* Lời kinh và ước vọng
Lạy Chúa Giêsu rất dịu hiền là cha của lòng con. Xin Chúa vì
cuộc tử nạn thánh, vì công nghiệp và lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin đoái thương đến
bác của con, Đưc Giám mục Đaminh. Xin gìn giữ bác khỏi mọi sự dữ. Xin cho bác
yêu Chúa thiết tha, trung thành phục vụ Chúa suốt cuộc đời. Và nếu cần để tôn
vinh và làm hiển danh Chúa hơn, xin cho bác được phúc đổ máu mình và hiến dâng
mạng sống cho tình yêu Chúa để làm chứng cho đức tin. Amen.”
Đó là lời kinh mà Đức Cha Minh từ miền truyền giáo Việt Nam
đã soạn gửi về quê nhà cho cháu mới năm tuổi đọc cầu cho bác. Cô bé đã dâng lời
nguyện đó hằng ngày, dù em biết rất ít về người bác mình. Khi bà con lối xóm hởi
em về ông bác giám mục, em chỉ biết thưa: “Bác tên Đaminh, tu dòng Đaminh, đang
truyền giáo ở xa, thật xa, nơi mà người ta đang tàn sát các Kitô Hữu”. Và chúa
đã nhận lời khẩn xin tha thiết của hai bác cháu tại hai phương trời xa xăm đó.
* Theo tiếng gọi truyền
giáo.
Đaminh Henares sinh ngày 19.12.1765 tại làng Baena, giáo phận
Cordoda, nước Tây Ban Nha. Một vài năm sau, gia đình dọn về Granada, nơi cậu đã
lớn lên và theo học các lớp phổ thông, được thừa hưởng nơi người mẹ lòng đạo đức
sốt sắn, Đaminh Henares đã biết cách phát triển nó một cách tuyệt vời.Trong khu
phố, các phụ huynh thường nhắc đến cậu như một mẫu gương cho con cái mình. Còn
bản thân cậu, càng ngày càng sôi sục trong lòng tiếng Chúa kêu gọi vào đời sống
tu trì. Năm 16 tuổi, Henares xin nhập dòng tu Đaminh ở tỉnh Granada. Nhưng mãi
đến ngày 30.08.1783, cậu mới được lãnh tu phục dòng tại tu viện Guadix (18 tuổi),
năm sau thì tuyên khấn và theo học triết học. Ngay từ niên khóa đầu, thầy
Henares đã tỏ ra là một sinh viên xuất sắc, nên cuối năm đó, khi thầy xin phép
chuyển qua tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi để được truyền giáo ở Việt Nam, các bề
trên đều tiếc nhớ. Thầy Đaminh đã nhận ra tiếng Chúa kêu mời qua lời cổ động khẩn
thiết của Đức cha Obelar Khâm, giáo phận Đông đàng Ngoài: Đã 15 năm giáo phận
chưa thêm được một thừa sai nào cả.
Thế là thầy Henares liền tham gia một nhóm tu sĩ trẻ lên đường
đến Phi Luật Tân dưới sự dẫn dắt của tu sĩ Delgado. Kể từ nay cuộc đời hai vị gắn
liền với nhau một cách khăng khít. Sau hơn một năm lênh đênh trên biển cả, vượt
Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, phái đoàn đã cập bến Manila ngày 09.07.1786.
tại đây thầy Henares vừa tiếp tục học thần học, vừa dạy văn chương cho học sinh
trường Santo Tomas. Ngày 20.09.1789 thầy thụ phong linh mục và được gửi đi truyền
giáo tại Bắc Việt. Khi thuyền đến Macao, cha Henares gặp lại linh mục Delgado
đã khởi hành trước một năm nhưng vẫn chưa tới Việt Nam. Hai cha cùng với hai thừa
sai khác là Vidal và Gatillepa, cả bốn vị đã vào lãnh thổ giáo phận Đông Đàng
Ngoài ngày 29.10.1790, trong niềm hân hoan của cả giáo phận, vì khi đó chỉ còn
ba vị thừa sai, mà tất cả đều đã cao niên.
