* Nụ cười bất tận.
Tạp chí “Những người ra đi” (1) số
dành riêng cho hội thừa sai Pari đã phác họa chân dung vị thánh Tử Đạo trẻ
trung, linh mục Théophane VÉNARD VEN như sau: “Phải nói rằng khi anh chào đời một
đóa hồng nở trên môi, một cánh chim cất tiếng líu lo bên tai. Bởi vì khi anh diễn
tả ý mình, lời anh tràn ngập những hình ảnh dễ thương dịu dàng duyên dáng. Mối
tình thân từ nhỏ cũng như sau này, anh càng duy trì bền vững ngày càng đậm đà,
ngọt ngào và thánh thiện.
“Đời anh là một bài ca trong lúc
vui lúc buồn. Từ những biến cố thời học sinh cho đến lòng sốt sắn khi gia nhập
hàng tư tế. Anh hát lên khi rời đất Pháp, anh hát lên khi thấy đất Việt Nam.
“Trong những lá thư dài và thường
xuyên, anh kể lại cho gia đình từng chi tiết anh gặp trong đời. Đối với anh đời
tông đồ sao mà thoải mái, vui tươi dễ yêu đến thế ! Anh thi vị hóa tất cả: Với
anh việc cực nhọc thành nhẹ nhàng, gánh nặng nên nhẹ nhõm, bệnh tật không làm
anh nản chí, anh coi như cơ hội thưởng ném những giây phút nghỉ ngơi, các cuộc
hành trình qua đồng lầy, núi cao hay trên đường sỏi đá, anh diễn tả dưới màu sắc
tươi mát như đi dạo giữa mùa xuân. Anh quả là cây huệ có sức mạnh của cây sồi.
Chúng ta chỉ có thể đoán ra những
cực hình anh chịu, vì anh mô tả chúng đằng sau những cánh hoa kỳ diệu, mà anh
không ngừng gieo trồng tung vãi mọi nơi cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Những
cánh hoa đó nở rộ trong công việc của anh, nở trong những cực hình, nở trong
cũi gỗ, nở trên những dụng cụ tra tấn và nở ngay trên mảnh đất thấm máu đào của
anh. Quan tòa cũng trở thành bạn hữu, lý hình cũng phải tỏ lòng ngưỡng mộ, đối
với anh, nhát gươm chém đầu định mệnh cũng chỉ là “ngắt nhẹ cánh hoa tuyển lựa,
để trang hoàng trên bàn thờ”.
* Tìm viên ngọc Viễn Đông.
Gioan Théophane Vénard sinh ngày
21-11-1829 sinh tại Saint Loup sur Thouet, thuộc thị trấn Deux Sèvres nước
Pháp. Thân phụ ông là Gioan Vénard, thân mẫu là bà Marie Gueret. Gioan
Théophane Vénard chịu ảnh hưởng rất nhiều nơi thân phụ. Chính ông dạy dỗ và gợi
lên trong cậu ước nguyện làm linh mục. Cũng chính ông gởi gắm cậu cho cha xứ để
học tiếng Latinh. Năm 14 tuổi, thân mẫu cậu qua đời, chị mélanie trở thành người
bảo mẫu hiền dịu, đã cùng với thân phụ chăm sóc khích lệ cậu vượt qua mọi khó
khăn thời chủng viện, và thư từ thường xuyên với linh mục Vénard trên bước đường
truyền giáo sau này.
Mãn khóa triết học sau này, thầy
Vénard được chuyển qua giáo phận Poitiers tiếp tục khóa thần học (1848). Qua
các thư từ gởi cho thân phụ, ta biết thầy Vénard tại Poitiers đã thao thức nhiều
về việc truyền giáo. Do đó, ngay sau khi lãnh chức phó tế, thầy xin gia nhập hội
thừa sai giáo phận. Năm 1852, thầy được Đức cha Piô phong chức linh mục, vị tân
linh mục nôn nao chờ ngày được phái dến Việt Nam.
