Lời Chúa: Chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.
Khi
ấy, có người mắc bệnh phong đến gặp Đức Giê-su, anh ta quỳ xuống van xin rằng :
“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Đức Giê-su chạnh lòng
thương giơ tay đụng vào anh và bảo : “Tôi muốn, anh hãy được sạch !” Lập tức, bệnh
phong biến khỏi anh, và anh được sạch. Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi
ngay, và bảo anh : “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện
tư tế ; và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền,
để làm chứng cho người ta biết.” Nhưng vừa đi khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền
và loan tin ấy khắp nơi, đến nỗi Đức Giê-su không thể công khai vào thành nào
được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi
kéo đến với Người.
SUY NIỆM & CẦU NGUYỆN
Bài Tin Mừng hôm nay đề cập tới việc
Chúa Giêsu chữa lành một người mắc bệnh phong cùi, xã hội Do-thái hồi đó liệt
những người mắc bệnh cùi vào hạng người tội lỗi, cùi là hậu quả của tội. Người
mắc bệnh cùi bị đẩy ra khỏi vòng pháp luật, bị tách riêng ra khỏi xã hội bình
thường. Họ bị tách biệt khỏi cộng đồng xã hội về đời sống và tôn giáo. Thánh
Mác-cô diễn tả một cách rất hợp lý về việc Chúa Giêsu chữa lành một người mắc bệnh
phong cùi, người mắc bệnh hiểm nghèo này đã đi bước trước, anh đã đến với Chúa
Giêsu, van xin Ngài chữa lành bệnh cho anh. Van xin có nghĩa là anh kêu cầu tha
thiết, xin Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật cho mình, để anh được khỏi bệnh và được
gia nhập trở lại với cộng đồng xã hội và tôn giáo.
Trong những ngày này, chúng ta chuẩn bị
đón mùa xuân mới Ất Mùi đến, mùa xuân gợi lại sự ấm áp tình yêu thương của các
gia đình và các đoàn thể. Tuy vậy, nếu có những người vui niềm vui sum họp gia
đình, thì vẫn còn những người đang tìm một mái ấm hoặc đang khao khát tình
thương. Qua việc Chúa chữa người phong cùi, chúng ta đã đọc bài Tin Mừng hôm
nay. Là chúng ta phải quan tâm chia sẻ tinh thần vật chất đối với những người bất
hạnh. Xuân đến, có nhiều người không có tết vì quá nghèo hoặc bị bỏ rơi, những
cử chỉ bác ái khi tết đến xuân về, là một trong những nét đẹp truyền thống của
dân tộc Việt, nhất là khi những chia sẻ ấy được thực hiện trong tinh thần bác
ái Kitô giáo. Xin cho chúng ta mạnh dạn đến với Chúa và quảng đại đối với tha
nhân, để chúng ta hưởng trọn vẹn niềm vui mà mùa xuân đem đến cho mọi người
chúng ta, trong tinh thần: “ Mến Chúa yêu người”.
Xin Chúa cho chúng con sự thinh lặng để
lắng nghe tiếng Chúa, để chúng con thực hành các công việc thường ngày là giúp
đỡ những người chung quanh chúng con, nhất là những người bất hạnh và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để chúng
con cũng giống nên như Mẹ Maria, để chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh từ sự
phục sinh của Chúa. Và làm chứng cho những người khác rằng: Chúa vẫn đang sống
hiện hữu giữa cộng đoàn chúng ta. Amen.
Ngày 15/02 – Thánh
Claude la Colombière, Linh mục (1641-1682)
Đây là ngày đặc biệt của
Dòng Tên (Society of Jesus), ngày kính một trong các thánh riêng của Dòng. Đây
cũng là ngày đặc biệt đối với những người có lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu
mà thánh Claude la Colombière truyền bá, cùng với người bạn tâm linh là thánh
Margaret Maria Alacoque.
Ngài sinh ngày 2-2-1641
tại St. Symphorien d'Ozon ở Dauphine, là con thứ ba trong một gia đình quý tộc,
cha là Bertrand La Colombière và mẹ là Margaret Coindat. Rồi gia đình chuyển đến
Vienne, tại đây ngài được đi học. Sau đó ngài được học hùng biện và triết học ở
Lyon. Lúc 17 tuổi, ngài là tập sinh Dòng Tên tại Avignon. Ngài khấn lần đầu năm
1660. Học xong triết học, ngài dạy văn phạm và văn chương 5 năm. Năm 1666, ngài
học thần học tại Paris. Rồi ngài dạy cho các con của vua Louis XIV, và ngài vừa
giảng phòng vừa làm tuyên úy cho vài hội dòng Đức Mẹ Maria.
Sự nhấn mạnh vào Tình
Yêu Chúa là “thuốc giải độc” đối với sự tuân thủ luân lý nghiêm ngặt của phái
Gian-xen (*) phổ biến vào thời đó. Thánh nhân có tài diễn thuyết từ trước khi
thụ phong linh mục ngày 2-2-1675. Hai tháng sau, ngài được bầu làm bề trên một
tu viện ở Burgundy. Ở đó ngài đã gặp thánh Margaret Maria Alacoque. Nhiều năm
sau ngài là linh mục giải tội cho thánh nữ. Rồi ngài được sai tới Anh làm linh
mục giải tội cho nữ công tước York. Ngài rao giảng vừa bằng lời nói vừa bằng
gương sống thánh thiện, và ngài đã khiến nhiều người Tin Lành trở lại đạo Công
giáo.
Cuối năm 1678, ngài bị
bắt vì bị vu khống có dính líu nhóm Titus Oates – nhóm mưu đồ theo chủ nghĩa
giáo hoàng (papist plot). Hai ngày sau, ngài bị đưa tới khám King's Bench
Prison theo lệnh Hoàng gia Anh, cảnh tù khắc nghiệt khiến sức khỏe ngài giảm
sút, dù chỉ 3 tuần, trước khi bị trục xuất về Pháp. Mùa hè năm 1681, ngài trở lại
Paray trong tình trạng yếu sức. Ngày 15-2-1682, Chúa nhật I mùa Chay, ngài bị
xuất huyết nặng và qua đời.
Ngày 16-6-1929, ngài được
ĐGH Piô XI phong chân phước. Năm 1992, ngài được ĐGH Gioan-Phaolô II phong hiển
thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét