào giữa lúc trưa. Lúc đó, mọi người dân chài đã lên bờ ăn uống nghỉ ngơi. Anh Anrê Trông liền bước qua thuyền của cha Ngôn, đẩy thyền trôi nhẹ ra giữa dòng. Hai người nhỏ to tâm sự và anh quỳ xuống lãnh phép lành tha tội. Xưng tội xong, anh ngỏ ý xin rước lễ, cha Ngôn hẹn anh sáng hôm sau tại Kẻ Văn. Thế rồi anh và người lính tiếp tục chèo thuyền về Kim Long. Hai người lên bờ và ngủ tại nhà mẹ một đêm. Tả sao cho xiết niềm vui của hai mẹ con được tái ngộ trong hoàn cảnh bất ngờ này. Mẹ anh đã hết lời khích lệ động viên anh kiên tâm vì đức tin.

Tảng sáng hôm sau, anh Anrê Trông và người lính gác vội vã chèo thuyền đến điểm hẹn. Gặp lại vị "khách quí" là cha Ngôn, anh liền quỳ xuống lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Cha Ngôn chúc lành: "Ước gì Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô sẽ gìn giữ con đến cuộc sống muôn đời". Anh thưa: "Amen". Rồi trong niềm hân hoan vì hồng phúc mới lãnh nhận, anh vui vẻ trở về trại giam như lời hứa với viên cai ngục.
Sau một năm giam tù, thấy không hy vọng gì Anrê Trông thay đổi ý kiến, các quan quyết định ngày xử là 28/11/1835. Sáng hôm đó, người chiến sĩ đức tin gặp được người anh họ mình. Anh ta hỏi có muốn ăn gì không? Anrê Trông trả lời: "Em muốn ăn chay để dọn mình tử đạo", rồi nói tiếp: "Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Ðừng lo gì cho em cả, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện, và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết". Nhưng thực tế, người anh họ chưa kịp nhắn lại. Bà mẹ của Anrê Trông khi hay tin con bị đem xử, liền vội vã ra đón con ở đầu chợ, nơi con sắp đi qua, gặp con, bà chỉ hỏi một câu vắn tắt: "Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần ai chăng, nếu có thì cho mẹ hay, mẹ sẽ trả thay con". Tấm lòng người mẹ là thế đấy. Bà biết rõ con của mình đủ can đảm chịu mọi đau đớn, giờ đây bà chỉ lo cho con về đức công bình.
Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh thêm lời khích lệ. Ðến nơi xử, sau khi quân lính tháo gông xiềng, người chiến sĩ đức tin liền đón lấy, trao cho người lính cạnh bên và nói: "Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm". Mẹ anh đứng gần nên nghe rất rõ, nhưng bà chưa lấy kỷ vật đó làm đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa.

Chiêng trống nổi lên, lý hình vung gươm, đầu vị tử đạo 21 tuổi rơi xuống. Bà mẹ của Anrê Trông chứng kiến ngay từ giây phút đầu tại pháp trường, bà thỏa lòng dù rất khổ đau, bước ra đòi viên chỉ huy trao thủ cấp con bà.
Trong hạnh tích thánh Anrê Trông, người quân nhân xứ Huế, Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII ca tụng người mẹ của thánh Anrê Trông đã thể hiện lòng can trường "theo gương Nữ Vương Các Thánh Tử Ðạo". Như Ðức Maria dưới chân Thánh Giá dâng hiến người Con Yêu Dấu, bà mẹ đó cũng có mặt trong cuộc hành quyết để hiến dâng người con trai duy nhất của mình. Bà đi bên cạnh con, không than khóc không sầu buồn, trái lại còn bình tĩnh vui vẻ khuyên con hãy bền chí đến cùng. Khi đầu Anrê Trông rơi xuống, bà mạnh dạn bước vào pháp trường kêu lớn tiếng trước mặt các quan: "Ðây là con tôi, đứa con mà tôi đã cưu mang dưỡng dục. Giờ này nó vẫn là con tôi, xin các ông trả lại tôi cái đầu của con tôi". Nói xong, bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp đẫm máu của người con yêu quí. Bọc trong vạt áo rồi ghì chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lặp đi lặp lại: "Ôi con yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ nhé!" rồi bà đem về mai táng trong nhà.
Ngày 27/05/1900, Ðức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn người chiến sĩ anh hùng Anrê Trông lên hàng Chân Phước. Ngài cũng không ngớt lời ca ngợi mẫu gương của bà mẹ hào hùng, đã họa lại gần trọn vẹn hình ảnh Ðức Maria, Nữ Vương Các Thánh Tự Ðạo xưa trên đỉnh Canvê. Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh.

Thứ Hai Tuần 1 Mùa Vọng Mt 8,5-11.

Lời Chúa: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc trong Nước Trời.
Ha-lê-lui-a. Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin ngự đến mà giãi thoát chúng con; xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời, để chúng con được ơn cứu độ. Ha-lê-lui-a.
Nghĩ tới anh em cùng là bằng hữu,
tôi nói rằng: ‘Chúc thành đô an lạc’
Nghĩ tới đền thánh Chúa, Thiên Chúa chúng ta thờ,

tôi ước mong thành được hạnh phúc, hỡi thành đô.

Ngày 28/11 – Thánh James Marche, Linh mục (1394-1476)
Ngài sinh tại Marche, thuộc Ancona, Trung Ý, dọc theo biển Adriatic. Sau khi đạt học vị tiến sĩ về giáo luật và dân luật tại ĐH Perugia, ngài vào Dòng Phanxicô và sống khổ hạnh. Ngài ăn chay 9 tháng trong năm, mỗi đêm chỉ ngủ 3 giờ. Thánh Bernardine Siena nói ngài đền tội vừa phải thôi.
Ngài học thần học với thánh Gioan Capistranô, thụ phong linh mục năm 1420, đi rao giảng khắp nước Ý và ở 13 nước thuộc Trung Âu và Đông Âu. Ước tính ngài đã làm cho khoảng 250.000 người trở lại đạo và giúp phổ biến lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu. Lời ngài giảng làm cho nhiều người Công giáo canh tân đời sống và nhiều thanh niên gia nhập Dòng Phanxicô.
Cùng với các thánh Gioan Capistranô, Albertô Sarteanô and Bernardine Siena, thánh James được coi là một trong 4 cột trụ của Phong trào Observant của Dòng Phanxicô (theo đùng nghi lễ). Các tu sĩ này nổi tiếng giảng hay.
Để đấu tranh chống ăn lời cao, thánh James thành lập Hội montes pietatis (nghĩa đen là Núi Bác ái) – một tổ chức phi lợi nhuận cho vay tiền và cầm đồ với mức lời thấp. Ai cũng phấn khởi với việc ngài làm. Khi đối mặt ngài, 2 kẻ ám sát đã không dám giết ngài. Ngài được phong thánh năm 1726.

Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2016

Chúa Nhật I Mùa Vọng Năm A

Lời Chúa: Anh em hãy canh thức để được sẵn sàng.
     Hôm ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Thời ông Nô-ê thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.

     Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”

SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
     Bài Tin Mừng hôm nay nói về ngày tận thế sẽ bất ngờ xảy đến, tất cả những biến cố được mô tả cho thấy rằng trần gian không phải là quê hương vĩnh viễn, thế nhưng mà nhiều người lại dừng chân ở đó. Họ cố gắng tìm tòi vật chất và ra sức xây dựng một thiên đường trần gian, đó chính là trường hợp của những kẻ mà ngày xưa đã bị nạn hồng thuỷ cuốn trôi, những ai không biết đọc những dấu chỉ thời đại rồi cũng bị những tai hoạ bất ngờ đổ xuống như vậy.
     Vì thế, nhiệm vụ của chúng ta không phải là tìm kiếm ngày giờ của sự chết, hay ngày giờ tận thế, nhưng là chuẩn bị tâm hồn để có thể đứng vững trước mặt Con Người, khi Ngài đến. Như lời thánh Phaolô nhắn nhủ: Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi bất chính và mang lấy khí giới của ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tỵ, không hận thù chia rẽ, nhưng hãy mặc lấy Đức Kitô và sẵn sàng chờ đón Con Người.
     Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin nghe lời con dân Chúa khẩn cầu. Chúng con đang sống trong niềm vui của những ngày đón chờ Con Chúa quang lâm. Xin cho mỗi gia đình của chúng con, biết nỗ lực góp phần bảo vệ môi trường sống và vẻ đẹp của muôn loài do Chúa đã dựng nên.  Amen

Ngày 27/11 – Thánh Francesco Antonio Fasani, Linh mục (1681-1742)
Ngài sinh tại Lucera (Đông Nam Ý), vào Dòng Phanxicô năm 1695. Sau khi thụ phong linh mục được 10 năm, ngài dạy triết học cho các tu sĩ trẻ, làm người gác cổng nhà dòng và được bầu làm giám tỉnh. Khi hết nhiệm kỳ, ngài làm giáo tập và linh hướng.
Ngài có lòng yêu thương, đạo đức và đền tội. Khi nghe án phong thánh, một nhân chứng làm chứng về sự thánh thiện của ngài: “Cách ngài giảng rất thân thiện, đầy tình yêu dành cho Chúa và cho tha nhân, đầy Chúa Thánh Thần, ngài nói và làm như Kinh thánh, đánh động lòng người và khiến người nghe ăn năn đền tội”.
Ngài luôn tỏ ra là người bạn trung thành của người nghèo, không bao giờ lưỡng lự giúp đỡ những gì người khác cần. Khi ngài qua đời, nhiều người than khóc ngài: “Thánh nhân đã qua đời! Thánh nhân đã qua đời!”. Ngài được phong thánh năm 1986.

Thứ Năm, 24 tháng 11, 2016

Ngày 26-11-1783-1839 Thánh Tôma Đinh Viết Dụ Linh mục dòng Đaminh Tử đạo.

Tôma Ðinh Viết Dụ, Sinh năm 1783 tại Phú Nhai, Nam Ðịnh, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 26 tháng 11 năm 1839 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII suy tôn linh mục dòng Đaminh, cha Tôma Đinh Viết Dụ lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 26/11.

Giả thiết có ai đặt câu hỏi như sau : "Anh sắp bị giam tù lâu ngày, anh muốn mang theo cái gì ?". Mỗi người chúng ta sẽ có câu trả lời riêng, nhưng xoay quanh hai nhu cầu là tiền bạc và đồ dùng thường nhật. Câu trả lời bằng hành động của thánh Tôma Dụ lại rất khác. Tài sản duy nhất, vũ khí duy nhất, cũng là hành lý duy nhất của ngài là một chuỗi tràng hạt Mân Côi. Suốt đời cha đã đọc, đã sống và truyền bá kinh Mân Côi cho mọi người, giờ đây cha tiếp tục phó thác bản thân cho sự bảo trợ của Mẹ Maria.

Thánh Tôma Đinh Viết Dụ Linh mục Tử đạo
* Một đời hiến dâng.
Tôma Đinh Viết Dụ sinh khoảng năm 1783, tại làng Phú Nhai, tỉnh Nam Định. Được Chúa kêu gọi, từ bé, cậu đã quyết tâm sống đời tu trì. Sau khi thụ phong linh mục, cha Dụ xin nhập dòng Đaminh và khấn ngày 21.12.1814. Cha là một tông đồ nhiệt thành dấn thân vì lợi ích các linh hồn. Đồng thời cha cũng là một tu sĩ gương mẫu về đời sống chiêm niệm, ngày đêm chìm đắm trong suy gẫm cầu nguyện, đến nỗi các bạn trong dòng đã gọi ngài là "Thánh Brunô Việt Nam".
Cha Dụ đã hoạt động tông đồ nhiều nơi, trước khi tới họ Liễu Đề, Bùi Chu, thay thế cha Phêrô Tuần bị bắt năm 1838. Ngày 20.03.1839, dưới thời vua Minh Mạng cấm đạo, Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dẫn 800 quân lính bao vây, lục soát làng Liễu Đề, vì có người chỉ điểm báo tin "Danh Trùm Vọng" tức cha Hemoisilla Liêm đang ở đó, nhưng lính không bắt được cha Vọng. Phần cha Dụ, khi vừa hoàn tất thánh lễ tại nhà bà Anrê Thu, được tin quan quân đã vây kín làng, biết không kịp đến nơi trú ẩn cách đó hơi xa, cha đành cải trang thành người làm vườn qua nhà bên cạnh lúi húi ngồi nhổ cỏ. Quân lính đi ngang qua không biết, nhưng người tố cáo nhận ra được và nói : "Đạo trưởng đấy". Thế là cha bị bắt và dẫn đến quan đang ở đình làng. Cha bình tĩnh nói : "Tôi là Đạo trưởng, có nhiệm vụ coi sóc giáo hữu ở đây".
Tiếp đó, quan hỏi về thừa sai Vọng và các linh mục khác ở đâu, cha nhất quyết không trả lời chi cả. Quan tức giận cho lục soát khắp người xem có tiền bạc giấy tờ gì không. Nhưng ông hoàn toàn thất vọng, vì chỉ có một chuỗi tràng hạt Mân Côi, lính tịch thu và đánh cha 21 roi. Cha vui vẻ chịu đòn, không một lời than van oán trách. Bà Anrê Thu, vì không kịp cất giấu đồ lễ, nên cũng bị bắt trói và giữ tại đình làng 24 tiếng đồng hồ mới được về.
* Xin vâng ý Cha.
Cha Tôma Dụ bị đóng gông vào cổ, tay chân mang xiềng xích như một tội phạm, và bị giải lên tỉnh Nam Định. Các quan ở đây tiếp tục tra vấn nhiều lần, khuyên dụ cha đạp lên Thánh Giá. Nhưng mặc cho những lời dụ dỗ hay dọa nạt, cha Dụ vẫn cương quyết không xúc phạm đến Thập Giá, và không cung khai điều gì hại đến các tín hữu. Cha bị đánh đạp tàn nhẫn nhiều lần, lần thứ nhất 90 roi, lần hai 30 roi, lần khác 20 roi và phải đón nhận nhiều lời mắng nhiếc chế nhạo của dân chúng tò mò đến xem.
Sau những cuộc tra tấn, cha Dụ bị tống giam vào ngục, ban ngày mang gông xiềng, ban đêm bị cùm chân, thêm vào đó là chịu đói khát, chịu nóng nực hôi hám khổ cực khôn tả. Vị tông đồ của Chúa chẳng những tỏ ra nhẫn nhục, mà còn vui vẻ coi đó là những cơ hội tốt để suy niệm và bước theo chân Đức Kitô tử nạn. Chứng nhân Giuse Hiền thuật lại chuyện mẹ của ông ta, giả làm hành khất vào tận ngục thăm cha. Khi thấy cha tiều tụy vì những cuộc tra tấn, bà khóc lên nức nở, cha nói với bà :
"Sức lực tôi tuy giảm, nhưng tôi còn có thể chịu đựng được nữa. Chúa chúng ta đã chịu bao cực khổ để cứu độ nhân loại, tôi cũng sẵn lòng chịu những sự khổ này để nên giống Chúa Kitô phần nào".

* Để danh Chúa cả sáng.
Lần thứ hai bà vào thăm, cha dụ cho biết những cực hình sau này cha cảm thấy không đau đớn như trước, hình như Chúa đã giảm bớt sự đau khổ cho cha. Khi bà chào từ biệt, cha nói : "Tôi không biết ngày nào sẽ được hiến dâng mạng sống vì Chúa, có thể anh chị em không còn gặp tôi nữa. Bà hãy cầu nguyện nhiều, xin Chúa ban cho tôi ơn nhẫn nại chịu đựng tất cả những điều người ta gây cho tôi để danh Chúa được cả sáng".
Sau sáu tháng giam cầm và tra tra tấn, quan tuyên bố bản án với những lời sau: "Đạo trưởng Tôma Đinh Viết Dụ bị kết án trảm quyết vì tội truyền bá Gia Tô tả đạo. Các quan đã hết sức khuyên dụ, dọa nạt và tra tấn để bắt y quá khóa theo luật nước, nhưng y không chịu. Y đã trở nên chai đá không gội rửa được những dị đoan đã quá ăn sâu… Do đó, mọi người thấy rõ y là kẻ điên khùng cố chấp bất trị, đáng khinh dể. Vậy phải nghiêm trị, còn phàn nàn gì nữa".
Thực tế, cha Dụ nghe bản án có phàn nàn chi đâu. Ngày 07.11, vua Minh Mạng ký án. Ngày 12.11, án về tới Nam Định. Khi ấy có cha Đaminh Nguyễn Văn Xuyên cũng thuộc dòng thánh Đaminh đã bị bắt ngày 18.8 được đưa tới trại giam chung và cùng bị án tử với cha Dụ. Hai anh em gặp nhau trong tù tay bắt mặt mừng, hàn thuyên tâm sự. Hai cha xưng tội với nhau, an ủi khuyến khích nhau kiên trì tới cùng.

* Mừng ngân khánh trên thiên quốc.
Ngày 26.11.1839, hai vị tông đồ Chúa bị điệu đến nơi xử án. Hai vị ung dung bưởc đi giữa một đoàn quân oai vệ, có các quan cưỡi voi chỉ huy với cờ quạt chiêng trống, và theo sau là đông đảo dân chúng. Vai mang gông, tay mang xiềng, hai vị thừa sai vừa đi vừa cầu nguyện, dáng điệu hân hoan khiến mọi người phải sửng sốt bỡ ngỡ. Quan hỏi lần chót xem nếu chịu xuất giáo sẽ được tha. Hai cha trả lời ngắn gọn: "Không" rồi tiếp tục cầu nguyện cho tới khi đến pháp trường Bảy Mẫu. Bà Maria Ơn có mặt tại buổi hành quyết thuật lại rằng : "Tôi thấy hai cha quỳ xuống, chắp tay lại, mắt hướng lên trời, lính cưa gẫy gông, chặt đứt xích sắt, trói tay vào cột rồi chém cổ hai cha". Sau khi thi hành án trảm, lý hình tung đầu hai cha lên cao ba lần và nói : "Đầu đạo trưởng đã bị chém đây".
Cha Tôma Đinh Viết Dụ hưởng thọ 56 tuổi, đã lãnh phúc tử đạo đúng vào năm kỷ niệm ngân khánh linh mục của cha. Một mùa ngân khánh được ghi vào lịch sử Giáo Hội. Thi thể hai cha được an táng ngay tại pháp trường. Đến tháng giêng năm 1841, tin hữu cải táng về Lục Thủy.
Đức Lêo XIII suy tôn linh mục dòng Đaminh, cha Tôma Đinh Viết Dụ lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Từ đó hài cốt vị tử đạo được đặt trong hòm gỗ sơn son thiếp vàng trưng bày tại đền thờ Phú Nhai. Muôn đời sẽ mãi mãi ghi nhớ hình ảnh người chứng nhân đức tin, một người con yêu của Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi.

Ngày 26-11-1786-1839 Thánh Đaminh Nguyễn văn Xuyên Linh mục dòng Đaminh Tử đạo.

Ða-Minh Nguyễn Văn Xuyên (Ðoàn), Sinh năm 1786 tại Hưng Lập, Nam Ðịnh, Linh mục dòng Ða Minh. , bị xử trảm ngày 26/11/1839 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 26/11.
Sau đây là những vần thơ lục bát do thánh Đaminh Xuyên sáng tác trong ngục tù, vừa diễn tả tâm tình của mình vừa khuyên nhủ các tín hữu đến thăm. Những vần thơ ngắn gọn nhưng cô đọng trọn vẹn triết lý sống của các vị tử đạo, lòng tràn đầy niềm tin yêu vượt qua mọi gian khổ để chiếm đoạt vinh quang nước trời.
Ai ơi giữ lấy túi khôn,
Dẫy tràn tin cậy đầy lòng mến yêu.
Gươm đao đe đọa dẫu nhiều,
Quỷ ma cám dỗ sớm chiều đêm hôm.
Ai mà thắng được trên đời,

Mai sau hưởng phúc cõi trời cao sang.

Thánh Đaminh Nguyễn văn Xuyên Lm Tử đạo
* Tấm lòng người tu sĩ áo trắng.
Đaminh Nguyễn Văn Xuyên còn có tên là Doãn, sinh năm 1786 tại làng Hưng Hiệp, tỉnh Thái Bình. Thấy con có trí thông minh, cha mẹ cho cậu đi học chữ Nho, rồi gửi gấm cậu cho Đức cha Delgado Y dạy bảo. Được Đức cha nhắc nhở, cậu Xuyên chăm chỉ học hành, nhất là học giỏi giáo lý. Lớn lên, ngài cho anh vào chủng viện, và trao ban chức linh mục năm 1819. Ngày 20-04 năm sau, cha Xuyên tuyên khấn trong dòng thánh Đaminh. Từ đó, cha rất nhiệt thành phục vụ các giáo hữu, không ngừng đi nhiều nơi giảng tĩnh tâm, dạy giáo lý và sốt sắng cử hành phụng vụ bí tích.
Trước tiên, cha Xuyên coi xứ Phạm Pháo, tỉnh Nam Định, rồi về xứ Kẻ Mèn, Thái Bình trong ba năm. Tại đây, ngài lập họ đạo mới, họ Thanh Minh, chọn thánh Vinh sơn làm bổn mạng. Sau cha phụ trách xứ Đông Xuyên 13 năm. Thời gian này dân chúng bị hạn hán mất mùa nhiều năm, và bị giặc Phan Bá Vành quấy phá nên đói nghèo khổ sở. Có lần cha phải dốc cạn túi để giúp đỡ họ, có lần cha nhường phần cơm của mình… Bao giờ cha cũng để một ngân khoản riêng làm việc bác ái, từ thiện.
Cuối năm 1836, cha được bổ nhiệm làm phụ tá cha Fernandez Hiền tại chủng viện Ninh Cường giữa lúc cuộc bách hại của vua Minh Mạng gay gắt. Năm sau cha về làm quản lý giáo phận Đông Đàng Ngài, giúp Đức cha Delgado Y. khi Đức cha phải lưu lạc về Kiên Lao rồi bị bắt thì cha Xuyên vừa tìm chỗ ẩn trốn, vừa giúp xứ Hạ Linh. Tuy phải lang thang nay nhà này mai nhà khác, cha cũng phục vụ các tín hữu ở đây được khoảng một năm. Ngày 18.8, cha đến cử hành lễ mừng thánh Gioakim, bổn mạng họ Phú Đường (họ lẻ xứ Hạ Linh) thì bị bắt. Một giáo viên trước có dạy ở Bùi Chu biết mặt cha đã đi báo quan kiếm tiền thưởng.


* Bền trí trung kiên…
Cha Xuyên dâng lễ gần xong, nghe tiếng loa gọi của quân lính, cha vội rước hết Mình Thánh rồi cởi áo lễ đi trốn. Nhưng không kịp nữa, quân lính đã tóm bắt cha và dẫn đến quan phủ. Quan phủ cười hỏi: "Đưa đây một số bạc, ta tha cho về". Cha trả lời: "Tôi chẳng có đồng nào trong người, nếu quan tha tôi cám ơn, nếu quan bắt tôi xin chịu". Về sau giáo hữu Hạ Linh góp tiền đem đến chuộc, nhưng quan phủ không dám thả nữa vì trên tỉnh đã biệt.
Khi nghe thuật lại chuyện, cha Xuyên an ủi họ : "Anh em hãy để tiền lo cho giáo xứ thì hơn, đừng tốn tiền chuộc tôi làm chi vô ích. Ý Chúa đã muốn, chẳng ai làm khác được. Anh em cứ bình an về nhà, nhớ cầu nguyện cho tôi chịu sự khó cho nên". Thế rồi cha mang gông nặng theo lính về Nam Định.
Biết cha là quản lý tòa Giám mục, Tổng đốc Trịnh Quang Khanh không những bắt cha bỏ đạo mà còn muốn khai thác các tài sản giáo phận. Lần đầu tiên khi ra lệnh đánh đòn, Tổng đốc đứng ngay bên thúc giục: "Đánh nữa, mạnh lên cho đến khi nó chịu khai và xuất giáo". Người chiến sĩ đức tin chỉ biết kêu tên cực trọng "Giêsu, Maria, xin cứu con !", cho đến khi bất tỉnh phải khiêng về ngục.
Những lần sau ngài cố gắng cắn răng chịu đựng không kêu một tiếng, cũng chẳng tiết lộ điều gì về giáo phận. Quan tổng đốc cho dùng những cực hình đã man hơn : lấy sắt nung đỏ dí vào cháy từng miếng thịt, cầm kìm nguội, kẹp hay cắt nhiều chỗ trên thân thể … Nhưng cha can đảm gắng sức nói thẳng với quan: "Dù sống dù chết, tôi cũng không bỏ đạo. Tôi chọn cái chết để sống đời đời, hơn là nghe quan sống thêm ít lâu mà muôn đời bị tiêu diệt".
Nhiều lần quá đau đớn ngất xỉu giữa cuộc tra tấn. Sợ vị quản lý giáo phận chết sớm, Tổng đốc sai lính đưa cha về ngục, cho mời lang y chữa trị để mong biết được những tài sản mà ông tưởng là vô số. Đến khi cha Xuyên bình phục, quan lại đưa ra khảo nữa, nhưng ông phải thất vọng vì thực sự giáo phận chẳng có gì để khai, mặt khác, chẳng bao giờ cha chịu khuất phục bỏ đạo.

* Phần thưởng nước trời.
Ngày 25.10, quan Tổng đốc lập bản án trảm quyết gởi về kinh đô. Tháng sau bản án của cha Xuyên và cha Dụ trở lại Nam Định. Những ngày cuối, hai cha được giam chung một phòng, tay bắt mặt mừng, xưng tội với nhau, an ủi khích lệ nhau vững chí đến cùng.
Ngày 26.11.1839, hai cha bị dẫn đi xử. Giữa đám quân lính đông đảo võ trang voi ngựa, hai vị chứng nhân Đức Kitô đi bộ mang gông, nhưng bình tĩnh vui vẻ, vừa đi vừa cầu nguyện cho tới pháp trường Bảy Mẫu. Dân chúng đi xem đều bỡ ngỡ thán phục. Quan hỏi lại lần chót có muốn xuất giáo để được tha không. Hai vị trả lời: "Không", rồi đưa tay cho lính trói vào cọc đã chôn sẵn.
Hai nhát gươm cùng vung lên, hai tôi tớ Chúa được lãnh triều thiên tử đạo tiến thẳng về Trời. Cha Xuyên với 53 tuổi đời, phục vụ Chúa trong chức vụ linh mục được 20 năm. Thi thể ngài được an táng ngay tại đó. Tháng giêng năm 1841, tín hữu cải táng hài cốt ngài về Lục Thủy.
Đức Lêo XIII suy tôn cha Đaminh Nuyễn Văn Xuyên, linh mục dòng Thuyết giáo lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển Thánh.


Thứ Bảy Tuần 34 Thường Niên Lc 21,34-36.

Lời Chúa: Anh em hãy tỉnh thức, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến.
Ha-lê-lui-a. Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đứng vững trước mặt Con Người. Ha-lê-lui-a.
Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục,
quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta.
Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ,
còn ta là dân Người lãnh đạo,

là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.

Ngày 26/11 Thánh Leonard Ở Cảng Maurice (1676-1751)
Có lần Thánh Leonard nói, "Nếu vào lúc tôi chết, Thiên Chúa khiển trách tôi vì quá nhân từ với kẻ tội lỗi, tôi sẽ thưa, ‘Lạy Chúa Giêsu, nếu nhân từ với kẻ tội lỗi là một sai lầm thì đó là sự sai lầm con học được từ Ngài, vì Chúa không bao giờ khiển trách bất cứ ai đến với Ngài để xin được thương xót’
Thánh Leonard, người được Thánh Alphonsus Liguori gọi là "nhà truyền giáo vĩ đại của thế kỷ 18", cũng là một tu sĩ Phanxicô cố gắng đến truyền giáo ở Trung Cộng nhưng thất bại, và ngài đã thành công lớn trong một số công việc khác.
Cha của Leonard là một thuyền trưởng mà gia đình sinh sống ở cảng Maurice nằm về phía đông bắc của bờ biển nước Ý. Vào lúc 13 tuổi, Leonard đến Rôma sống với người chú là Agostino và học tại trường Roman College. Leonard là một sinh viên giỏi mà cha mẹ muốn ngài theo đuổi ngành y khoa. Tuy nhiên, vào năm 1697, ngài gia nhập dòng Phanxicô, trái với sự chống đối quyết liệt của người chú.
Sau khi thụ phong linh mục, Leonard bị mắc bệnh lao và được gửi về nhà để tĩnh dưỡng hoặc chờ chết. Ngài hứa rằng nếu được khỏi bệnh ngài sẽ tận hiến cho việc truyền giáo và hoán cải kẻ tội lỗi. Không bao lâu, ngài được lành bệnh và bắt đầu quãng đời 40 năm tận tụy rao giảng trong các cuộc tĩnh tâm, trong mùa Chay và trong các cuộc canh tân giáo xứ (tuần đại phúc) trên toàn nước Ý. Cuộc tĩnh tâm thường kéo dài từ 15 đến 18 ngày và ngài thường ở lại thêm một tuần nữa để giải tội.
Sau những lần tổ chức tĩnh tâm, để duy trì lòng đạo đức sốt sắng của giáo dân, Cha Leonard thường cổ võ việc Ngắm Ðàng Thánh Giá, mà thời ấy rất ít người tham dự. Ngài cũng thường rao giảng về Thánh Danh Giêsu.
Cha Leonard được phong thánh vào năm 1867; vào năm 1923, ngài được đặt làm quan thầy cho những ai chuyên đi giảng về tuần đại phúc.
Lời Bàn: Sự thành công của một người đến rao giảng trong buổi tĩnh tâm thì tùy thuộc vào lòng nhiệt thành của họ có bền bỉ với thời gian hay không. Ðiều khác biệt là sự hoán cải của người tham dự. Ðối với Thánh Leonard, việc Ngắm Ðàng Thánh Giá và xưng tội thường xuyên sẽ giúp giáo dân giữ được lòng đạo đức mà ngài đã khơi dậy qua lời rao giảng. Lần sau cùng bạn Ngắm Ðàng Thánh Giá là khi nào?
Lời Trích: Có lần Thánh Leonard nói, "Nếu vào lúc tôi chết, Thiên Chúa khiển trách tôi vì quá nhân từ với kẻ tội lỗi, tôi sẽ thưa, 'Lạy Chúa Giêsu, nếu nhân từ với kẻ tội lỗi là một sai lầm thì đó là sự sai lầm con học được từ Ngài, vì Chúa không bao giờ khiển trách bất cứ ai đến với Ngài để xin được thương xót" (Trích trong cuốn Thánh Leonard ở Cảng Maurice, t. 9, của Leonard Foley, O.F.M.).

Thứ Tư, 23 tháng 11, 2016

Thứ Sáu Tuần 34 Thường Niên Lc 21,29-33.

Lời Chúa: Khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
Ha-lê-lui-a. Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc. Ha-lê-lui-a.
Phúc thay người ở trong thánh điện
Họ luôn luôn được hát mừng Ngài.
Phúc thay kẻ lấy Ngài làm sức mạn,

càng tiến lên, họ càng mạnh bước.

Ngày 25/11-Thánh Catarina Alexandria Trinh nữ Tử đạo.
Thánh nữ Catarina sống vào thời Giáo Hội sơ khai. Ngài là con gái của một gia đình dân ngoại giàu có ở thành Alêxandria, Ai Cập. Thánh nữ là một cô gái rất đẹp và rất ham thích việc học hành. Catarina Alêxandria say mê nghiên cứu những vấn nạn sâu xa của triết học và tôn giáo. Một ngày kia, Thánh nữ Catarina Alêxandria bắt đầu đọc các sách viết về Kitô giáo. Và chẳng bao lâu, Catarina Alêxandria trở thành Kitô hữu.      
Thánh nữ Catarina Alêxanđria được 18 tuổi khi hoàng đế Maxentiô bắt đầu bách hại các Kitô hữu. Rất mực can đảm, thánh nữ đáng yêu này đã đến nói cho nhà vua biết về sự độc ác của ông. Khi ông vua này bàn về các tà thần, Catarina đã minh nhiên chỉ cho ông thấy các thần ấy là giả tạo. Maxentiô không thể lý giải được các vấn nạn của Catarina; và vì thế, ông đã triệu vời 50 triết gia ngoại giáo hảo hạng nhất đến để đối phó với Catarina. Một lần nữa, Catarina lại làm sáng tỏ chân lý của đạo Công giáo. Tất cả 50 triết gia này đều phải công nhận rằng Catarina có lý. Hết sức tức giận, Maxentiô đã cho lính giết chết từng người trong họ. Sau đó, ông cố gắng chinh phục Catarina bằng cách tặng cho thánh nữ chiếc vương miện hoàng hậu. Khi biết Catarina Alexanđria nhất mực từ chối, ông liền sai quân lính đánh đòn và tống giam Catarina vào ngục.
Đang lúc Maxentiô cắm trại ở nơi xa, vợ ông và một viên sĩ quan đã tò mò đến nghe cô bé Kitô hữu lạ lùng này thuyết giảng. Họ đã tới bên phòng giam của Catarina Alexandria. Kết quả là họ cùng 200 lính canh khác đã được ơn trở lại. Vì chuyện này, hết thảy cả bọn đã bị Maxentiô lên án tử. Bản thân Catarina thì bị đặt trên một bánh xe đầy đinh nhọn để chịu hành hình. Thế nhưng khi bánh xe bắt đầu quay, thì lạ lùng thay, nó cứ bị bật ra. Sau cùng, Catarina Alexandria bị trảm quyết. Thánh nữ được tôn tặng danh hiệu là thánh bổn mạng của các triết gia Công giáo.
Thánh nữ Catarina Alexandria đã trân quý vẻ đẹp của niềm tin Kitô giáo. Đó là lý do thánh nữ có thể thuyết phục cách hiệu quả những người khác tôn giáo cùng tin theo đạo. Chúng ta hãy nài xin Thánh nữ Catarina Alexandria giúp chúng ta tăng triển lòng yêu mến đối với các chân lý đức tin như ngài.

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2016

Ngày 24-11-1761-1838 Thánh Vinhsơn Nguyễn Thế Điểm Linh mục tử đạo.

Vincentê Nguyễn Thế Ðiểm, Sinh năm 1761 tại Ân Ðô, Quảng Trị, Linh mục, bị xử giảo ngày 24/11/1838 tại Ðồng Hới dưới đời vua Minh Mạng.Linh mục Vinh Sơn Nguyễn Thế Điểm được Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 24/11.

Thánh Vinhsơn Nguyễn Thế Điểm Linh mục tử đạo
* Cuộc đời thánh thiện.
Vinh sơn Nguyễn Thế Điểm sinh năm 1761 tại An Do, gần Cửu Tùng, tỉnh Quảng Trị. Lớn lên cậu theo học tại chủng viện Kẻ Vĩnh, Nam Định thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài, và sau được thụ phong linh mục.
Lãnh nhiệm vụ chánh xứ Cồn Nam và coi sóc giáo hữu các vùng lân cận thuộc hạt Bố Chính, cha VinhSơn Điểm nêu gương vị mục tử đạo đức, nhân từ, hay thương giúp người nghèo khổ, chuyên cần giảng truyền lời Chúa, nhiệt tình ban phát các bí tích cho giáo dân và loan báo Tin Mừng cho muôn dân. ngài rất quan tâm, chuyên chú huấn luyện và đào tạo các thày giảng. Mặc dầu đã cao niên, với tinh thần hy sinh cao độ, ngài vẫn ăn chay mỗi tuần hai ngày, thứ tư và thứ bảy, hẳn là có ý tôn kính Đức Maria và thánh Giuse.

* Đi về đâu … ?
Vào năm 1838, cuộc bách hại Công Giáo của vua Minh mạng trở nên ác liệt hơn. Ngày 02.07 năm ấy, quan quân tần nà vùng Bố Chính truy lùng thừa sai Candalh Kim, bắt được linh mục Vũ Đăng Khoa, trước là phó xứ của linh mục Vinh Sơn Điểm, cùng với hai thầy giảng Đức và Khang tại làng Lệ Sơn, rồi nộp các vị cho quan Đồng Hới. Bị tra khảo đau đớn, thầy Khang đã tiết lộ nơi trú ần của cha Borie Cao.
Quân lính liền được lệnh truy nã bủa vây khắp vùng Bố Chính. Quan chưa tìm thấy vị thừa sai, nhưng khi đến gần làng Đơn Sa, họ bắt được linh mục Vinh Sơn Điểm và một chú học trò.
Nguyên do khi nghe tin cha Khoa bắt, cha Điểm sai chú Sang đến làng An Bì hỏi giáo hữu có sẵn lòng cho ngài đến trú ẩn không ? Giáo hữu thấy làng mình không đủ bảo đảm an ninh, nên không dám nhận lời. Vị linh mục lão thành còn đang lang thang ngoài ruộng đồng, nhận được câu trả lời như thế, không biết đi về đâu để tìm nơi ẩn trú. Ngài tiếp tục đi một quãng nữa thì bị bắt giải về Đồng Hới. Trong tù, linh mục Vinh sơn Điểm gặp lại cha Khoa, và mấy tuần sau gặp cha Cao, thày giảng Nguyễn Khắc Tự, rồi ông trùm Nguyễn Hữu Quỳnh. Cả năm chứng nhân Chúa Kitô sau này đều được phúc tử đạo.

* Thà chết trăm lần.
Trong lần tra vấn đầu tiên, vì mệt mỏi và sợ hãi, cha Vinh Sơn Điểm lỡ lời khai ra nhà mấy giáo hữu, nhưng ngài rất mạnh dạn tuyên xưng đức tin, nhất quyết không bước qua ảnh Chuộc Tội. Đến khi gặp cha Cao vào tù cho biết những lời khai ấy đã làm tổn hại đến một số giáo hữu, cha Điểm tìm cách sửa lỗi, thưa lại với quan : "Tôi già nua lẩm cẩm, trong lúc sợ hãi quá, đã khai dông dài, có khi gây oan ức cho một số người. xin quan bỏ qua lời khai của tôi, đừng bận tâm tới những người ấy kẻo lầm".
Những cuộc tra khảo sau này chung với cha Cao và cha Khoa, ngài thường thinh lặng. Tuy nhiên, khi cần thiết, ngài cũng lên tiếng minh chứng niềm tin của mình. Một lần quan hỏi ngài : "Này đạo trưởng Điểm, Hoàng Thượng đã ra lệnh cấm đạo rất ngặt, dầu vậy, nếu ông chịu quá khóa, ta sẽ thánh cho ông ngay tức khắc". Cha đáp: "Tôi thà chết trăm lần, chẳng thà quá khóa". Vì đã 77 tuổi, cha Điểm không bị đánh đập, luật pháp đương thời cấm tra tấn tù nhân tuổi tác.
Trong thời gian bị giam giữ, cha Vinh Sơn đã luôn nêu gương đạo đức trung kiên cho các tín hữu cùng bị bắt và đối xử bác ái quảng đại với các bạn tù ngoại giáo. Ngài chia sẻ lương thực và khuyên họ sống ngay chính lương thiện. Tại đây, cha Điểm được vinh dự chia sẻ niềm vui của cha Cao qua văn thư Tòa Thánh đặt vị này làm Giám mục giáo phận Tây Đàng Ngoài.
Được Đức cha Cao khuyên bảo và ban các bí tích cần thiết, cha Vinh Sơn Điểm như được thêm ơn Chúa Thánh Thần, càng ngày cha càng tỏ ra can đảm vững tin hơn, đêm ngày cha cầu nguyện và mong ước được hiến mạng sống để làm chứng cho đạo thánh Chúa Kitô.
Ngày 24.11.1838, bản án được vua Minh Mạng chuẩn phê về Đồng Hới. Ước nguyện của vị mục tử lão thành được thỏa mãn, ngài bị kết án xử giảo. Ba vị tông đồ mục tử : Đức cha Cao, cha Khoa và cha Vinh Sơn Điểm được dẫn ra pháp trường. Người lính đi đầu cầm tấm thẻ ghi chữ Hán cho mọi người biết đây là đạo trưởng tả đạo cố chấp bất tuân lệnh vua nên phải chết.
Đến nơi xử, cha Vinh Sơn Điểm quỳ xuống cầu nguyện một lát. Quân lính thi hành nhiệm vụ, trói chân tay cha vào cột, quấn dây thừng vào cổ, và theo hiệu lệnh, họ kéo mạnh hai đầu dây cho đến khi vị chứng nhân Chúa Kitô tắt thở. Cha Phêrô Nguyễn Đăng Khoa cũng bị xử như vậy. Riêng Đức cha Cao bị trảm quyết cùng ngày ngay tại đây. Người ta chôn cất ba vị tử đạo ngay tại pháp trường Đồng Hới. Về sau linh mục Tự cải táng hài cốt về nhà thờ họ Hướng Phương.
Linh mục lão thành Vinh Sơn Nguyễn Thế Điểm được Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển Thánh.