Riêng cha Henares Minh, với tuổi trẻ 25, cha học tiếng Việt
rất nhanh chóng. Sau sáu tháng, cha đã được trao phó việc coi sóc chủng viện
Tiên Chu. Trong nhiều năm, cha kiên trì dạy các chủng sinh học tiếng Latinh và
giúp họ rèn luyện các nhân đức. Từ năm 1789, giữa cơn bách hại của vua Cảnh Thịnh,
cha được tỉnh dòng ủy nhiệm làm bề trên phụ tỉnh (cha chính) các cha dòng
Đaminh tại Việt Nam. Năm sau, khi đức cha Alonso Phê qua đời, Đức cha Delgado Y
lên kế vị, cha Minh được đặt làm cha chính của giáo phận. Ngày 09.09.1800, Đức
cha Piô VII bổ nhiệm cha làm giám mục hiệu tòa Fez và Giám mục Phó có quyền kế
vị của Đức cha Delgado Y. Nhưng tình hình Việt Nam căng thẳng, sau hai năm sắc
phong mới tới xứ truyền giáo.
* Vị mục tử nhân hiền.
Ngày 09.01.1803 là ngày hội lớn của toàn giáo phận Đông Đàng
Ngoài. Các thừa sai ngoại quốc, hơn 30 linh mục Việt Nam, hàng chục ngàn giáo
dân từ các nơi tuốn về Phú Nhai tham dự lễ tấn phong Giám mục phó Henares Minh,
khởi đầu một giai đoạn bình an kéo dài hơn 20 năm. Hai vị giám mục Delgado Y và
Henares Minh, hai anh em “sinh đôi” như một số người quen gọi, cùng mang những
thao thức như nhau, cùng được đào tạo một nơi, cùng đến đất Việt một ngày. từ
nay luôn tâm đầu ý hợp, cùng nhau đưa giáo phận đến giai đoạn cực thịnh. Hai vị
chia nhau đến thăm từng họ đạo nhỏ nhất. Đức cha Minh với tinh thần phục vụ
cao, thường chọn cho mình những họ đạo xa hơn, thuộc trấn Kinh Bắc, nơi rừng
sâu nước độc mà trước đó ít năm, Đức cha Phê đã bỏ mạng vì bệnh sốt rét rừng.
Linh mục Hermosilla Vọng đã viết về Đức cha Minh như sau:
“Ngài là một thủ lãnh thanh khiết trong đời sống, là vị mục tử nhiệt tâm không
hề mỏi mệt vì ơn cứu độ các linh hồn và là đấng khao khát mãnh liệt phúc tử đạo.
Ngài sẵn sàng lên đường bất cứ lúc nào trách nhiệm đòi hỏi, dù đang nửa đêm
khuya vắng. Ngài có lòng đạo đức trổi vượt, biểu lộ qua việc cầu nguyện không
ngừng, đồng thời siêng năng nghiên cứu các giáo phụ. Ngài sống nghèo khó Tin Mừng
thực sự, và như một người cha hiền dịu, ngài quảng đại với những người xấu số
nhất. Đó là những nhân đức chính mà ngài luôn nêu gương”.
Với lòng khiêm tốn, bác ái, Đức cha Minh nhiệm nhặt với
mình, nhưng lại rộng lượng với mọi người. Tuy bận rộn với bao công việc của
giáo phận, ngài vẫn tự may vá lấy y phục của mình, và cố gắng sửa lại những quần
áo cũ để phân phát cho người nghèo. Nhờ biết chút ít về nghề thuốc, Đức cha là
ân nhân của nhiều người bệnh tật. Đi đâu ngài cũng mang theo một hộp nhỏ đựng
thuốc phát cho bệnh nhân nan y, mọi người đều cho là họ được khỏi do lời cầu
nguyện và chúc lành hơn là nhờ thuốc.
* Nếu giờ chưa đến.
Chính tráp đựng thuốc bác ái đó một lần kia đã cứu ngài
thoát chết. Khi ngài đang ở họ Thượng Hộ thuộc Sơn Nam Hạ thì bị một nhóm cướp
bắt cóc để tống tiền. Giữa đêm chúng lẻn vào nhà, bắt và dẫn Đức cha vào rừng.
Bỗng tên cướp ôm chiếc tráp thuốc vấp ngã, những chai lọ đổ lỏng chỏng ra
ngoài, một vài dụng cụ kim loại lấp lánh trong đêm, khiến chúng tưởng là vàng bạc
xô lại trang giành, Đức cha liền nhanh chân náu mình trong một bụi cây rậm rạp
gần đó. Đám cướp sục sạo một lát thì trời tảng sáng và nghe dân làng đánh kẻng
báo động đi tìm Đức cha, họ ùa nhau bỏ chạy.
Theo ý Tổng trấn Hà Nội Nguyễn Văn Thành, ông muốn tổ chức một
buổi trao đổi công khai về tôn giáo. Đức cha Minh cùng đức cha Longer Gia giáo
phận Tây Đàng Ngoài nhận lời và đưa ra đề tài: “Không ai được bắt ép người Công
Giáo làm việc dị đoan”. Nhưng vì tổng trấn không chấp nhận đề tài đó, nên cuộc
trao đổi phải bãi bỏ. Đức cha Minh thấy vậy đã nhận định rằng: “Bao lâu còn thiếu
ánh sáng bởi trời thì dù lý luận mấy cũng vô ích”.
Khi vua Minh Mạng lên ngôi được vài năm, miền bắc có nhiều
cuộc khởi nghĩa: Lê Duy Lương, Nùng Văn Vân. Ở Nam Định và Hải Dương có Phan Bá
Vành. Nói chung dân Bắc Hà vẫn còn hoài nhớ triều Lê, chứ không ưa triều Nguyễn.
Chính Gia Long phải mượn cớ phò Lê để thống nhất cả nước. Lúc đó, thế lực nhóm
Phan Bá Vành ngày càng lớn, năm 1826, vua Minh mạng phải cử Lê Văn Duyệt và
Nguyễn Công Trứ ra đánh dẹp. Quân của Vành thua rút vào làng Trà Lũ, cầm cự được
ba tháng, mới bị bắt, cuộc chiến thắng này có phần đóng góp của hơn 300 giáo hữu,
thế nhưng vì trong số tù nhân cũng có những người Công Giáo, họ khai là có biết
Đức cha Minh và 10 cha dòng người Việt, khiến từ đó Đức cha bị ghi vào “sổ đen”
của nhà vua.
Ngày 13.05.1827, Tổng đốc Nam Định thừa lệnh nhà vua đem 800
quân và voi trận đến vay Trà Lũ bắt Đức cha, nhưng ngài đã kịp biết tránh đi
nơi khác. Dù rất mong mỏi được đổ máu làm chứng cho tình yêu Chúa, Đức cha thường
tâm sự rằng tử đạo là ơn phúc trọng đại, không ai được tự tiện liều lĩnh ngoài
thánh ý Chúa. Tiếp theo đó là 10 năm phục vụ, tuy có phần khó khăm âm thầm hơn,
nhưng nói chung giáo phận Đông Đàng Ngoài vẫn tương đối được bình an. Cho đến
tháng 04.1838, vì phát hiện sáu lá thư của cha Viên gởi cho giám mục và bốn
linh mục, nhà vua biết có sự hiện diện của các ngài. Vua đã khiển trách Tổng đốc
Trịnh Quang Khanh nặng lời, và phái thêm 2000 lính kinh đô ra tăng viện, quyết
lùng bắt hết các giáo sĩ. Đức cha Minh và thầy Chiểu phải bỏ Tiên Chu đi ẩn tại
Kiên Lao, gần chỗ Đức cha Y và hai vị thừa sai khác. Ngày 28.05, khi Đức cha Y
bị bắt, Đức cha Minh đang lánh thân trong nhà bà Tư, giả bộ xay lúa, mỗi khi
quân lính đi ngang, bà Tư lấy nong che mặt cho ngài.
* Bản án phải được sửa
lại.
Tối hôm đó, Đức cha Minh bỏ nhà bà Tư đi sang làng Trung
Thành, rồi làng Quần Anh và Xương Điền. Khi thấy quân triều đình lảng vảng theo
dõi, Đức cha và thầy Chiểu xuống thuyền đi ngược ra biển. Một ngư phủ ngoại
giáo nói với các tín hữu: “Coi chiếc thuyền ngược gió kia, tôi đóan là một thừa
sai chạy trốn cuộc bách hại mà chưa biết về đâu. Các bác tìm cách đưa ngài vào
đây, tôi sẽ lo liệu chỗ trọ và che dấu giùm cho”. Quá tin vào ông ta, các tín hữu
ra mời ngài trở lại, ai ngờ ông ta đi báo quan quân đến bắt đức cha và thầy Chiểu
tại nhà mình.
Quan phủ Xuân Trường đối đãi với Đức cha khá tử tế, nhưng vì
sợ nhà vua, ông đành phải đóng cũi và ván ép giải lên Nam Định ngày 11.06.1838.
tại đinh Tổng đốc, có hai chiếc cũi của ngài và của đức cha Y được đặt gần
nhau, hai vị nói truyện với nhau bằng tiếng Tây Ban Nha. Không rõ các vị nói những
gì, nhưng chắc chắn quả là niềm an ủi lớn lao, khi được chia sẻ với nhau những
tâm sự thầm kín. Gần nửa thế kỷ sát cánh bên nhau để phục vụ giáo phận trên đường
về Thiên Quốc. Mọi người thấy rõ niềm vui lộ trên khuôn mặt của hai vị.
Khi quan tòa đòi Đức cha Minh phải ký vào bản án đã viết sẵn,
ngài yêu cầu cho nghe trước rồi mới ký. Vừa nghe đọc hai chữ “Tả Đạo”, Đức cha
cắt ngang: “Xin quan sửa lại chữ đó thành đạo Đức Chúa Trời”. Quan đồng ý và sửa
lại. Khi đọc đến chữ “.lừa đảo ngu dân”, Đức cha lại lên tiếng: “Không đúng,
chúng tôi không lừa đảo ai, chúng tôi chỉ đến đây giảng đạo chân chính”. Đức
cha không chịu ký vào cho đến khi quan đồng ý sửa bản văn lại. Ngày 12.06.1838,
bản án được gửi về kinh đô, nhà vua châu phê và gởi lại Nam Định ngày
25.06.1838, Đức cha còn được một ngày để chuẩn bị tâm hồn lãnh phúc tử đạo.
* Chứng tá cuối cùng.
Một số binh sĩ Công Giáo giữ đạo cách bí mật đã bỏ tiền ra
xin được vinh dự khiêng cũi Đức cha. Và trước khi khởi hành ra pháp trường, nhiều
binh sĩ đã trót nhát sợ đạp lên Thánh Giá, đến quỳ khóc lóc trước cũi, xin Đức
cha cầu nguyện và tha thứ. Đức cha đã nhân ái an ủi họ và giúp họ thống hối đền
tội. Trên đường đến Bảy Mẫu, Đức cha Minh trong cũi với nét mặt hân hoan, miệng
thầm thĩ nguyện kinh và giơ tay ban phép lành cho các tín hữu đang khóc thương
hai bên đường. Thầy Chiểu mang gông đi phía sau. Cuối cùng là năm binh sĩ không
chịu bước qua Thánh Giá, trong đó có ba vị tử đạo sau này là Augustinô Huy,
Nicolas Thể và Đaminh Đinh Đạt, nhưng hôm ấy đến nửa đường, cả năm binh sĩ đều
được đưa trở về ngục.
Tại pháp trường, Đức cha Minh muốn chứng kiến cái chết kiên
trung anh dũng của người môn đệ quý yêu: thầy Phanxicô Chiểu, Đức cha xin xử trảm
thầy trước. Viên quan đồng ý. Thế là quân lính xử chém và trao đầu thầy cho vị
Giám Mục. Ngài trân trọng đón lấy, rồi ngửa mặt lên trời cầu nguyện trang
nghiêm như đang dâng lễ vật đẫm máu lên Thiên Chúa. Đến lượt mình, Đức cha
nghiêng đầu cho lý hình thi hành quân sự. Hôm đó là ngày 26.06.1838, Thiên Chúa
đã gọi Đức cha Henares Minh về trời lãnh ngành thiên tuế tử đạo, chấm dứt 73
năm trên dương thế với 48 năm phục vụ tại Việt Nam, 38 năm giám mục.
Thi hài Đức cha được lý hình an táng ngay tại pháp trường, nửa
tháng sau các tín hữu cải về Lục Thủy. Đầu của ngài bị treo ở cổng thành ba
ngày, rồi ném xuống sông Vị Hoàng, vài ngày sau một dân chài Công Giáo may mắn
vớt được, các tín hữu đưa về táng chung với thi hài. Về sau khi ngưng bách hại,
họ long trọng đưa hài cốt Đức cha về tòa Giám mục Bùi Chu.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII suy tôn Giám mục Henares Minh lên bậc
Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy
tôn ngài lên bậc Hiển Thánh.
Ngày 26 Tháng 06 Năm
1797-1838 Phanxico Đỗ Văn Chiểu Thầy Giảng Dòng Đaminh tử Đạo.
* Lễ vật đẫm máu.
Hình ảnh đáng ghi nhớ nhất trong cuộc tử đạo của thầy giảng
Phanxicô Chiểu là chiếc thủ cấp đẫm máu của thầy, sau khi rời khỏi cổ, đã được
Đức cha Minh nhận lấy, kính cẩn dâng lên cao như lễ vật tinh tuyền hiến dâng
lên Thiên Chúa. Cả pháp trường đều thinh lặng ngây ngất trong giây phút linh
thiêng có một không hai đó, giây phút kết tinh trọn cuộc đời dâng hiến của một
người con cái Chúa. Thầy Chiểu đã hòa lẫn máu mình với hy tế Đức Giêsu trên đồi
Canvê, và giờ đây hân hoan trở về trong vòng tay ấm êm của Chúa Cha từ ái.
* Một tông đồ tràn đầy
tâm huyết
Phanxicô Đỗ Văn Chiểu sinh năm 1797 tại làng Trung Lễ, giáo
xứ Liên Thủy, Tỉnh Nam Định, thuộc giáo phận Đông Đàng Ngoài. Cậu Chiểu đi tu từ
hồi niên thiếu, và được đào tạo thành thầy giảng của giáo phận. Trong thời gian
bốn năm học thần học, thầy Chiểu luôn sống đạo hạnh và có tinh thần kỷ luật
cao, nên được các vị hữu trách tín cẩn. Sau đó thầy gia nhập dòng ba Đaminh, và
trở thành cộng sự viên thân tín của Đức cha Minh.
Bận tâm lớn nhất của thầy Chiểu là phần rỗi của mọi người. Lần
kia, tại làng Kiên Lao, một người lính đến gặp thày ngỏ ý muốn được giúp xưng tội
và rước lễ để thêm can đảm trong cơn bách hại. Thầy đã tiếp truyện với anh khá
lâu, khuyến khích anh trung thành với đức tin Kitô giáo cho đến chết. Hai người
cùng nhau cầu nguyện sốt sắng trước khi chia tay. Lần khác khi nghe tin người
em bị bắt vì đạo, thầy xin cha Hiển dâng hai thánh lễ cầu cho người em được cam
đảm chấp nhận mọi gian khổ để tuyên xưng đức tin.
* Cùng chung số phận.
Từ năm, 1838 Tổng đốc Nam Định Trịnh Quang Khanh quyết tâm
lùng bắt các vị thừa sai để lập công với vua Minh Mạng. Ông đã đem đến cho người
Công Giáo Đàng Ngoài muôn điều khổ cực. Thầy Chiểu theo Đức cha Henares Minh đến
ẩn trốn tại làng Kiên Lao, một giáo xứ lớn tương đối an toàn. Nhưng ngày
27.05.1838, do sự tố cáo của thầy đồ Hy, quan Tổng đốc đã cho lính bao vây làng
Kiên Lao. Quân lính bắt được Đức cha Delgado Y, còn Đức cha Henares Minh và thầy
Chiểu may mắn thoát nạn trong gang tấc, liền trốn ra bờ sông đi thuyền về Hải
Dương. Dọc đường đi hai cha con vào trốn tạm tại nhà ông Nghiêm gần họ Hà
Quang, xứ Trung Thành, sau qua làng Quần Anh và Xương Điền. Một ngư phủ ngoại
giáo nhận cho hai vị trú ngụ và hứa che dấu cẩn thận. Ai ngờ, ngày 09.06.1838,
chính người đó đi tố giác với quan, nên hai vị đã bị bắt. Đức cha Henares Minh
thì bị lính nhốt trong cũi, còn thầy Chiểu, quan bắt mang gông nặng và tống
giam vào ngục. Trong ngục, thầy tuyên bố : "Tôi sẵn sàng theo Đức cha Minh
cho đến chết, sẵn sàng chịu mọi cực khổ như ngài, kể cả cái chết dữ tợn nhất".
Hai ngày sau, lính phủ Xuân Trường áp giải cả hai về tỉnh Nam Định. Khi tới cổng
thành Nam Định, mặc dù cổ mang gông nặng, dù bị những ngọn roi tàn bạo, thầy
Chiểu cố cúi xuống cầm lấy Thánh Giá dưới đất lên hôn kính, rồi chờ cho cũi của
Đức cha Minh đi qua, thầy mới để Thánh Giá lại như cũ và tiến vào thành.
* Cực hình gian nan…
Tại dinh Tổng đốc, các quan tra hỏi thầy nhiều lần, lần nào
thầy cũng tuyên xưng đức tim một cách can đảm, không sợ sệt. Khi các quan bảo
thầy bước qua Thánh Giá thì sẽ được tha về, còn bất tuân thì sẽ bị xử tử, thầy
Chiểu trả lời : "Đức Chúa Trời là Chúa thật, là căn nguyên của mọi sự, người
ta phải thờ lạy kính mến ngài. Vì thế tôi không giám bước qua Thánh Giá, chắc
chắn tôi không làm được điều đó".
Dùng lới khuyên dụ không được, quan sai lính trói tay chân
thầy vào cọc rồi đánh 30 roi, nhưng thầy vẫn không nao núng. Quan truyền cho
xích thầy và tống giam vào ngục. Sau đó các quan kết án như sau: "Tên Đỗ
Văn Chiểu đã đi theo và học với tên Trùm Hai (tức Đức cha Henares Minh). Nó học
những điều giả dối. Nó ngoan cố và bất tuân lệnh vua cải tà qui chánh. Mặc dù bị
bắt giam, bị tra tấn, nó vẫn nhất mực ngoan cố theo tả đạo Gia Tô. Vậy nay nó
đáng phải chịu trảm quyết".
Các quan đệ trình bản án này về kinh đô xin vua phê chuẩn.
Trong 15 ngày bị giam, thầy Chiểu đã trải qua nhiều thử thách, chịu đòn vọt, chịu
đói khát… như thầy viết gửi thầy Quỳnh ngày 21.06: "Ở trong này tôi phải
chịu nhiều cực hính đau đớn, chịu đói khát, không có tiền mua cơm ăn. Tôi nhờ
thầy gặp các cha xin các ngài giúp đỡ tôi. Thầy xin lỗi mọi người giúp tôi nhé.
Chắc chắn tôi sẽ được tử đạo, vì nhờ ơn chúa, tôi vẫn trung thành và bề đỗ với
Ngài".
Trong khi đó, vua Minh Mạng phê bản án và gửi bản án về tới
Nam Định ngày 25.06.1838. ngay trong ngày cuối đời, thầy Chiểu còn phải đương đầu
với những dụ dỗ của các quan. Quân lính dẫn thầy ra công đường, quan đọc bản án
và hứa nếu đạp lên Thánh Giá, quan sẽ tha ngay. Thầy Chiểu bình tĩnh và mạnh dạn
trả lời : "Khi quan lớn nằm nghỉ, quan có bằng lòng để cho người con của
quan đạp lên không ? Phương chi Đức Chúa Trời là Chúa trời đất, mọi người phải
kính thờ thì làm sao tôi giám bước qua ảnh của người".
Trước lời khẳng khái của thầy, quan nổi giận và cho thầy là
xấc láo. Có ông đòi xử tử ngay, ông khác nói để đến ngày mai vì đã quá muộn, chỉ
nên cho lính đánh đòn rồi tống ngục. Thế là quân lính ra tay đánh đập cho đến
khi thầy ngất lịm với biết bao vết bầm tím trên da thịt, mới khiêng thầy ném
vào ngục thất.
* Giờ phút vinh
quang.
Sáng hôm sau 26.06.1838, quân lính dẫn Đức cha Henares Minh và
thầy Chiểu tới pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định. Tuy mang gông ở cổ, kèm thêm hai
sợi xích nối từ gông xuống đến chân, thầy Chiểu bình tĩnh lê từng bước như xưa
Chúa Giêsu vác thập giá lên Núi Sọ. Thấy nhiều tín hữu khóc lóc, thầy nói với họ
: "Anh chị em về nhà đi, đừng khóc nữa thày trò chúng tôi hôm nay về Quê
thật mà".
Tới nơi, lính mở cũi đưa Đức cha ra, và tháo gông cho thầy
Chiểu. Đức cha Minh xin chém thầy Chiểu trước để được thấy tận mắt người con
thiêng liêng của mình đã trung thành với Chúa đến giây phút cuối cùng. Viên
quan chỉ huy chấp thuận. Thế là thầy Chiểu quỳ xuống trước mặt Đức cha và lãnh
bí tích giải tội. Xưng tội xong, thầy quỳ gối cầu nguyện và kêu tên Chúa Giêsu
ba lần. Cũng như thánh Stêphanô xưa, thầy Chiểu thưa với Chúa : "Lạy Chúa,
con phó linh hồn con trong tay Ngài".
Ngay sau đó, lý hình chém một nhát trúng vào xích nơi cổ thầy,
họ phải chém thêm ba nhát nữa thì đầu mới lìa khỏi cổ, và linh hồn thầy về hưởng
phúc Thiên Đàng, thọ 41 tuổi. Lý hình tung thủ cấp thầy lên ba lần cho các quan
và mọi người thấy rõ. Thế rồi một khung cảnh trào dâng xúc động : Đức cha Minh
đã cầm thủ cấp thầy Chiểu và kính dâng lên Thiên Chúa như lễ vật hy hiến trước
khi Đức cha được phúc tử đạo. Giáo dân an táng thi thể thầy tại nơi pháp trường,
về sau di hài cốt về quê ở Trung Lễ.
Đức Lêô XIII suy tôn Chân Phước thầy Phanxicô Đỗ Văn Chiểu
ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài
lên bậc Hiển Thánh.