Lời Chúa: Dân chúng tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho
loài người được quyền năng như thế.
“ Ha-lê-lui-a.
Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã ban cho thế gian được hòa giải với Người, và
giao cho cho chúng tôi công bố lời hòa giải. Ha-lê-lui-a.”
Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng
Tồn tại đến muôn đời
Quyết định Chúa phù hợp chân lý
Hết thảy đều công minh.
Ngày 03/07 – Thánh Tôma, Tông đồ
Tội nghiệp thánh Tôma! Ngài đã từng bị gắn
mác là “Tôma đa nghi”. Nhưng nếu ngài không nghi ngờ thì ngài cũng tin. Ngài
nói một câu minh nhiên nhất trong Tân ước: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”
(x. Ga 20:24-28), đó là câu tuyên xưng đức tin đã cho các tín hữu một lời cầu
nguyện mãi mãi cho đến tận thế. Ngài cũng gợi ra một lời khen của Chúa Giêsu
dành cho các tín hữu: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).
Thánh Tôma có tiếng là can đảm. Có thể điều
ngài nói là mạnh mẽ – vì ngài chạy, cũng như những người khác, khi bị thử thách
– nhưng ngài có thể không thành thật khi ngài bày tỏ sự sẵn sàng chết với Chúa
Giêsu. Cơ hội là khi Chúa Giêsu đề nghị đi tới Bêtania sau khi Ladarô đã chết.
Vì Bêtania gần Giêrusalem, nghĩa là đi bộ ngay giữa lòng quân thù và hầu như là
chết chắc! Nhận ra điều này, thánh Tôma đã nói với các tông đồ: “Cả chúng ta nữa,
chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!” (Ga 11:16b).
Ngày 03 Tháng 07 Năm
1815-1853, Philiphê Linh Mục Phan Văn Minh Tử Đạo.
Lời nguyện là thần
lương
Bên kia bờ sông Long Hồ, tỉnh
Vĩnh Long trước khi đến Cái Sơn Bè, theo thói quen người ta dọn một bữa ăn ngon
cho tử tội trước khi xử trảm. Nhưng tử tội linh mục Philphê Minh đã từ chối, chẳng
phải lo sợ hãi nuốt không nổi, vì trên đường ra pháp trường cha đã chẳng luôn
hiên ngang tươi cười đó sao ?
Thế nhưng chỉ còn ít phút nữa để
hoàn thành sứ mạng nơi trần thế, ít phút nhưng không phải khoảng thời gian tầm
thường, ít phút là cao điểm của một kiếp nhân sinh. Để sống trọn vẹn vài phút
đó, cha Minh đã chọn một thức ăn khác, như một thứ lương thực cần thiết cao quý
hơn : cha quỳ xuống ngửa mặt lên trời âm thầm cầu nguyện. Và sau bữa ăn tâm
linh cuối cùng, cha nói ngắn gọn với lý hình : “Đã xong rồi.”
Một hồi chiêng trống vang lên, thời
gian như chùng lại trang trọng và linh thiêng trong giờ phút cuối cùng của đời
cha. Những giây phút thật ý nghĩa, thật trọn vẹn thật tràn trề trôi qua, cha được
bước vào cõi hạnh phúc vĩnh cửu sau khi lý hình vung nhát gươm kết liễu cuộc
hành trình làm chứng cho Đức Kitô.
Soạn giả từ điển
Sinh trưởng trong một gia đình đạo
đức và lễ nghĩa thuộc làng Cái Mơn, huyện Mỏ Cày, tỉnh Vĩnh Long, năm Ất Hợi
(1815). Philiphê Phan Văn Minh con ông Đaminh Phan Văn Đức và bà Anna Tiếu, là
người con út trong gia đình có 14 anh chị em. Cha mẹ cậu mất sớm mọi việc trong
nhà đều do một mình người chị đảm đang “người chị thư’ hai” này đã lo cho các
em cả về vật chất lẫn tinh thần. Cậu Minh được học hỏi giáo lý chu đáo để rước
lễ lần đầu, rồi lãnh nhận bí tích thêm sức năm 13 tuổi. Sau đó cậu được Đức
Cha Tabert Từ, nhận cậu cho đi học chủng
viện Lái Thiêu. Nhưng chỉ ít lâu, do sắc lệnh cấm đạo 1833 của vua Minh Mạng chủng
viện phải giải tán.
Thời gian này thầy Minh được theo
Đức cha Từ qua Thái Lan, rồi đến trọ tại chủng viện Pénang, Mã Lai. Thầy có
vinh dự được Đức Cha gọi qua Calcutta (Ấn
Độ) để hợp tác với ngài soạn bộ từ điển LaTinh – Việt Nam năm 1838. khi Đức Cha
qua đời thầy lại trở về Pénang tiếp tục học thần học, các giáo sư và bạn đọc đều
quý mến thầy, một sinh viên xuất sắc, học giỏi và có tinh thần đạo đức.
Vị tông đồ hăng say
Hết thời gian học tại Pénang, thầy
Minh trở về nước và được Đức Cha Cuênot Thể, truyền chức linh mục năm 1840 tại
Gia Hữu. Sau khi vua Minh Mạng băng hà, giáo hội được hưởng một thời kỳ an bình
dễ chịu hơn. Vua Thiệu Trị lên ngôi tuy không huỷ bỏ những sắc lệnh cấm đạo,
nhưng không gắt gao thi hành như trước nữa. Nhờ đó cha Minh có thể đi thăm viếng,
dạy kinh cho các tín hữu ở vùng Tiền Giang, Hậu Giang. Những làng như Đầu Nước, Xoài Mút, Chợ Búng, Ba Dòng, Cái
Nhum, Cái Mơn, Bãi San, Chà Và, Mặc Bắc đều còn ghi dấu chân truyền giáo của
cha. Khi vua Tự Đức lên ngôi năm 1847, việc cấm đạo vẫn lắng dịu ít lâu. Nhưng
sau đó lại trở nên dữ dội hơn bao giờ hết.
Sau chiếu chỉ tháng 08.1848, và
nhất là chiếu chỉ tháng 03.1851 truyền phải chém đầu thả trôi sông Tây dương đạo
trưởng, tra tấn và xử tử các các giáo sĩ
bản quốc cố chấp, phát lưu những người theo giatô tả đạo. Vua còn ghi rõ các
quan phải triệt để thi hành mệnh lệnh này.
Trong tình hình hết sức khó khăn
đó, cha Minh vẫn bình tĩnh chu toàn bổn phận của một mục tử : cha vẫn đi lại
khuyến khích các tín hữu, mở các lớp giáo lý và trao ban các bí tích.
Khi đó ở làng Mặc Bắc, có một người
tên Nhẫn, vì có lần xin tiền cha Lựu không được, nên để tâm thù oán và đi tố
giác với quan. Ngày 26.02.1853, quan sai lính đến vây nhà ông trùm Lựu nhưng
cha Lựu đã đi nơi khác, còn cha Minh và vài chủng sinh đang ở trọ đó. Để cứu
cha Minh ông trùm Lựu đứng ra nói : “Thưa quan không có đạo trưởng Lựu ở đây. Lựu
chính là tên tôi.” Họ thấy dáng dấp cụ chỉ là nông dân lam lũ, nên tiếp tục đi
lục soát khắp nhà. Khi đó cha Minh sợ quan quân, vì mình mà hại gia đình ông
Trùm, nên ra mặt nhận mình là linh mục. Thế là cùng với bảy vị chức sắc trong
vùng, cha bị bắt trói và đeo gông và đẩy đưa xuống thuyền đưa về giam tại tỉnh Vĩnh
Long. Tại đây quan tổng đốc hạch hỏi cha về các linh mục khác, những nơi đã trú
ẩn, nhưng không khai thác được gì cả. Những ngày sau quan dùng mọi cách, khi
thì dụ dỗ khi thì dọa nạt, khi quân lính kéo cha qua khỏi Thập Giá để bắt cha
chối đạo. Nhưng cha Minh vẫn giữ lập trường của mình, trung thành với Đức Kitô
và gíao hội. Thấy cha còn trẻ mới 38 tuổi, lại hiền lành học thức, các quan muốn
tìm cách cứu cha, họ không bắt cha bước qua Thập Giá nữa chỉ cần cha nói miệng
là “đã bỏ đạo” cũng được tha. Nhưng cha Minh một mực từ chối đề nghị này.
Đường về trời
Không thể làm gì hơn được, các
quan cho lính đưa cha về giam tại Tuyên
Phong chờ ngày lãnh án. Nghe án xử từ kinh đô đã gửi về cha Minh quỳ gối tạ ơn
Chúa, rồi an ủi các anh em bạn tù nên vui lòng tuân theo ý Chúa, hẹn tái ngộ
trên nước trời. Cha nói : “Xin anh em vững dạ cậy trông Chúa, ngài chẳng từ bỏ
ai và ngài sẽ thưởng công bội hậu cho những ai tận tâm tôn thờ ngài”. Cha cũng
căn dặn một tín hữu ở ngoài : tiền bạc của cha nếu còn lại, đừng phí tổn ma
chay lớn làm chi, cứ đem phân phát hết cho người nghèo. Cuối cùng ngày mong đợi
của cha đã đến. Cha vui vẻ lần chuỗi tiến ra pháp trừơng, qua bờ Sông Long Hồ đến
Cái Sơn Bé, quân lính dọn bữa ăn sau cùng, nhưng cha Minh không thiết gì nữa.
Cha chăm chú cầu nguyện, sau hồi chiêng trống rền vang. Lưỡi gươm lý hình đã
đưa linh hồn vị anh hùng tiến thẳng về thiên Quốc. Lời nguyện cầu thánh thiện
sau hết của cha Minh còn âm vang trong lòng những người hiện diện. “Lạy Chúa
xin thương xót con, lạy Đức Giêsu, xin cho con sức mạnh và can đảm chịu khổ để
vinh danh ngài. Lạy Mẹ Maria xin nâng đỡ con “.
Hôm đó là ngày 03.07.1853. thi thể
vị tử đạo được đưa về an táng dưới nền một nhà thờ mới bị đốt phá ở Cái Mơn.
Năm 1960, di cốt ngài được đưa về Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn trong dịp lễ cung hiến.
Đức Cha Lêo XIII suy tôn cha
Philiphê Phan Văn Minh lên bậc chân phước ngày 27.05.1900. Chủng viện giáo phận
Vĩnh Long đã nhận thánh Philiphê Phan VănMinh làm bổn mạng, vào ngày 19 tháng
06 năm 1988 Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II đã suy tôn ngài bậc Hiển Thánh.
eva airline
giá vé máy bay đi mỹ hãng eva
hang hang khong korean air tai tphcm
phòng vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngẫu Hứng Du Lịch
Kien Thuc Du Lich