Ngày 23-09-1852, cha xuống tàu ở
cảng Anvers để thế chân thừa sai mới bị trục xuất khỏi Việt Nam. Sau bốn tháng
rưỡi bập bềnh trên biển cả, cha Vénard đến Singapo. Nơi đây cha gặp bốn chủng
sinh Việt Nam với những xúc động sâu xa, vì cha coi họ là anh em của các vị tử
đạo. Sau đó cha được đưa đến Hồng Kông chờ cơ hội. Ở đây cha nỗ lực học thêm tiếng
Hán. Trong một lá thư viết từ Paris, cha Darran nói với cha Vénard rằng: “Thưa
cha, viên ngọc quý Việt Nam được trao cho cha rồi đó.” (02.1854).
Ngày 13-07-1854 cha cập bến Cửa Cấm,
và được tiếp đón cách long trọng tại tòa Giám Mục Vĩnh Trị, trụ sở Đức Cha
Retord Liêu đang phụ trách giáo phận Tây Đằng Ngoài. Sau vài tháng học tiếng
cha tháp tùng Đức Cha đi kinh lý khắp nơi, và dạy học ở chủng viện. Đầu tháng
03-1857, viên tri huyện Vĩnh Trị là bạn thân Đức Cha Retord, trước khi đem quân
đến vây bắt, ông đã báo tin cho biết, nhờ đó Đức Cha Retord và cha Charbonnier
chạy thoát (cha Lê Bảo Tịnh ra trình diện). Từ đây bắt đầu những ngày lưu lạc của
cha Ven, nay đây mai đó không lúc nào yên ổn.
* Tù tội vì yêu thương.
Ngày 30-11-1860, nhân lúc cha
đang ở Kẻ Bèo, viên Cai Đội đem 5,6 chiếc thuyền chở khoảng 20 người đến vậy bắt
cha. Cha liền trốn giữa vách đôi của căn nhà, cai đội thét lớn tiếng: “Tây
dương đạo trưởng đâu ra đây ngay”. Thầy giảng Phêrô Khang tìm cách nói tránh
đi: “Ở đây chỉ có tôi thôi. Ông Cai thương tôi được nhờ, ông Cai bắt tôi đành
chịu”. Vì đã được mật báo, viên cai đội cho lệnh trói thầy, rồi đi thẳng tới
vách nhà vị thừa sai đang ẩn, và đập thật mạnh bật tung miếng ván che ra, bắt
cha Vénard Ven nhốt vào củi giải về Thăng Long (Hà Nội). Trong những ngày chờ đợi,
một viên tổng trấn đối xử với cha một cách lịch sự. Ông cho đóng một chiếc cũi
rộng hơn một chút và trói cha bằng sợi dây xích nhẹ nhất. Thỉnh thoảng còn mời
cha lên phủ ăn cơm như người tự do. Nhưng thời gian đó kéo dài không bao lâu.
Trong lá thư gởi cho gia đình,
qua chị Mélanie, cha kể: “Em đã đến Kẻ Chợ (tên cũ của Hà Nội). Cả nhà thử tưởng
tượng coi: Ngồi bó gối trong cũi gỗ, tám người lính khiêng hai bên, đám đông
dân chúng ồn ào bu lại nhìn xem. Em nghe họ nói: 'Chàng Âu Châu này dễ thương
quá. Anh ta thản nhiên và vui tươi như đi dự lễ tiệc, chẳng tỏ vẻ gì là sợ hãi
cả'. Em cầu nguyện với Nữ Vương các Thánh Tử Đạo, xin Đức Mẹ phù trợ cho người
tôi tớ nhỏ bé của Mẹ. Mới đầu quan tòa cho em uống một chén trà. Em bị ngồi cũi
nhưng em uống một cách thản nhiên. Rồi quan tra hỏi như thường lệ:
- Anh đến An Nam để làm gì ?
- Tôi đến đây chỉ để giảng đạo thật.
- Anh bao nhiêu tuổi rồi ?
- Thưa, ba mươi mốt.
Viên quan tỏ vẻ thương cảm thốt
lên: “Hắn còn trẻ quá”. Rồi ông hỏi: “Ai sai anh đến đây?” Em đã đáp: “Không phải
vua quan đất Pháp gởi tôi đi. Tôi muốn đi rao giảng đạo lành cho mọi người, và
các bề trên trong đạo gởi tôi đến Việt Nam.”
Khi viên quan muốn gán cho cha tội
xâm lược của Pháp, cha khẳng khái trả lời: “Không bao giờ chúng tôi ủng hộ quân
viễn chinh đâu. Nếu không tin cứ để tôi đến gặp họ, tôi sẽ khiển trách việc họ
đến gây chiến. Nếu tôi thất bại xin tình nguyện về đây nộp mạng.
- Hãy đạp lên Thánh Giá anh sẽ
thoát chết.
- Tôi đã suốt đời thuyết giảng về
đạo Thập Giá, sao tôi làm như thế được ? Tôi thiết nghĩ cuộc sống đời này đâu
quá quý, đến độ tôi phải mua nó bằng cái giá bội giáo.
Ngày 03-01-1861, cha viết thư cho
Đức Cha Theurel: “Gươm đã ở kề sát bên cổ mà con chẳng rùng mình chút nào.
Thiên Chúa nhân lành đã hộ trợ sự yếu đuối của con, nên con thấy vui mừng. Thỉnh
thoảng con lại cất cao tiếng hát trong cung điệu này:
Lạy Mẹ dấu yêu
Xin thương đặt con
Trong Quê đời đời
Bên thánh nhan Người.
Lạy Mẹ Vô Nhiễm, khi đầu con rơi
xuống dưới đầu gươm của lý hình, xin nhận lấy tôi tớ nhỏ bé như trái nho chín
được hái, như bông hồng nở rộ, được ngắt về dâng kính Mẹ AVE MARIA”.
Nhờ một giáo hữu tên Hương dẫn lối,
linh mục Thịnh đã đến bên cũi của vị thừa sai giải tội cho cha. Sau lại nhờ một
bà đạo đức chuyển cho cha một hộp nhỏ đựng mình thánh chúa. Cha Vénard Ven cung
kính chầu thánh thể cho đến nửa đêm, rồi mới chịu lễ. Một lần khi trao mình
thánh bị phát hiện, bà này nhanh miệng giải thích là thuốc bổ để trị bệnh.
* Ngàn thu vĩnh phúc.
Ngày 02-02-1861, nghe quan tuyên
đọc bản án trảm quyết, cha Vénard Ven liền mặc áo lông cừu trắng toát mà cha
may riêng để mặc trong ngày tử đạo. Cha muốn mặc trang phục đại lễ. Một toán lính
độ 200 người và hai sĩ quan cỡi voi áp giải vị anh hùng đức tin ra pháp trường.
Suốt nửa giờ hành trình, cha không ngừng hát thánh ca và kết thúc bằng lời kinh
“Magnificat”, lời kinh tạ ơn của Đức Mẹ thuở xưa. Tới nơi đã định, lính tháo
gông cùm cho cha. Cha liền đứng trên chiếc chiếu đã được trải sẵn, và nhìn khắp
tứ phía có ý tìm cha Thịnh để lãnh ơn tha thứ lần cuối. Nhưng cha Thịnh vì
không rõ giờ hành quyết nên chưa đến.
Một lý hình thấy chiếc áo cha mặc
đẹp quá nên tình nguyện chém cha. Anh ta nói dối rằng cha phải xử lăng trì để
cha cởi áo ra cho hắn lấy. Hắn còn đòi đút tiền để chém sao cho mau chết. Vị
anh hùng chỉ cười và nói: “Có hề chi đâu, càng lâu càng tốt”. Rồi đưa tay cho hắn
trói vào cột, ba hồi chiêng trống vừa dứt, lý hình vung gươm chém lần thứ nhất,
gươm trượt qua một bên vào má. Nhát gươm thứ hai y bổ đầu cha ra làm đôi. Năm
đó cha Ven mới 32 tuổi.
Các giáo hữu phải nộp tiền để xin
an táng thi hài và chuộc lại y phục của cha. Còn thủ cấp của cha thì bị bêu lên
cây ba ngày rồi thả trôi sông, sau các thuyền chài vớt được đem về tôn kính.
Năm 1865, Đức thánh cha Piô X suy tôn cha Gioan Théophane Vénard Ven lên bậc
chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc
Hiển thánh.
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng rất ngưỡng
mộ đời sống và những suy tư của cha Gioan Théophane Vénard Ven, thánh nữ đã
trích dẫn nguyên đoạn văn cha viết cho thân phụ rồi tiếp: “Tư tưởng và tâm hồn
của tôi cũng giống như tư tưởng và tâm hồn của ngài.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét